K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

 Trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là "bông hoa đầu mùa" của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu).

   Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn biến theo trình tự thời gian : Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữu đê. Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình. Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của nhứng kẻ cầm quyền với nối cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối thương cảm sâu sắc của mình trước những nối đau thương,, hoạn nạn của đồng bào.

   Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng nguy hiểm của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: Gần một giờ đêm. Trời mữa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá ; khúc sông làng X thuộc Phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.

   Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lo lắng, tất bật... tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương:... kẻ thì thuỗng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bóm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thê thảm.

   Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh : Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lữ cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi ! Sức người khó lòng định nỗi với sức trời ! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình ấy, lũ con dân đang chân lầm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thôi nào quan cha mẹ ở đâu?

   Thưa rằng : Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm trước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vưng chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

   Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viê quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn, Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mĩa mai, châm biếm và phẩn uất.

   Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc "phụ mẫu chi dân" cũng đích thân ra "chỉ đạo" việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở giữa đám dân đen đang vất vả, lấn láp, ra sức cứu đê mà lại ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ; đèn thắp sáng trưng; nha lệ kính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sê phẩy... Đặc biệt là quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy thì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đê tất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đối lập, tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, sống chết mặc bay của bọn quan lại phong kiến đương thời.

   Trên cái nền là cảnh toan chống giặc nước, chân dung "quan phụ mẫu" hiện lên rõ ràng qua nhưng nét vẽ sinh động về hình dạng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lý nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người con người đang bị đe dọa từng giờ từng phút, vậy mà " quan phụ mẫu" vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tia, hai bên nào ống bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, vỉ thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.

   Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh:... mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít... trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê... Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kỉ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thmar cảnh của dân chúng ; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.

   Trong khi thảm họa vỡ đê khủng khiếp đang ập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên duois và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường : Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bàn. Mặc cho dân tình nháo nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổ tôm. Cung cách ấy tố cáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô cùng nhân đạo của hắn.

   Nếu ở trên mặt đê, khong khí sôi động, nhổn nháo, hối hả với công việc cứu đe thì trong đình không khí cũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ : "Bát sách! Ăn"; "Thất văn... Phổng", lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, kkhi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng... Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp.

   Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại duois quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mối hiểm nguy, chết chóc đang đe dọa sinh mạng, tài sản của bao người ? Phải ! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai mịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng... Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: Mình vào được, nhưng không dám cố ăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt. Thì ra chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp để lấy lòng quan lớn. Sau khi quan xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Có người bẩm báo là có khi đê vỡ hắn trả lời thật phũ phàng : Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài.

   Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hôih thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ.

   Tính cách của tên quan phủ được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu. Về cử chỉ : Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc... Về lời nói: Tiếng thầy đề hỏi : Dạ bẩm bốc! Tiếng quan lớn truyền: Ừ, khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đồ đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cahcs cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: Ù ! Thông tôm, chi chi nảy!... Điếu, mày!

   Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên : Tiếng kêu vang trời dậy đất ngoài đê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: Bẩm, có khi đê vỡ tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt : Mặc kệ! Hình ảnh người nhà quê, mình mẩy lấm láp, áo quần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng : Đê vỡ rồi... thời ông cách cổ chúng mày.

   Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với nỗi khổ của dân chúng :

   Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đó ai dám bảo rằng : gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thẳm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch !...

   Thiên truyện khép lại bằng cảnh vỡ đê : Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi noi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không có chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao siết !

   Ở đoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm đề tài cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng : Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.

   Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh phép tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách có chủ ý nhằm nêu bật ý nghĩa của tác phẩm và khắc họa rõ nét tính cách nhân vật chính là tên "quan phụ mẫu".

   Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tae cảnh hộ đê dưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập : Nước sông Nhị lên to quá... Aay vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tả trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.

   Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổ tôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc bỏ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành, đến khi có người phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to : Ù! Thông tôm, chi chi nảy! thì độ say mê cờ bạc quả là làm cho quan lớn mất hết tính người.Nói theo lời bình của nhà văn thì hắn là loại lòng lang dạ thú.

   Nhờ khéo léo két hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truyện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỉ niềm thương cảm sâu sắc trước cảnh nghìn sâu muôn thảm của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.

6 tháng 5 2019

Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn là một tác phẩm xuất sắc, được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi đó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ.

