K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 4 2020

Thành phần gọi – đáp trong bài ca dao: ai ơi. Thành phần này không hướng đến một đối tượng nào cụ thể. Có nghĩa là đối tượng mà bài ca dao hướng đến có thể là bất kì ai, là tất cả mọi người, gợi mở ý nghĩa sâu xa của lời nhắn nhủ trong bài ca dao.

27 tháng 10 2021

Thông điệp: Phải biết quý trọng thành quả mà mình được hưởng vì để có được thành quả đó, mọi người phải vất vả và chịu nhiều khó khăn. 

  Ca dao dân ca về lao động sản xuất là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm của người dân lao động trong lúc lao động mệt nhọc. Trong những câu ca dao khuyên nhủ con người biết nhớ đến công lao người lao động tôi thích nhất câu ca dao:

       “Ai ơi bưng bát cơm đầy

    Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

    Quả thật, câu ca dao là bài học quý giá về lòng biết ơn của con người mà cha mẹ, ông bà vẫn luôn dạy bảo chúng ta. Vậy cần hiểu nghĩa câu ca dao là gì? Hạt cơm là thứ được làm chín bằng cách nấu từ hạt gạo của cây lúa. Hạt gạo, hạt cơm còn được ví như hạt vàng, hạt ngọc của con người. . Khi bưng bát cơm lên ăn, người ăn cần nhớ đến sự khó khăn, vất vả, cực nhọc của người nông dân mà trân trọng, nâng niu từng hạt cơm cũng như trân trọng sức lao động của con người khi làm ra hạt cơm đấy. Câu ca dao vừa ca ngợi đức tính cần cù của người dân Việt Nam vừa khẳng định, đề cao giá trị của bông lúa hạt gạo.

    Vậy tại sao cần trân trọng, nâng niu hạt cơm và sức lao động con người? Tại sao cần biết ơn họ? Hạt gạo nuôi sống tất cả chúng ta. Và ai là người có công làm ra hạt gạo ấy? Không ai khác đó là người nông dân lao động cần cù, một nắng hai sương, chịu thương chịu khó. Để làm thành một bát cơm người nông dân mất bao công sức. Đầu tiên là cày bừa, làm đất, đắp bờ, cắt cỏ, tưới nước. Sau đó người noonh dân lại mất công gieo mạ, cấy, chăm bón cho cây lúa để nó trưởng thành và thu hoạch. Thu hoạch về lại mất thêm công phơi, giã, xay, giần, sàng… để cho ra hạt gạo. Từ hạt gạo đó mới có thể nấu thành cơm. Nếu thời tiết thuận lợi, cây lúa phát triển tốt người nông dân mới có thể an lòng. Gặp năm trời hạn hán hay mưa lụt là mất mùa, việc làm ra hạt gạo lại khó khăn gấp bội phần. Vì vậy việc biết ơn những người làm ra hạt gạo là cần thiết, trân trọng từng hạt cơm là điều đáng quý.

    Tuy nhiên, hiện nay có một số người còn có cách ăn uống lãng phí… Nấu cơm thừa nhiều thì đổ đi, ăn cơm bỏ bữa… Có người ăn cơm quán vì sĩ diện mà lúc nào cũng bớt lại một phần mà không ăn, cũng không bọc gói mang về. Đó là biểu hiện của việc không biết trân trọng lao động, không biết trân quý hạt cơm. Bản thân tôi cũng từng bỏ bữa hoặc đổ cơm thừa vào thúng rác. Tôi nhận ra đó là lãng phí, là vô ơn với những người lao động. Từ nay tôi sẽ khác, nếu có cơm thừa tôi dành phần đó cho con gà, con lợn trong nhà cũng là ý tưởng hay chứ sao. Có như vậy mỗi bông lúa, hạt gạo, hạt cơm được làm ra mới thực sự ý nghĩa.

    Bên cạnh đó cũng có rất nhiều câu tục ngữ khác cũng đề cao giá trị của lòng biết ơn như” “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng” hay “Uống nước nhớ nguồn”.

    Tóm lại, qua câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” mỗi chúng ta lại thêm thấm thía về ý nghĩa của lao động và sự sống. bài học về biết ơn lại càng được khắc sâu trong lòng mỗi người.

21 tháng 5 2019

Trong những câu dân gian nói về lao động, em thích nhất câu ca dao:

"Ai ơi bưng bát cơm đầy,

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần".

