K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

21 tháng 11 2021

tiểu sử thì mk hổng biết còn mình biết 1 vai trò:

VC1:rời king đô Hoa Lư(Ninh Bình) chật hẹp xuống thành Đại La đổi tên là Thăng Long(Hà Nội ngày nay).Với mục đích cho con cháu sau này đỡ khổ sở ở vùng đất chật hẹp.

-mk còn biết một văn hóa nổi tiếng vào thời đó chính là đạo phật thời đó dạo phật được quảng bá khá là rộng rãi.

đây là kiến thức lịch sử lớp 4.

22 tháng 11 2021

ok bạn 

29 tháng 11 2021

Tham Khảo:

https://olm.vn/hoi-dap/detail/3186012511846.html

hong chắc ;-;

Tham khảo
Lý Công Uẩn (974 - 1028) người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là Bắc Ninh), từ nhỏ ông là một cậu bé dĩnh ngộ hơn người, lại được sự nuôi dạy của hai nhà trí thức lớn đương thời là sư Lý Khánh Văn và Thiền sư Đạo Hạnh. Khi mới 20 tuổi Lý Công Uẩn được đưa vào triều làm một chức quan võ. Vốn là người thông minh, có sức khoẻ và chí lớn, Công Uẩn từ đó ngày càng được tin cậy trong triều, về sau làm tới điện tiền chỉ huy sứ và trở thành trụ cột của nhà tiền Lê.

13 tháng 11 2021

Là người mở lập ra nhà Lý và rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long ngoài ra Lý Thái Tổ đã đặt cơ sở và định hướng ban đầu nhưng rất căn bản cho sự tồn tại của vương triều và sự phát triển của đất nước.

5 tháng 2 2017

Vai trò của biển trong đời sống kinh tế của cư dân người Việt trong lịch sử

Từ lâu, ý tưởng khai thác biển đã nằm trong tiềm thức của người Việt được thể hiện qua những câu ca dao tục ngữ như “thuận vợ thuận chống tát Biển Đông cũng cạn”, “rừng vàng, biển bạc”...Từ rất sớm những cư dân người Việt Nam đã tìm cách tiếp cận biển để khai thác những tiềm năng của biển phục vụ cho cuộc sống thường nhật. Mức độ khai thác có sự thay đổi tùy thuộc vào công cụ khai thác. Vấn đề khai thác biển thực sự rõ rệt từ thời cư dân văn hóa Hòa Bình. Dựa vào kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy “tại lớp di chỉ Cái Bèo, đảo Cát Bà, bên cạnh một số di cốt động vật trên cạn, còn có một số khối lượng khỏng lồ xương cá biển, một số vỏ hàu biển”[1]. Riêng đợt khai quật của các nhà khảo cổ vào năm 1973, các nhà khoa học đã thu được kết quả khả quan với 105 kg xương cá biển. Thông qua đó, các chuyên gia đã đã xác định ra sọ và đốt sống các loại cá có mặt ở đây như cá Sao, cá Nhám, cá Dao, cá Mó Xanh... Những loại cá này thường sống xa bờ, chỉ có thể đánh bắt chúng bằng lưới hoặc câu thả[2]. Điều này khẳng định, từ văn hóa Hòa Bình vùng Đông - Bắc cư dân người Việt chúng ta đã biết khai thác nguồn thức ăn từ biển để phục vụ cho cuộc sống trong điều kiện đất liền bị biển lẫn, địa bàn sinh sống và tìm kiếm nguồn thức ăn bị thu hẹp.

