K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 12 2019

- Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức cau khẳng định (hay phủ định). Luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế, mới có sức thuyết phục.

Câu a và câu d là luận điểm.

Câu b là câu cảm thán.

Câu c là một luận đề, chưa phải là luận điểm.

- Luận điểm thường có hình thức câu trần thuật với từ là hoặc có (phẩm chất, tính chất... nào đó)

29 tháng 3 2016

 Điều kiện gây nên tiếng cười :

          1.Không có nét hài hước nào là không thuộc về tính chất thực thụ của con người hoặc không mang tính người. (Một cảnh vật, một động vật hay một đồ vật chỉ có thể gây cười khi chúng khiến ta liên tưởng tới vẻ hài hước của con người mà thôi).

          2.Yếu tố ngăn cản tiếng cười là sự xúc động, lòng thương xót sự trìu mến. Tiếng cười bao giờ cũng cần có sự tê liệt tạm thời của xúc cảm.

          3. Tiếng cười bao giờ cũng là tiếng cười của cộng đồng, theo tiêu chuẩn chung của mọi người.

          4.Người cười có thể chính là kẻ chủ mưu gây cười cho người quan sát. Người ta khiến ta buồn cười cũng thường không tự viết. học chỉ có thể biết khi họ đã tự gián cách với bản thân mình. Nếu họ tự biết thì họ đã không như thế.

          5.Nguyên nhân gây cười càng tự nhiên, càng dễ hiểu, thì hiệu quả càng mạnh.

          Các loại hài hước, gây cười.

          1.Hài hước, gây cười có thể là do hình thù, dáng dấp. Mọi dáng dấp, hình thù không bình thường, méo mó, dị dạng so với 1 người vốn dĩ bình thường cũng có thể gây cười.

          2.Những tư thế, điệu bộ, hoạt động hình thể gợi cho thấy sự máy móc như một cố tật, máy móc lấp đi lấp lại, hoặc là diễu nhạy kẻ khác, sự rập khuôn giống nhau (số lượng càng nhiều thì tiếng cười càng mạnh).

          3.Sự trùng lập nhiều lần của một từ, một lớp kịch, một dạng nhân vật. Mọi xử lý về hình thức trong khi cái cần thiết lại chính là nội dung. Dáng dấp của con người nhưng lại gợi ra hình thù của một vật. Hài hước của tình huống và của từ ngữ.

          4.Mọi xử lý hành động và sự kiện đan xen hay lồng vào nhau một cách máy móc.

          5.Một từ hay một câu quen miệng lắp đi lắp lại như bị dồn nén và bật ra một cách máy móc không suy nghĩ.

          5.Bị giật dây mà cứ tưởng là mình tự do, chủ động.

          7.Làm rất nhiều nhưng đâu vẫn hoàn đó. Loanh quanh mãi nhưng vẫn chỉ dẫn tới điểm xuất phát. Cố gắng nhiều nhưng kết quả chỉ là số không. Càng bắt càng hụt, càng cố tránh càng gây tai hại.

          8.Sự trùng lặp, điệp lại một lớp kịch, cùng một nhân vật trong một tình huống khác hoặc một nhân vật khác nhưng cùng một tình huống.

          9.Gậy ông đập lưng ông, kẻ ăn cắp bị mất cắp, kẻ đặt lưới bị sa lưới.

          10. Một tình huống nhưng đồng thời lại là hai sự kiện độc lập diễn ra hai chiều hướng khác nhau.

          11. Những tình huống hiểu lầm, sự kiện và ngôn ngữ nhầm lẫn.

Hài hước của ngôn từ

          Cần phân biệt sự khác nhau giữa một tinh tế với một từ hài hước và mối tương quan giữ hai loại từ đó.