Câu ca dao như một lời nhắn nhủ chứa chan tình nghĩa "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" mà ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo vẫn hàng nhắc nhở chúng ta.

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta được gọi là hạt ngọc, hạt vàng. Bát cơm dẻo thơm ta ăn hằng ngày, các loại bánh như bánh cốm, bánh chưng, bánh giầy, bánh phở... những món ăn ngon đều được chế biến từ hạt gạo. Cốm Vòng dẻo thơm bọc trong lá sen xanh, ai đã được một lần thưởng thức cái thức dâng của Trời, cái ngọt ngon của đồng quê nội cỏ nước Nam.

Ai đã làm ra hạt gạo để mọi người được bưng những bát cơm đầy dẻo thơm, được no ấm? Chính là người dân cày Việt Nam đã một nắng hai sương, quanh năm vất vả cày bừa, cấy hái, làm cỏ, tát nước, bón phân, bắt sâu mới làm nên những mùa vàng. Trời mưa gió, lúc bão táp mưa sa, lúc nắng hạn, đồng khô nứt nẻ, làm ra bát cơm ngon lành, dẻo thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi vật lộn với lo âu vất vả, nếm trải "đắng cay muôn phần".

Câu ca dao đã ca ngợi đức tính cần cù, chịu khó và tinh thần sáng tạo của người nông dân Việt Nam. Họ là động lực, là nguồn sống của xã hội. Nhờ họ mà mọi người, mọi nhà được no ấm. Nhờ họ, mà đất nước ta có nhiều triệu tấn gạo xuất khẩu. Nhờ họ mà quê hương ta ngày một giàu có, thịnh vượng.

Câu ca dao còn ca ngợi và khẳng định giá trị của bông lúa, hạt gạo. Nó nhắc nhở mọi người khắc sâu trong trái tim mình lòng biết ơn người dân cày Việt Nam.

Từ câu ca dao, em nghĩ về đất nước, tự hào về nền văn minh sông Hồng, nền văn minh trồng lúa nước. Em nghĩ về nền nông nghiệp nước ta đang trên đà phát triển, hiện đại hóa. Điện và máy móc (máy cày, máy bừa, máy gặt đập liên hợp, máy bơm nước,...) đã đến với đồng quê. Mỗi năm đất nước ta sẽ sản xuất được 50 triệu, 100 triệu tấn lúa... là mơ ước của cả dân tộc.

Học câu ca dao: "Ai ơi bưng bát cơm đầy - Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần", bài học "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" càng trở nên sâu sắc, thấm thía.



 

22 tháng 10 2019

Thành phần gọi đáp: bầu ơi. Đây chỉ là lời gọi hướng tới mọi người nói chung (bầu, bí, giàn - ẩn dụ chỉ những người cùng trong một nước, có quan hệ gắn bó)

15 tháng 11 2021

1. Bán anh em ....xa..., mua láng giềng gần.

2. Ăn .....cháo....., đá bát.

3. Có công mài sắt, có ..ngày............ nên kim.

4. Ai ơi bưng bát ...cơm....... đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay.......muôn...... phần.

5. Anh đi anh nhớ ......quê........ nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

6. Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.

7. Công cha ....như....... núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ....kính...... cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

8. Dạy con từ ..thuở...... còn thơ

Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.

9. Anh em như thể ......tay... chân.

10. Ăn ngay nói thật, ......mọi...... tật mọi lành.

11. Dĩ hòa ....vi..... quí.

15 tháng 11 2021

ai trả lời hết đc mà ko coi mạng tui cho giải thưởng là tick nhé!Đừng coi mạngvì bạn lớn rồi,trung thực lên

22 tháng 2 2021

TP gọi đáp: Trâu ơi

22 tháng 2 2021

Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

thành phần biệt lặp "trâu"

tp gọi đáp"trâu ơi"

Bài 1: Xác định thành phần biệt lập trong các câu sau và cho biết chúng thuộc thành phần biệt lập nào.1. Trời ơi, chỉ còn có năm phút!2. Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ.3. Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chã nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn thế được.4. Hãy bảo vệ trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta trước những nguy cơ gây ô nhiếm môi trường đang gia tăng.5. Ôi...
Đọc tiếp

Bài 1: Xác định thành phần biệt lập trong các câu sau và cho biết chúng thuộc thành phần biệt lập nào.

1. Trời ơi, chỉ còn có năm phút!

2. Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ.

3. Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chã nhẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn thế được.