Những cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn vùng Đông Bắc là những người đi tiên phong chiến lĩnh đồng bằng ven biển. Có thế họ cũng là người đầu tiên tiếp xúc với biển, mở đường cho quá trình khai thác tiềm năng kinh tế biển trong chiều dài lịch sử của cư dân người Việt. Những cư dân tiếp sau Hòa Bình - Bắc Sơn tiếp tục khai thác kinh tế biển phục vụ cho cuộc sống của mình, tiêu biểu nhất là lớp di chỉ Cái Bèo thuộc thời kỳ đồ đá mới. Theo kết quả khảo sát của các nhà khảo cố học thì “có thể xác nhận ở đây kinh tế khải thác đóng vai trò quan trọng trong đó khai thác biển đạt tới đỉnh cao. Trên 100 kg xương cá biển, trong diện tích đào 221m2, có loại cá nặng gần nửa tạ là bằng chứng rõ rệt nhất về hoạt động khai thác tặng vật biển”[3]. Từ đó, cho thấy khả năng đánh bắt trên biển của cư dân Việt thời kỳ này đã khá phát triển, nguồn thức ăn được cung cấp từ biển cũng có vai trò quan trọng đối với những cư dân văn hóa Cái Bèo I. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì lớp cư dân muộn nhất thòi tiền sử vùng ven biển Đông Bắc Việt Nam là cư dân văn hóa Hạ Long. Những di chỉ tiêu biểu của văn hóa Hạ Long gồm Cái Bèo II, Thoi Giếng, Ngọc Vừng, Xích Thổ... Đây là thời kỳ thể hiện sự hòa họp giữa con người và môi trường biển. Việc khai thác môi trường biển trở nên hết sức mật thiết với cư vân văn hóa Hạ Long. Các nhà khoa học đã “tìm thấy khả nhiều chì lưới làm bằng đất nung đã được tìm thấy trong các di chỉ thuộc văn hóa Hạ Long. Trong di chỉ Cái Bèo nằm trên đảo Cát Bà (Hải Phòng), chúng ta tìm thấy rất nhiều xương cá, xương thú biển, xương rùa biển”[4]. Những bằng chứng khảo cổ học cho thấy, từ rất sớm khi quá trình biển tiến cách ngày nay khoảng 3 vạn năm làm cho địa bàn cư trú và tìm kiếm nguồn thức ăn bị thu hẹp, thì lúc đó cư dân Việt (văn hóa Hòa Bình) đã biết hướng ra biển để đáp ứng nhu cầu thức ăn của mình. Đến thời kỳ đồ đá mới, mối quan hệ giữa người Việt và biển trở nên hết sức mật thiết trong đời sống kinh tế.

Bước sang thời đại kim khí, khi công cụ lao động phát triển lên thêm một bước, con người có điều kiện khai thác các vùng đất cứng để phát triển nghề nông. Cho nên, nguồn thức ăn của cư dân của thời đại kim khí chủ yêu là nghề nông. Tuy nhiên ngành đánh bắt, trong đó có khai thác kinh tế biển vẫn được duy trì. “Cho tới nay, chúng ta chỉ mới tìm thấy các di tích của động vật biển trong một số nhóm cư dân nhất định sống sóng ngay ven biển hoặc gần biển. Đó là những di tích xương cá, thú biển và vỏ nhuyễn thể đã được tìm thấy trong tầng văn hóa muộn ở Cái Bèo (Cát Bà, Hải Phòng), trong tâng văn hóa ở Tràng Kênh (Hải Phòng), ở di chỉ Hoa Lộc (Thanh Hóa) hay trong di chí Xóm Cồn (Cam Ranh - Khánh Hòa)”[5]. Qua kết quả khảo cổ học được tìm thấy, chúng ta có thể nhận định, mặc dù kinh tế chủ đạo của cư dân thời kỳ này chủ yếu là nông nghiệp, nhưng tùy theo điều kiện từng vùng mà có sự khác nhau. Những vùng gần biển, ven biển các cư dân vẫn lấy biển làm nơi cung cấp nguồn thức ăn cho mình. Như vậy ở vào thời đại kim khí con người vẫn tiếp tục gữ truyền thống khai thác toàn diện cả nguồn lợi trên cạn và nguồn lợi dưới biển.