          1.Cách gây cười từ một câu hài hước. Vì nói nhanh, nhịu, lúng túng mà bật ra một từ hoặc một câu không đúng ý muốn của mình. Quy luật này cũng có thể vận dụng cho hành động. Sử dụng một ngạn ngữ nhưng không đúng lúc và ý nghĩa. Sữ dụng một câu theo nghĩa đen thì đúng ra nó là nghĩa bóng. Nói ngược trình tự của câu làm cho câu nói thành vô nghĩa. Nói một câu bình thường một cách quá trịnh trọng. Đối sử với một đối tượng không đúng với thân phận của họ.

          Hài hước của tính cách

          Đây là yếu tố quan trọng nhất trong việc gây tiếng cười.

1.Máy móc theo ý định hoặc tính cách của mình bất chấp hoàn cảnh không thích ứng với lẽ phải thông thường, phong tục, tập quán, quan niệm chung của xã hội … máy móc cứng nhắc…

          2.Những lệch lạc nhưng không gây sợ hãi, thương xót…

          3.Những tật bệnh mà nhân vật không tự biết. Ví dụ : Phê phán tính nóng nảy trong khi chính mình nổi xung, chê thơ người khác khi thơ mình là thơ con cóc…

          4.Mang tính một dạng, một loại người nhiều hơn là một cá nhân riên lẻ như bi kịc.

5.Có thể có nhiều nhân vật đồng dạng trong một vở hài, ở bi kịch thì không.

6.Nói chung tính cách nhân vật hài và lệch lạc. Hướng lệch lạc rất đa dạng. Những lệch lạc trái với quan niệm, lô gích chung của xã hội.

Tóm lại :

Nhân vật bi kịch mang tính cá biệt.

Nhân vật hài kịch mang tính một dạng người.

Tầm vóc nhân vật bi kịch cao hơn ta.

Tầm vóc nhân vật hài kịch thấp hơn ta nhưng nó là một dạng nên ta cũng thường thấy trong nó ít nhiều có nét của ta.

Cái hài 

1. Bản chất của cái hài

Các nhà mỹ học Hy lạp cổ đại như Platông, Arixtốt đã xem xét và nêu lên những tư tưởng sâu sắc về cái hài. Quan niệm của Cantơ, Hêghen, Điđrô, Sinle, Tsecnưsépxki về cái hài tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều chứa đựng những kiến giải độc đáo về bản chất của cái hài.

Platông thừa nhận cái hài nhưng đồng thời cũng phản đối cái hài trong nhà nước lý tưởng của ông. Ông sợ cái hài làm cho công dân trong nhà nước lý tưởng của ông thiếu nghiêm túc, hay chọc ghẹo bề trên (Thần linh). Nhưng ông lại khẳng định thiếu hài hước không nhận thức được cái nghiêm túc… cái đối lập được nhận thức nhờ cái đối lập.

Arixtốt cho rằng, cái hài là tương phản của đẹp và xấu. Hài kịch nhằm miêu tả những người xấu nhất. Tuy nhiên, không có nghĩa là hoàn toàn độc ác, xấu xa mà chỉ có nghĩa là đáng cười – đó là một sự sai lầm, và cái xấu nào đó không gây nên nỗi thống khổ và nguy hại cho ai cả.

Cantơ lại cho rằng hài là sự mâu thuẫn giữa cái thấp hèn và cái cao cả. Tình huống hài là sự chờ đợi căng thẳng về cái gì đó mà hiệu quả không có gì cả – mà chỉ có tiếng cười, mặc dầu nó có tính phê phán. Còn Hêghen lại cho rằng hài là mâu thuẫn giữa cái giả dối, cái cơ sở hư ảo – cái có ý nghĩa, cái bền vững – cái chân lý.

Tsécnưsepxki thì cho rằng ấn tượng mà cái hài tạo ra trong con người là hỗn hợp giữa cảm giác dễ chịu và khó chịu, song ở đó, sức nặng nghiêng về phía cảm giác dễ chịu. Đôi khi nghiêng hẳn đến mức cảm giác khó chịu như không còn nữa. Cảm giác này biểu hiện thành tiếng cười.