Nội dung câu chuyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính đó là viên quan phủ. Cốt truyện diễn biến theo trình tự thời gian. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phải giữa việc ăn chơi hưởng lạc của những kẻ cầm quyền với nỗi cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó còn lên án gay gắt giữa giai cấp thống trị thối nát, bất tài và vô trách nheiejm trước tính mạng của người dân nghèo, đồng thời còn bày tỏ mối cảm thương thực sự sâu sắc của mình trước những đau thương và hoạn nạn của đồng bào.

Mở đầu cho câu truyện được tả với nhiều chi tiết cụ thể về thời gian không gian : “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.

Cảnh hằng trăm nghìn con người hốt hoảng chạy ngược xuôi lo vỡ đê, tìm mọi cách để giữ cho đê không bị vỡ trước sức tấn công khủng khiếp của dòng lũ đã được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương… “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột”.

Không khí đã diễn tới đỉnh điểm “ Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai cù củng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước ! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất. Cảnh những người dân loay hoay , tuyệt vọng chống chọi với nước lại hoàn toàn trái ngược với những gì diễn ra ở trong đình : “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu ?”

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy củng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Ở trong hai cảnh này tác giả đã kể chuyện về viên quan phủ đang chơi tổ tôm với đám quan lại và được lũ sai nha , lính hầu hạ, cung phụng tới nơi tới chốn. giọng văn lúc này tường thuật một cách khách quan, chi tiết , cụ thể nhưng mà đằng sau nó lại chứa chất về thái độ mỉa mai, châm biếm có phần phẫn uất.

Đáng ra trước tình thế đo, người phụ mẫu của dân phải ra chỉ đạo hộ dân nhưng trớ trêu thay lại ở trong đình với không khí nhàn hạ , chiễm chệ : “ đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy…”

Qua đây cho thấy quan nhàn hạ, ung dung và không hề quan tâm tới tình cảnh thảm thương của dân chúng ở phía bên ngoài. Với việc dựng lên hai cảnh tượng đối lập như vậy, tác giả có dụng ý nói lên nỗi thống khổ của dân đen phải trải qua và qua đó còn tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan vô lại .

Lúc này người độc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏn như thế , tính mạng của cải của hàng nghìn người dân đáng thương đang bị đe dọa từng giây từng phút thế mà tên quan vô lại kia lại ngồi điềm nhiên vui chơi hưởng thú vui.

“ Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt.

Từng chi tiết như khắc ghi tâm cốt của người độc, nó lại hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của người dân, làm cho người đọc tê tái cả cõi lòng, có phần uất hận, căm phẫn thay cho dân đen : … mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít… trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê…

Sự đối lập này nhằm phê phán sự tàn bạo, độc ác và vô nhân đạo của tên quan phủ và những gì mà dân chúng phải hứng chịu.

Có người bẩm báo là có khi đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: Mặc kệ! Sau đó lại tiếp tục đánh bài. Thú vui cờ bạc và những đồng tiền vơ vét được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri, nhân tính.

Tính cách của tên quan phủ còn được miêu tả khá là tỉ mỉ từ cử chỉ, lời nói tiêu biểu. “ Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc…” Khi có người chạy vào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi ! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa à ? Khi chơi bài, quan lớn tỏ ra vô cùng thành thạo: ù Ị Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày !”

Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ để tác giả thực sự thấy thương xót đồng cảm cho dân chúng : “Than ôi ! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!…”

Ở trong đoạn cuối tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả lại vừa dùng biểu cảm để miêu tả về cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống lầm than đói khỏ của nhân dân không phải là do thiên tai gây nên mà trước tiên là do thái độ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của kẻ cầm quyền đương thời.

Nghệ thuật tăng cấp được được nhà văn sử dụng tài tình xuyên suốt có tác dụng nhấn mạnh về ý nghĩa của tác phẩm, làm khắc họa rõ rệt về nét tính cách của nhân vật chính đó là tên quan phụ mẫu.

Nhờ sự khéo léo giữa việc kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc miêu tả, kể chuyện cho nên tác giả truyện sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ độc ác và qua đó bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc đối với người dân.

Trong phim NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn...
Đọc tiếp

Trong phim NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổng NGuyễn VĂn KHổngv nhân vât nào là nhân vật chính

10
4 tháng 2 2016

olm trừ điểm đấy bạn

 

12345678912345678912356789

Duyet di

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
27 tháng 12 2023

Đáp án: B. Văn bản nghị luận

8 tháng 9 2023

Tham khảo!

Loại

Thể loại hoặc kiểu văn bản

Tên văn bản đã học

Văn bản văn học

- Truyện ngắn và tiểu thuyết

 

- Thơ

 

- Truyện khoa học viễn tưởng

- Buổi học cuối cùng, Người đàn ông cô độc giữa rừng, Dọc đường xứ Nghệ, Bố của Xi-mông.

