K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 1 2022

Tham Khảo 
Mỗi người sống trên đời đều có những kế hoạch, những dự định riêng, và cả những nỗi lo riêng. Nhưng cuộc sống đâu chỉ thể biết đến riêng bản thân, mà cần phải quan tâm đến những người xung quanh. Đó chính là sự “cho” và “nhận” trong cuộc đời này. Cho và nhận là hai khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng số người có thể cân bằng được nó lại rất ít. Bất cứ ai cũng đã có lần nghe câu nói “cho đi là hạnh phúc” nhưng thực hiện được điều đó không phải là điều dễ dàng. Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình. “Cho” không có nghĩa là khi chúng ta có đầy đủ về vật chất mới có thể giúp đỡ người khác, mà đôi khi chỉ cần một lời hỏi han, một lời động viên đúng lúc để giúp người khác có thêm sức mạnh, niềm tin và nghị lực sống, bạn sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc tràn ngập từ trong sâu thẳm trái tim mình, hạnh phúc đó đang đến từ chính hành động đẹp đẽ của bạn. Cuộc sống này có nhiều điều bất ngờ nhưng cái quan trọng nhất thực sự tồn tại là tình thương. Sống không chỉ là nhận mà còn phải biết cho đi. Chính lúc ta cho đi nhiều nhất lại là lúc ta được nhận lại nhiều nhất. Mỗi người chúng ta hãy thử cho đi môt cái gì đó, để rồi biến niềm hạnh của người khác thành niềm hạnh phúc của chính mình. Con người không ai hoàn hảo cả, quan trọng là chúng ta biết sống như thế nào cho xứng đáng với bản chất thật sự của mình, để không phải hổ thẹn với lương tâm. Ý nghĩa của cuộc sống nằm ngay trong những giá trị bình thường quanh ta, là tình yêu của mẹ cha, là tình thân của bạn bè, là niềm vui và hạnh phúc khi đối mặt và vượt qua khó khăn, là ước mơ và hy vọng vào ngày mai. Và điều gì nuôi dưỡng tâm hồn ta, xây đắp nên cuộc sống của chúng ta, thì ta cần, nên và phải sống vì chính những điều đó. - sự “cho” và “nhận” lại.

16 tháng 2 2021

Bài 1: Bài nào vậy bn??

Bài 2:                                            BÀI LÀM

"Lòng yêu nước"là tình cảm yêu thương chân thành, sâu sắc dành cho quê hương, Tổ Quốc. Đó là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao cả của mỗi con người, không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn qua cả những lời nói thiết thực. Lịch sử đã chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta qua các giai đoạn đất nước bị các thế lực bên ngoài xâm lược. Hơn 1000 năm bị phong kiến phương Băc đô hộ, tiếp sau đó là những cuộc chiến tranh xâm lược quân Nguyên Mông, rồi đến hai quốc gia hùng mạnh nhất là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đều tham vọng xâm chiếm đất nước ta. Và kết quả ra sao?Cuộc chiến thắng lừng lẫy trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền, quân đội nhà Trần hùng mạnhđã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông và rồi một chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu đã buộc thực dân Pháp phải kí hiệp định Gio-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Và cả trận "Điện Biên Phủ trên không", Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới bắn rơi được chiếc máy bay B52 mà không chỉ có một mà là 68 cái và cùng bao nhieeuc hiếc máy bay khác của Mĩ bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, dây chính là tiền đề để Mĩ kí hiệp định Paris.

Tình yêu nước là như vậy đó. Đôi lúc rất bình dị, giản đơn nhưng nhiều khi nó"kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ và to lớn". Chẳng phải nói gì nhiều bởi trong con tim mỗi chúng ta đều cùng chung một nhịp đập, đều tự hào mỗi khi nhắc đến hai tiếng"Việt Nam", đều khát khao cống hiến khi nghe giai điệu hào hùng của bài" Tiến Quân Ca" và đôi mắt đều nhỏ lệ khi nhớ về những anh hùng đã ngã xuống vì độc lập và tự do của dân tộc.

Chúc các bn học giỏi để giúp nhiều lợi ích cho đất nước nhá!

YÊU MỌI NGƯỜIbanhquayeu

16 tháng 2 2021

dài thực sựbucminh

22 tháng 3 2021

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài:

1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.

- Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)

- Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.

2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.

2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)

- Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta.

2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)

2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. 

3. Đất nước của ca dao thần thoại

Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề

Xem thêm:

Soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm siêu ngắn
Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

BÀI LÀM

     Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.

     Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhuần nhyễn trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.

     Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế giới "ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không ai khác chính nhân dân - tập thể những người lao động - trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.

                                          Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                          Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể

                                          Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                                         Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

     Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:

                                         Tay nâng chén muối, đĩa gừng

                                         Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau

     Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.

     Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:

                                        Đất là nơi anh đến trường

                                        Nước là nơi em tắm.

     Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:

                                       Đất Nước là nơi ta hò hẹn

                                       Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

     Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân cùa đất nước càng khắc ghi sâu đậm.

     Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lọc chất liệu văn hóa dân gian:

                                       Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

                                       Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"

     Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:

                                      Những ai đã khuất

                                      Những ai bây giờ

                                      Yêu nhau và sinh con đẻ cái

                                      Dặn dò con cháu chuyện mai sau

                                      Hàng năm ăn đâu làm đâu

                                      Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.

     Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:

                                      Trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước

     Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.

                                     Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

                                    Phải biết gắn bó và san sẻ.