Người ta thường nhầm lẫn giữa cái hài với tiếng cười mặc dầu cái hài gắn liền với tiếng cười song không phải cái cười nào cũng là cái hài. Như vậy, tiếng cười trước hết là một hiện tượng sinh lý (do thọc lét gây ra), thậm chí ở châu Phi có bệnh dịch cười (bệnh cười – cười mãi không ngớt). Có tiếng cười như của trẻ thơ vui đùa với cha mẹ, hoặc những cái gây cười bởi khuyết tật của bản năng cũng không phải là cái cười của cái hài. Cái cười của trẻ thơ thể hiện sự ngây thơ, trong trắng khi mới chập chững bước vào đời chưa có ý nghĩa xã hội sâu sắc, còn cái cười bởi sự khuyết tật của bản năng thường trở thành tiếng cười rẻ rúng.

Cái hài gắn liền với tiếng cười với tính cách là một phạm trù mỹ học thể hiện nội dung và ý nghĩa xã hội của nó. Chẳng hạn như Ghécxen đã cho rằng cái cười có ý nghĩa thẩm mỹ là một công cụ. Ông viết: “Tiếng cười là một công cụ phá hoại hùng mạnh nhất. Nó đánh và thiêu cháy như sét. Do tiếng cười mà những thần tượng bị sụp đổ”.

Cái cười mang tính hài đòi hỏi, trước hết, phải có một đối tượng cười, tức là cái có thể gây cười và bị cười. Trong cuộc sống có rất nhiều hiện tượng có thể gây cười, mỗi thứ một vẻ hết sức đa dạng. Song nói chung những cái cười, xét về bản chất là có mâu thuẫn hiểu như sự đối lập, không cân xứng không hài hoà.

Có cái có thể gây cười (đối tượng) lại còn có chủ thể cuời. Đây là mặt thứ hai mặt chủ quan của cái hài, không có nó không có cái hài. Bản thân đối tượng cười không thể gây cười nếu chủ thể không thể nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Điều này giải thích tại sao có nhiều người xem tranh biếm họa, tranh vui, đọc chuyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu ra thì mới bật cười. Cái hài do vậy là một kiểu nhận thức gắn với tiếng cười khi phát hiện ra những mâu thuẫn nào đó của sự vật hiện tượng ở góc độ thẩm mỹ.

Cái hài là những cái xấu không đành phận xấu, là những cái xấu đội lốt cái đẹp, bị phát hiện bất ngờ và gây ra tiếng cười tích cực mang ý nghĩa xã hội sâu sắc để phê phán cái xấu dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ nhất định.

2. Đặc điểm của cái hài

Nói như C. Mác con người có nhiều hình thức kế thừa và phủ định bản thân mình. Chính tiếng cười, sự hài hước, châm biếm, đả kích là một trong những phương tiện tự phát triển của con người dùng để từ giã quá khứ một cách vui vẻ.

Cái hài có những đặc điểm sau đây:

– Cái hài trước hết phải là cái xấu của con người hoặc con người có điểm xấu. Nói đến cái hài trước hết phải là cái xấu, không có nghĩa mọi cái xấu đều là yếu tố của cái hài. Cái xấu chỉ trở thành yếu tố của cái hài khi nó có ý nghĩa xã hội về mặt thẩm mỹ. Ví dụ cái xấu của trong bước đi lạch bạch của con vịt, nhẩy chồm chồm của con cóc, nếu không liên quan gì đến tính cách của con người thì nó không phải là yếu tố của cái hài.

Cái hài là cái xấu thuộc về đạo đức, về đời sống, về lý tưởng xã hội thể hiện ở quan hệ thẩm mỹ. Thí dụ như tính hay xu nịnh, tính gia trưởng, trưởng giả, đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, tồn tại trong từng con người và cả trong các quan hệ xã hội, những tổ chức xã hội như sự dốt nát, thiếu dân chủ, thái độ quan liêu, hống hách, cửa quyền đều là những yếu tố góp phần tạo nên tổng thể của cái hài.