- Mẹ, Ông đồ, Tiếng gà trưa, Một mình trong mưa

- Bạch tuộc, Chất làm gỉ, Nhật trình Sol 6, Một trăm dặm dưới mặt đất

Văn bản nghị luận

- Nghị luận văn học

- Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam”, Vẻ đẹp của bài thơ “Tiếng gà trưa”, Sức hấp dẫn của tác phẩm “Hai vạn dặm dưới đáy biển”, Về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên

Văn bản thông tin

- Văn bản thông tin

- Ca Huế, Hội thi thổi cơm, Những nét đặc sắc trên “đất vật” Bắc Giang, Trò chơi dân gian của người Khmer Nam Bộ.

13 tháng 12 2022

sai

26 tháng 10 2021

văn hiến

26 tháng 10 2021

Văn hiến

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
5 tháng 10 2023

Loại

Thể loại hoặc kiểu văn bản

Tên văn bản đã học

Văn bản văn học

-Truyện ngụ ngôn

- Tục ngữ

- Thơ

- Tùy bút và tản văn

- Đẽo cày giữa đường

- Ếch ngồi đáy giếng

- Bụng và Răng, Miệng, Tay, Chân.

- Tục ngữ về thiên nhiên, lao động và con người (1), (2)

- Những cánh buồm

- Mây và sóng

- Mẹ và quả

- Cây tre Việt Nam

- Người ngồi đợi trước hiên nhà

- Trưa tha hương

Văn bản nghị luận

Nghị luận xã hội

- Tinh thần yêu nước của nhân dân ta

- Đức tính giản dị của Bác Hồ

- Tượng đài vĩ đại nhất

Văn bản thông tin

 

Văn bản thông tin

- Ghe xuồng Nam Bộ

- Tổng kiểm soát phương tiện giao thông

- Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa

8 tháng 9 2023

Tham khảo!

Loại

Tên văn bản

Nội dung chính

Văn bản văn học

- Mẹ (Đỗ Trung Lai)

 

 

- Ông đồ (Vũ Đình Liên)

 

- Người đàn ông cô độc giữa rừng (Đoàn Giỏi)

 

- Buổi học cuối cùng (An-phông-xơ Đô-đê)

 

- Bạch tuộc (Giuyn Véc-nơ)

- Chất làm gỉ (Rây Brét-bơ-ry)

- Nỗi xúc động, bâng khuâng của tác giả khi nhìn hàng cau và nghĩ về người mẹ.

- Nỗi niềm bâng khuâng tiếc nuối của tác giả khi chứng kiến một truyền thống đẹp dần bị lãng quên.

- Câu chuyện về nhân vật Võ Tòng với những đức tính tốt đẹp dù từng chịu nhiều áp bức bất công.

- Cảm xúc ngậm ngùi trân trọng của nhân vật trong buổi học cuối cùng.

 

- Cuộc vật lộn giữa con người và biển cả.

- Câu chuyện thuật lại một ý tưởng phát minh mới nhằm hướng tới ước mơ xóa bỏ chiến tranh.

Văn bản nghị luận

- Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam” (Bùi Hồng)

 

- Vẻ đẹp của bài thơ “Tiếng gà trưa” (Đinh Trọng Lạc)

- Phân tích và làm rõ tài năng của Đoàn Giỏi trong việc mô tả thiên nhiên và con người trong “Đất rừng phương Nam”.

- Phân tích và chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật làm nên vẻ đẹp của bài thơ “Tiếng gà trưa”.

Văn bản thông tin

- Ca Huế (Theo dsvh.gov.vn)

 

 

 

- Hội thi thổi cơm (Theo dulichvietnam.org.vn)

- Thuyết minh và giới thiệu về nguồn gốc, quy luật và môi trường diễn xướng của ca Huế, một thể loại âm nhạc đỉnh cao được xếp vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

- Giới thiệu về đặc điểm, luật thi và cách thi của hội thi thổi cơm ở một vài địa điểm khác nhau.

Câu 73: Tình hình văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm dưới thời Trần như thế nào?A.    Văn học chữ Hán suy tàn, văn học chữ Nôm phát triển mạnh mẽ.B.     Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều phát triển mạnh mẽ.   C. Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều không phát triển.   D. Văn học chữ Hán phát triển mạnh mẽ, văn học chữ Nôm bước đầu phát triển.Câu 74: Thầy giáo nổi tiếng nhất...
Đọc tiếp

Câu 73: Tình hình văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm dưới thời Trần như thế nào?