Ngoài việc, phát triển các loại hình đánh bắt hải sản, cư dân Việt còn biết đưa biển vào phục cho việc buôn bán giao thương với nước ngoài. Từ thế kỷ X, Đại Việt khôi phục được nền độc lập dân tộc và về về thương mại. Cảng Vân Đồn được mở để tiếp nhận thương nhân Trảo oa (Java), Lơ Lạc (Lovo) và Xiêm La, buôn bán ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông và cả Tam phật đề (Srivijaya)[6].

Công cuộc khai thác biển được cư dân người Việt các thế hệ tiêp tuc phát huy để phục vụ cho đời sống của mình. Dưới thời kỳ triều Nguyễn, côn cuộc khai thạc biển thực sự được tiến hành mạnh mẽ bao gồm cả việc đánh bắt, khai thác các nguồn lợi từ biển. Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để chứng minh được quá trình khai thác các tiền năng từ biển, đặc biệt còn góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1816, vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo[7]. Những quan điểm trên ngày càng được củng cố vững chắc trên cơ sở những nghiên cứu mới, góp phần khẳng định biển và kinh tế biển đã đóng vai trò khá quan trọng trong sự phát triển của lịch sử Việt Nam cổ trung đại hơn nhiều lần người ta từng nghĩ[8].

Ngày nay, biển thực sự giữ vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế đối với đất nước ta, với nhiều nguồn lợi như khai thác hải sản, năng lượng, du lịch biển... hàng năm từ biển chúng ta khi thác hàng nghìn tỉ đồng góp phần thay đổi diện mạo đất nước trong thời kỳ mới. Thế kỷ XXI, được xem là thế kỷ của các quốc gia có biển, chính vì vậy, trong tương lai biển đảo tiếp tục giữ vai trò lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.

20 tháng 12 2016

Là nơi làm ăn, sinh sống của con người ngay từ buổi sơ khai

Là con đường mở rộng quá trình giao lưu, hội nhập với nước ngoài

Là nơi diễn ra nhiều trận chiến oanh liệt mà phần lớn là Việt Nam thắng,tạo nên niềm tự hào chiến thắng cho toàn thể dân tộc

12 tháng 12 2016

Công lao của Lý Thường Kiệt là dẹp tan quân Tống, sáng tác ra bản tuyên ngôn đầu tiên của nước ta, giúp nước ta sạch bóng quân thù.

12 tháng 12 2016

Lý thường Kiệt đã đập tan âm mưu thâm độc của nhà Tống trong việc phá vớ mối đoàn kết của dân tộc ta và làm thất bại âm mưu muốn làm suy giảm lực lượng nhà Lý.

 

24 tháng 11 2016

bạn có thể tra trên mạng hơcj là đọc trg sách y, nó sẽ có 1 số ý

 

24 tháng 11 2016

Lý Công Uẩn (974 - 1028), người làng Cổ Pháp, tức làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là vị vua sáng nghiệp của nhà Lý và cũng là người sáng lập kinh đô Thăng Long - một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá trường tồn của đất nước.Dưới triều nhà Tiền Lê, ông làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ (殿前指揮使), là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Năm 1005, Lê Trung Tông bị em trai là Lê Long Đĩnh sát hại, ông ôm Trung Tông khóc, Long Đĩnh cho rằng ông là tôi trung, bèn cho giữ chức quan Cận vệ. Đến năm 1009, Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm Hoàng đế.

- Đóng góp:

Dưới triều đại của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thànhĐại La vào tháng 7 năm 1010, và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm.

 

 

Đây là Lý Công Uẩn nha minh
15 tháng 5 2021

Mùa xuân năm 1077 gắn với sự kiện lịch sử nào của dân tộc ta?

Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống.

Vua tôi nhà Trần đánh bại quân Mông - Nguyên.

Lê Hoàn đánh bại quân Tống.

Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long

15 tháng 5 2021

Mùa xuân năm 1077 gắn với sự kiện lịch sử :

- Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống xâm lược