4. Hãy bảo vệ trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta trước những nguy cơ gây ô nhiếm môi trường đang gia tăng.

5. Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa

6. Lan, bạn thân nhất của tớ, đã chuyển lên thành phố.

7. Có lẽ chiều nay trời sẽ mưa.

8. Cậu vàng đi đời rồi ông Giáo ạ.

9. Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu.

10. Hình như đó là bạn Lan

11. Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi.

12. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.

13. Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông

   Tình Bắc Nam chung chảy một dòng

14. Chao ôi, bắt gặp một người như anh ta là một cơ hội hạn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.

15. Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệt chừng như vẫn mệt mỏi lắm.

16. Hôm nay có lẽ trời sẽ nắng.

 

0
Tìm các yếu tố miêu tả và thuyết minh trong bài văn sau: “Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. " Những làn điệu dân ca đã trở thành một bài hát ru quen thuộc đi vào tiềm thức của mỗi chúng ta từ thuở còn thơ ấu. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu từ đó đến nay chưa bao giờ thay đổi. Do truyền thống của nền văn minh lúa nước nước ta, hình ảnh con trâu đã...
Đọc tiếp

Tìm các yếu tố miêu tả và thuyết minh trong bài văn sau: “Trâu ơi, ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. " Những làn điệu dân ca đã trở thành một bài hát ru quen thuộc đi vào tiềm thức của mỗi chúng ta từ thuở còn thơ ấu. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu từ đó đến nay chưa bao giờ thay đổi. Do truyền thống của nền văn minh lúa nước nước ta, hình ảnh con trâu đã sớm trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam. Trâu có hai loại: đực và cái, là loài nhai lại. Đặc điểm dễ nhận biết của trâu là không có răng hàm trên. Thân trâu rất dày, cơ bắp nhưng ngắn. có thai. Da của nó đen và rất dai nhưng lại được phủ một lớp lông mềm mại nên có cảm giác rất mịn màng. Trâu có chiếc mũi to, miệng rộng và cặp sừng hình lưỡi liềm. Trọng lượng trung bình của trâu cái là 350-400 kg và trọng lượng trung bình của trâu đực là 400-450 kg. Bước chân trâu chậm rãi nhưng đầy quyết tâm. Đuôi luôn vẫy như để cảnh báo những con ruồi không mời mà đến. Do phải làm việc đồng áng liên tục nên người trồng trọt có thói quen ợ hơi, nhai nhai. Khi có thời gian ăn cỏ, chúng nhai nhẹ để dự trữ càng nhiều thức ăn càng tốt khi cần làm việc liên tục. Đây là lý do tại sao con trâu có thể làm việc cả ngày không ngừng nghỉ. Với vẻ ngoài như vậy, trâu là loài động vật rất khỏe mạnh và chăm chỉ. Đất trồng trọt có nguồn gốc từ nền văn minh lúa nước từ lâu đã gắn liền với đời sống lao động của người dân Việt Nam. Dù công việc đồng áng nặng nhọc và sương giá rất khó khăn trong một hai ngày, nhưng người nông dân luôn có “người bạn cần cù” – chú trâu luôn ở bên cạnh giúp đỡ, cùng nhau làm việc vất vả. Dù trời nắng hay mưa, dù khó khăn đến mấy, chỉ cần có người cần, trâu sẵn sàng cùng người dân cày ruộng, mang lại sự thịnh vượng, bình an cho cả gia đình. Vì thế người nông dân chúng tôi thường nói: “Trâu là khởi đầu của sự nghiệp”. Đàn trâu chẳng cần gì ngoài vài cọng cỏ ngoài đồng và một chỗ để qua đêm. Những ngày còn bận rộn với công việc đồng áng, những lúc rảnh rỗi, đàn trâu sẽ làm bạn với tiếng sáo của cậu bé chăn cừu và những cánh diều thơ mộng trên vùng trời rộng đầy nắng và gió nhẹ. Những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đùa nghịch mà tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ với cuộc sống làng quê khó quên đến tận những năm tháng về sau. Là loài vật làm việc nên trâu còn là nguồn cung cấp thức ăn cho con người. Thịt trâu có hàm lượng protein khá cao và ít chất béo. Sữa trâu rất hiệu quả trong việc cung cấp protein và chất béo. Da trâu được sử dụng để làm mặt trống và giày. Sừng trâu được sử dụng để làm lược, sừng và các tác phẩm nghệ thuật khác. Trâu nước còn gắn liền với các lễ hội nổi tiếng như Lễ hội đấu bò ở Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, huấn luyện kỹ càng trong thời gian dài để chuẩn bị cho ngày hội. Mỗi con thú đều vạm vỡ, có cặp sừng cong nhọn, làn da sáng bóng, đôi mắt trắng như tuyết và tròng mắt màu đỏ, trông hung dữ và uy nghiêm chỉ chờ bước vào đấu trường. Giữa tiếng trống thúc giục và tiếng reo hò cổ vũ của mọi người, hai con trâu lao thẳng vào nhau một cách hung hãn, va chạm và đánh nhau. Tôi tin mọi người vẫn còn nhớ rõ hình ảnh “Trâu vàng” ở Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22. Trâu không chỉ là loài vật nuôi quen thuộc với nông dân Việt Nam mà còn trở thành hình ảnh được bạn bè quốc tế quan tâm. Con trâu đã trở thành biểu tượng của sự trung thực, sức mạnh và tinh thần thượng võ. Dựa trên hình tượng con trâu vàng, các sản phẩm vô cùng ngộ nghĩnh và độc đáo đã ra đời gồm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội mũ... Trong đời sống văn hóa, tinh thần, trâu còn là con vật linh thiêng dùng để cúng thần linh trong lễ hội lúa mới và hội đồng ruộng. Tất cả đều chứng tỏ rằng từ xưa đến nay, con trâu vẫn gắn bó mật thiết với đời sống dân tộc từ đời sống sinh hoạt đến lao động, văn hóa, phong tục và các mặt khác và đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa dân tộc, một phần của bản sắc dân tộc. Con trâu mang giá trị to lớn trong mọi mặt của đời sống con người và đã trở thành một “vai trò” không thể thiếu đối với con người, nó xứng đáng có trách nhiệm của con người để bảo vệ, yêu thương và trân trọng nó. Dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nhiều loại máy móc đã xuất hiện thay thế vai trò của con trâu trong lao động, sản xuất nhưng hình ảnh, ý nghĩa về con trâu vẫn luôn là một phần không thể thiếu trong nếp sống tinh thần của mỗi người nông dân Việt Nam. GIÚP MÌNH VỚI Ạ, MÌNH CẦN GẤP.