Cái xấu, cái đáng cười là chưa đến nỗi xấu quá, chưa đến kinh tởm cũng là đối tượng của cái hài. Cho nên, Arixtốt cho rằng cái xấu đã đến mức đê tiện mà ai cũng biết, không giấu nổi thì nó không còn của tiếng cười hài hước, mà cái với tính cách là đối tượng của cái hài, tiếng cười thẩm mỹ của cái hài, thực ra chỉ là một bộ phận của cái xấu, lại không đành phận xấu, mặt khác nó cố tình che đậy bản chất bản chất xấu xa của nó.

– Cái hài là cái xấu đột lốt cái đẹp. Cũng như trên chúng ta đã phân tích không phải cái xấu nào cũng là yếu tố của cái hài. Sự tàn bạo, đê tiện và ghê tởm lại thuộc về các phạm trù chính trị, đạo đức. Cái xấu là yếu tố của cái hài là là cái xấu giả dạng cái đẹp, đột lốt cái đẹp, cái xấu chưa biết mình là xấu, đó mới là cái hài với tư cách là một phạm trù mỹ học.

Cái xấu được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ một tên quan huyện ăn đút lót vẫn tưởng mình là thanh liêm và những kẻ xu nịnh cũng cho mình là thanh liêm. Một người tham quyền lực nhưng lại phê phán người khác hám danh. Một xã hội mất tự do nhưng luôn tô điểm những hình thức bên ngoài của biểu tượng tự do. Vì vậy, nhân tố mâu thuẫn là nhân tố cơ bản của cái hài và mâu thuẫn đó thể hiên như lời nói – việc làm, nội dung – hình thức phải có yếu tố che đậy, giấu diếm, ngộ nhận.

Cái xấu giả danh cái đẹp dù có ý thức hay vô ý thức đều đặt trên các vấn đề xã hội, ý nghĩa xã hội sâu rộng của nó. Chẳng hạn, nhân vật Đôngkisốt lại đưa một người nông dân Xangxô lên làm đảo trưởng khi mà xã hội đã có chủ nghĩa tư bản, có thị trưởng các thành phố, các đảo. Sự vô ý thức đầy lòng tốt của đôngkisốt lại phản ánh sự ngu dốt lịch sử đến cực độ của giai cấp nông dân tư hữu muốn làm cuộc cách mạng tư sản, đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến.

Thật mỉa mai trong cuộc sống thường nhật có những ngưới đàn bà bề ngoài tỏ ra mình cũng chính chuyên như ai, nhưng bên trong lại là kẻ ngoại tình phản bội chồng như cơm bữa và không quên một kẻ điếm đàng. Hơn nữa, sự điếm đàng được nhân danh bởi đức hạnh. Thậm chí, bởi cái hình hài tri thức có vẻ kiều diễm, cao sang. Chỉ biết rằng, họ không ngượng mồm khi khoe mẽ cái chính chuyên mà mình vốn không có để bẫy tình, bẫy người, bẫy cái sự đời ngang trái éo le.

Đời lẳng lơ có thiếu phụ chê chồng,

Đã mấy lần mê ái tình vụng trộm.

Mặc dư luận trêu ngươi cùng nhật nguyệt,

Cứ tồng ngồng rao bán cái chính chuyên.

Đời chính chuyên đi tìm cái chính chuyên,

Méo hay tròn nông sâu hay vô tận?

Chuyện tình riêng sao lòng ai uất hận,

Chuyện tình người sao nặng nỗi đa đoan?