A.    Văn học chữ Hán suy tàn, văn học chữ Nôm phát triển mạnh mẽ.

B.     Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều phát triển mạnh mẽ.

   C. Cả văn học chữ Hán và văn học dân gian đều không phát triển.

   D. Văn học chữ Hán phát triển mạnh mẽ, văn học chữ Nôm bước đầu phát triển.

Câu 74: Thầy giáo nổi tiếng nhất dưới thời Trần là:

   A. Nguyễn Bỉnh Khiêm

   B. Chu Văn An

   C. Nguyễn Đình Chiểu

   D. Lê Quý Đôn

Câu 75: Thái ấp là:

   A. Ruộng đất của nông dân tự do.

   B. Ruộng đất của địa chủ.

   C. Phần đất đai vua ban cho quý tộc, vương hầu.

   D. Ruộng đất do vương hầu, quý tộc chiêu tập dân nghèo khai hoang.

Câu 76: Nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nghiệp thời Trần phát triển mạnh sau chiến thắng chống xâm lược Mông Nguyên là:

   A. quý tộc nhà Trần tăng cường chiêu tập dân nghèo khai hoang, lập điền trang.

   B. đất nước hòa bình.

   C. nhà nước có chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng diện tích trồng trọt.

   D. nhân dân phấn khởi sau chiến thắng ngoại xâm.

Câu 77:  Biểu hiện chứng tỏ Nho giáo ngày càng phát triển ở thời Trần là:

   A. các nhà nho được phụ trách công việc ngoại giao.

   B. các nhà nho được nhiều bổng lộc.

   C. các nhà nho được bổ nhiệm những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.

   D. các nhà nho được tham dự các buổi thiết triều

Câu 78: Ruộng đất của qúy tộc, vương hầu gọi là gì?

A.    Điền trang.

B.     Thái ấp.

C.     Tịch điền.

D.    Thổ công.

Câu 79: Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế nông nghiệp Đại Việt sau ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên là gì?

A.    bị tàn phá nặng nề nhưng được phục hồi nhanh chóng

B.     phương thức sản xuất mới được du nhập thúc đẩy kinh tế phát triển

C.     không bị ảnh hưởng

D.    bị tàn phá nặng nề, không thể phục hồi

Câu 80: Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài dưới thời Trần được đẩy mạnh ở đâu?

A. Thăng Long.

B.  Chương Dương.

C.  Vân Đồn.

D. Vạn Kiếp.

Câu 81:  Cơ quan chuyên viết sử thời Trần có tên là gì?

A.    Quốc sử quán

B.     Quốc sử viện

C.     Ngự sử đài

D.    Hàn lâm viện

Câu 82: Nhà y dược học lỗi lạc thời Trần đã nghiên cứu thành công nhiều loại cây có trong nước để chữa bệnh cho nhân dân. Ông là ai?

A. Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông)

B. Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh)

C. Phan Phu Tiên

D. Phạm Sư Mạnh

Câu 83: Nội dung nào sau đây không phản ánh được sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục?

A.    mở các trường công để đào tạo con em quý tộc, quan lại

B.     định lệ thi thái học sinh 7 năm 1 lần

C.     quy định chọn tam khôi trong kì thi Đình

D.    dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu

1
9 tháng 12 2021

73. D

74. B

75. C

76. C

77. C

78. A

79. A

80. C

81, B

82. A

83. D

21 tháng 11 2017

quá dễ! Nhưng mình không chắc đúng đâu nha!

- Văn tự sự là văn bản kể lại một câu chuyện gì đó liên quan đến cuộc sống đời thường hoặc người viết tự liên tưởng ra để người đọc thấu hiểu câu chuyện đó và từ đó rút ra bài học cho bản thân. Và văn tự sự có đan xen một chút miêu tả.

- Văn biểu cảm là loại văn bản bày tỏ cảm xúc của bản thân mình với đối tượng nào đó cần được biểu cảm,từ đó để tạo ấn tượng cho người đọc để họ cảm thông,chia sẻ. Và văn biểu cảm thường đan xen một chút tự sự và miêu tả, nghị luận.

- Văn miêu tả là loại văn bản miêu tả hình dáng của một loại đối tượng nào đó trong các không gian, thời gian khác nhau trong cuộc sống xung quanh.Để người đọc hiểu được cái giá trị của đối tượng đó và hình dung ra được.Thường đan xen biểu cảm.

Từ các định lý trên thì bạn chắc cũng biết nó khác nhau chỗ nào nhỉ!

Mình nghĩ vậy! Nếu sai ,xin lỗi nha!hehe