0
1. Tìm các thành phần khởi ngữ, thành phần tình thái, thành phần cảm thán, thành phần gọi – đáp, thành phần phụ chú trong các trường hợp sau: a) Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy. (Nguyễn Thành Long) b) Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời. (Thanh Hải) c) Bỗng nhận ra hương Ổi Phả vào trong gió se Sương...
Đọc tiếp

1. Tìm các thành phần khởi ngữ, thành phần tình thái, thành phần cảm thán, thành phần gọi – đáp, thành phần phụ chú trong các trường hợp sau:

a) Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy.

(Nguyễn Thành Long)

b) Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

(Thanh Hải)

c) Bỗng nhận ra hương Ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

(Hữu Thỉnh)

d) Mà Ông, thì ông không thích nghĩ ngợi như thế một tí nào.

(Kim Lân)

e) Chết nỗi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không?

(Nguyễn Huy Tưởng)

f) – Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

(Thế Lữ)

g) Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi, tôi bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm gì ấy trái tim tôi.

(Nguyễn Quang Sáng)

h) Thì ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm kê dừng xe lại để gặp chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện một lát.

(Nguyễn Thành Long)

2. Chuyển các câu sau thành câu có thành phần khởi ngữ:

a) Tôi không đi chơi được.

b) Không bao giờ ta đọc qua một lần một bài thơ hay mà rời ngay xuống được.

c) Con không bao giờ mặc tấm áo ấy nữa.

3. Tìm thành phần gọi – đáp trong bài ca dao sau và cho biết lời gọi – đáp đó hướng đến ai.

Cày đồng đang buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ai ơi bưng bát cơm đầy,

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

4. Tìm thành phần phụ chú trong các trường hợp sau và cho biết ý nghĩa của chúng.

a) Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.

(Thanh Tịnh)

b) Em để nó ở lại – Giọng em ráo hoảnh – Anh phải hứa với em không bao giờ để chúng nó ngồi cách xa nhau.

(Khánh Hoài)

5. Viết một đoạn văn ngắn thuyết minh về một cảnh đẹp ở quê em, trong đó có sử dụng câu chứa thành phần tình thái và thành phần cảm thán.

0