(Đào Duy Thanh)

– Cái hài có yếu tố bất ngờ. Mâu thuẫn và sự xung đột trong cái xấu phát triển đến đỉnh cao rồi đột ngột bất ngờ bị phát hiện, bị bộc lộ, bị phơi bày bản chất của nó. Hay nói lại một cách khác một tình huống của cuộc sống của nghệ thuật điễn ra một cách căng thẳng giữa cái đẹp và cái xấu (trong bản thân cái xấu – cái xấu giả danh cái đẹp), cái xấu tưởng đã chiến thắng, bất ngờ bị vạch trần, bị đánh bại đúng lúc đó nó tạo nên yếu tố của cái hài. Có một truyện kể về Niutơn, vì quá bận trong công việc nên đôi khi ông cũng không để ý nhiều đến trang phục. Có lần do sơ xuất ông để chiếc khăn mùi xoa lòi ra khỏi túi quần ở chỗ đông người. Một kẻ ghen ghét, hám danh đã nhân sự việc này liền nói to: Xin mời mọi người hãy xem cái đuôi thông minh của nhà bác học đã lòi ra. Niutơn hóm hỉnh trả lời: Xin lỗi mọi người không phải như vậy, mà chính đó là cái nhìn của sự dốt nát.

Tính bất ngờ của cái hài đều gắn với tiếng cười đều xoáy vào những điểm yếu của con người và con người có điểm yếu. Ở đây cái hài sẽ có ý nghĩ thẩm mỹ xã hội sâu rộng nếu nó có tính giá trị nhân loại và văn hoá.

– Cái hài gắn với tiếng cười – tiếng cười tích cực. Cái hài có chủ thể là tiếng cười và tiếng cười là bộ phận tạo thành tính toàn vẹn của các yếu tố hài. Trong đó yếu tố bất ngờ và từ sự bất ngờ này đến sự bất ngờ khác đều hướng tới mục đích khêu gợi tiếng cười. Tiếng cười thẩm mỹ của cái hài là tiếng cười tích cực chống lại và phê phán cái xấu, cái thấp hèn ủng hộ cái đẹp, đón đỡ cái đẹp, xây dựng cái đẹp và khẳng định tính tất thắng của cái đẹp.

Tiếng cười thẩm mỹ của cái hài là cái cười của sự hài hước, dí dỏm, châm biếng, mỉa mai, đả kích, một cách nhẹ nhàng, thanh cao nhưng lại có một mạnh to lớn chống lại như thói hư tật xấu nói chung của con người.

Trong lịch sử mỹ học và nhất là mỹ học hiện đại, liên quan đến yếu tố cười của cái hài, ít nhiều, trực tiếp và gián tiếp đều gắn với yếu tố tục, – cái tục. Trong rất nhiều dạng của cái hài đều có sự đan xen một cách tinh tế tính bất ngờ pha trộn yếu tố dung tục. Người ta thường gắn cái hài với cái bộ phận sinh dục của con người để tìm ra tiếng cười. Trong đó có yếu tố thanh – tục – thanh. Chẳng hạn:

Trời cho cái mẽ bên ngoài

Để che đậy cái sơ sài bên trong!

(Tú Mỡ)

Như vậy, yếu tố tục có tham gia vào tiếng cười của cái hài, nó cũng có ý nghĩa tích cực nhất định, song nó không phải là yếu tố cơ bản, Nhiều sự tồn tại của cái hài không có yếu tố tục vào yếu tố bất ngờ, nhưng cái hài không thể không có yếu tố bất ngờ.

30 tháng 3 2016

Không biết sẽ thế nào nếu trên đời này không có tiếng cười? Không biết thế giới này sẽ như thế nào nếu mặt người nào cũng khó đăm đăm, buồn rười rượi? Nếu không có tiếng cười, chắc hẳn toàn thế giới sẽ là một cuộc chiến tranh, cả nhân loại sẽ đau buồn khôn cùng.

Không, không thể như thế được! Hãy giữ lấy tiếng cười! Hãy nâng niu chăm chút cho tiếng cười nở mãi, tươi thắm mãi, vang xa mãi. Mùa xuân! Mùa xuân lại càng cần có tiếng cười. Hơn bất cứ mùa nào, hơn bất cứ ở đâu, mùa xuân – mùa xuân đất Việt không thể thiếu vắng tiếng cười.

Cười là bản chất của loài người. Con người đã được mụ dạy cho biết cười, biết khóc từ thuở trong nôi. Cười là biểu hiện của tình thân, tình yêu thương, là niềm vui… ngay từ khi loài người chưa có tiếng nói thống nhất, chưa có chữ viết. Theo sự phát triển của xã hội, tiếng cười ngày càng đa dạng và phong phú. Không chỉ  là biểu hiện của tình thân thiện, tình yêu thương, tiếng cười – theo dòng lịch sử đã trở thành vũ khí sắc bén của con người trong cuộc sống, trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với mọi loại kẻ thù.

Cười làm cho người ta quên đi mọi nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống. Cười xua được nỗi buồn đi xa, gọi được niềm vui trở lại. Cười chiến thắng được khổ đau, chiến thắng được bệnh tật. Cái cười dưỡng nuôi ý chí, dưỡng nuôi niềm tin, tạo điều kiện cho con người vượt lên hoàn cảnh, vượt lên số phận, phấn đấu cho tương lai hạnh phúc của đời mình.

Một nhà văn đã nói: Tiếng cười là vũ khí của kẻ mạnh. Tiếng cười là vũ khí của người anh hùng.

Thật vậy, tiếng đàn và tiếng cười của Thạch Sanh, ngựa sắt và tiếng cười của Thánh gióng, Hịch tướng sĩ và tiếng cười của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo và tiếng cười của Nguyễn Trãi, cọc Bạch Đằng và tiếng cười của Ngô Quyền, bước chân thần tốc và tiếng cười của quan quân Quang Trung Nguyễn Huệ trong lịch sử đã chiến thắng kẻ thù xâm lược. Bản Tuyên ngôn Độc lập và tiếng cười của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lời lẽ của chính nghĩa đanh thép của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở hội nghị Giơ ne vơ 1954, của Bộ trưởng Xuân Thủy và Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình ở Hội nghị Pari 1973 đã trở thành sức mạnh vô địch.

Sức mạnh quân sự của chiến tranh nhân dân và tiếng cười kháng chiến của quân dân ta đã đánh thắng hai đế quốc to, giành lại độc lập tự do, thống nhất cho non sông đất nước. 

Trong hòa bình, tiếng cười đã động viên khích lệ muôn triệu bàn tay hăng say cần mẫn xây dựng đất nước, thúc giục muôn triệu bàn chân vượt lên để chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, vươn tới ấm no, văn minh, hạnh phúc.

Trên mặt trận ngoại giao và trên thương trường quốc tế, tiếng cười biểu hiện tinh thần quốc tế, biểu hiện mối giao bang thân thiện láng giềng, mối giao bang hữu hảo giữa các dân tộc vì một thế giới hòa bình và phát triển, vì một thế giới không có chiến tranh, không còn đói nghèo, bệnh tật…

Trong bất cứ một việc công hay một việc tư nào của đời người, nếu ai không mang trong mình tình yêu và tiếng cười thì người ấy không thể thành công được. Dẫu có chịu khó mấy, tài giỏi mấy, kỳ công mấy, cẩn thận mấy, nhiều tiền lắm của mấy – nhưng không có tình yêu và tiếng cười – thì chắc hẳn sẽ thất bại.

Tiếng cười nuôi dưỡng ý chí, vun bồi nghị lực, củng cố lòng tin tăng thêm sức mạnh khích lệ con người đi lên, bước tới giành lấy những đỉnh cao của vinh quang và hạnh phúc.
20 tháng 10 2021

Em tham khảo:

Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn(Câu phủ định). Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính. Những câu thơ tả thực tới từng điểm và(QHT) diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường. Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.

20 tháng 10 2021

Em cảm ơn ạ

24 tháng 9 2023

giúp mình với mình đang cần gấp

Cho mình hỏi là đoạn trích nào vậy ạ?

20 tháng 4 2020

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng đi lên bao nhiêu thì các phương tiện giao thông hiện đại càng phổ biến bấy nhiêu kéo theo đó là sự đông đúc trên đường phố cùng với tai nạn giao thông ngày càng tăng lên đáng kể. Vì vậy, vấn đề an toàn giao thông thực sự là một vấn đề quan trọng của nhân loại.

An toàn giao thông là cụm từ dùng để chỉ các hành vi văn hóa khi tham gia giao thông bao gồm việc chấp hành luật giao thông và phải có ý thức trách nhiệm khi tham gia giao thông. Không chỉ là một thuật ngữ pháp luật, an toàn giao thông còn là sự an toàn đối với người tham gia giao thông trên mọi phương tiện.

Hiện nay, mỗi ngày chúng ta có thể thống kê được rất nhiều những vụ tai nạn giao thông để lại nhiều hậu quả đáng buồn. Tại sao việc an toàn giao thông lại khó đến vậy? Nguyên nhân điều này là do đâu? Đó là do người dân không chỉ chủ quan mà còn thiếu ý thức trách nhiệm trong khi tham gia giao thông, chỉ chấp hành luật khi thấy có công an giao thông, nếu sơ hở là sẵn sàng vượt đèn đỏ, phóng nhanh, lạn lách, đánh võng, không đội mũ bảo hiểm,… Rất nhiều xe lưu thông trên đường mà không bao giờ dùng tới xi nhanh, đèn hiệu, còi,… Nhất là tình trạng người tham gia giao thông có nồng độ cồn vượt quá mức quy định ảnh hưởng đến sự tỉnh táo của tay lái và gây tai nạn. Những tai nạn gây ra hầu hết đều là do sự vô ý thức của chính người dân và đã thiệt hại rất nhiều về người và của.

Không ít những trường hợp mà mẹ mất con, con mất cha, gia đình đau xót, cá nhân mất mát sau những tai nạn như vậy, người còn sống cũng ít nhiều để lại những hậu di chứng về sau. Đó đều là mất mát do tai nạn giao thông gây nên.

Để lại nhiều hậu quả đau lòng như vậy, rõ ràng an toàn giao thông đóng một vai trò quan trọng cho cá nhân và cho xã hội. Việc chấp hành các nội dung trong điều luật về an toàn giao thông sẽ góp phần giảm thiểu số vụ tai nạn đáng tiếc xảy ra một cách đáng kể. Tai nạn giảm thiểu, số người chết và bị thương do những tai nạn gây ra cũng giảm theo và bớt đi phần nào những nỗi đau đớn mất mát mà gia đình và cá nhân phải chịu đựng khi có một người vì tai nạn giao thông mà mất đi sinh mạng hoặc di tật cả đời.

Thêm vào đó, giảm thiểu tai nạn giao thông cũng là giảm thiểu chi phí do việc này gây ra. Đối với một xã hội mà an toàn giao thông được giữ vững, luật giao thông được chấp hành, người tham gia giao thông có ý thức và an toàn thì nhất định là một xã hội ngày càng đi lên. Mỗi chúng ta để thực hiện được an toàn giao thông thì cần tự xác lập cho mình ý thức trách nhiệm về việc chấp hành những quy định khi tham gia giao thông. Quy định được đặt ra không chỉ để chấp hành mà là những quy chuẩn nhất định để bảo vệ sự an toàn của chúng ta vì vậy hãy chấp hành nó là vì sự an toàn của chính mình, đừng đối phó hay chống đối, điều này không có ích lợi cho ai cả. Những điều như không vượt đèn đỏ, tốc độ đúng quy định, không dùng đồ uống có cồn khi tham gia giao thông,… cần được nghiêm túc chấp hành để tạo nền móng cho một xã hội văn minh, an toàn.

Nhưng ngày nay, không thiếu những hành vi coi thường luật giao thông để rồi gây ra những hậu quả đáng tiếc cho gia đình và xã hội. Những hành vi ấy nhất định cần có biện pháp xử lí đích đáng. “Phía trước tay lái là cuộc sống”. Hãy nhớ khẩu hiệu đó và luôn có ý thức trách nhiệm giữ an toàn giao thông cho người khác ở mọi lúc mọi nơi.

20 tháng 4 2020

em mới lopws 5 thôi