                                    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

     Làm nên Đất Nước muôn đời. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.

     Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.

     Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.

     Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:

                                 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

                                 Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

                                 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

                                 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

                                 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

                                 Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

                                 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

                                 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.

     Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết... từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,... và cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng  những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:

                                Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

                                Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha.

                                Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

                                 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

     Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.

     Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca  những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.

     Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:

                                 Họ đã sống và chết

                                 Giản dị và bình tâm

                                 Không ai nhớ mặt đặt tên

                                 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

     Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.

     Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:

                                                      Yêu em từ thuở trong nôi

                                                      Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

     Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:

                                                      Cầm vàng mà lội qua sông

                                                      Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

      Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:

Thù này ắt hẳn còn lâu

 Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què

     Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.

     Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

                                                      Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

                                                      Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.

     Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.

     Có thể gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.

     Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sĩ lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước, trân trọng, ca ngợi nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.

     Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.

     Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:

                                                   Và cứ thế nhân dân thường ít nói

                                                   Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

                                                   Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

                                                   Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời

     Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm  hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

 

 

2 tháng 10 2023

tham khảo

Qua văn bản này, em học được gì về cách viết bài văn nghị luận một vấn đề xã hội:

- Lựa chọn vấn đề: Có tính thời sự và ý nghĩa

- Bố cục bài viết: đảm bảo 3 phần, mở bài thân bài và kết bài.

- Lựa chọn và nêu bằng chứng: lựa chọn bằng chứng tiêu biểu, xác thực và nhiều người biết đến.

- Diễn đạt: lời văn ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc.
28 tháng 4 2020

dễ mà bạn 

13 tháng 12 2021

giúp mình với ạ

 

 

 

13 tháng 12 2021

Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ tài ba, nhà quân sự, chính trị lỗi lạc của cách mạng Việt Nam mà còn là nhà thơ, nhà văn lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Không chỉ làm cách mạng, Bác còn viết thơ, làm văn để phục cho chiến đấu. Bởi vậy, mà trong bảy mươi chín năm cuộc đời của Người không chỉ có những thành quả cách mạng lớn lao mà còn có một bộ sưu tập thơ bất hủ, có thể kể đến tập "Nhật ký trong tù", các bài thơ Bác viết gửi thiếu nhi, hay những bài thơ ngẫu hứng khi ngắm thiên nhiên Bác đều gửi gắm những tâm tư, niềm mong mỏi và cả sự lạc quan, hướng về những điều tốt đẹp trong tương lai. Một trong những bài thơ hay nhất của Bác viết trong kháng chiến có thể kể đến “bộ đôi” hai bài thơ trăng "Cảnh khuya" và "Rằm tháng giêng".

Bài thơ Cảnh khuya được mở đầu bằng những câu thơ tả cảnh, gợi cảm đầy mê hoặc:

"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lòng cổ thụ bóng lồng hoa"

Thiên nhiên vừa tĩnh lại vừa động, tiếng suối róc rách chảy xa xa qua cái cảm của nhà thơ tựa như tiếng hát con người đang vọng lại, ấm áp và đầy thiết tha. Tiếng hát của dòng suối chảy ấy đã át đi cả tiếng của những bom đạn quân thù để rồi trong đêm khuya tĩnh lặng, tiếng suối trở thành một thanh âm thi vị dịu dàng, trong trẻo mang lại chút thư thái nơi tâm hồn của nhân vật trữ tình. Bản nhạc của suối nguồn núi rừng mang đến cho thính giác cảm giác êm đềm, hấp dẫn thì đến cảnh sắc Việt Bắc lại làm cho ánh mắt thi nhân không thể rời.  Hoa cỏ, thiên nhiên và đặc biệt là ánh trăng đẹp đẽ trên bầu trời xa kia đã khiến cho tâm hồn nhà thơ không khỏi xuýt xoa mà buông những lời thơ tựa nét vẽ của bức họa núi rừng:

"Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"

Trăng toả ánh sáng xuống trần gian, hòa trong vẻ đẹp của cây rừng Việt Bắc. Ánh trăng lồng qua từng bóng cây già, luồn qua từng cành cây, kẽ lá in bóng cảnh vật xuống mặt như những bông hoa. Trăng, cây, và hoa gắn kết, quấn quýt, giao hòa như tình cảm gắn kết giữa quân và dân Việt Nam. Cảnh hữu tình quá, thơ mộng quá, cảnh làm lòng người xuyến xao khôn tả. Trăng khuya soi rọi bóng cây già, tiếng suối chảy xa tựa bản nhạc ngân nga, rừng Việt Bắc thật đẹp quá. 

 

 

Và thiên nhiên càng đẹp hơn khi có bóng dáng của con người, giữa núi rừng đại ngàn trăng soi, có người thi sĩ đang ngắm nhìn, đang trăn trở:

"Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà"

Bóng dáng con người hiện lên không miêu tả qua dáng hình, qua khuôn mặt mà được thể hiện qua nội tâm, qua trạng thái của Người - chưa ngủ vì nỗi nước nhà. Suốt bao năm tháng cách mạng, Người vẫn lo một nỗi cho dân tộc, cho kháng chiến, Bác thương nhân dân, thương bộ đội lại càng thương đất nước, xót xa khi Tổ quốc bị xâm lăng. Bác ngắm nhìn cảnh khuya mà nào có thảnh thơi, vẫn lo toan mọi bề khi đất nước chưa được giải phóng. Bác Hồ - Người là vậy, chưa một giây phút nào Bác quên nghĩ đến nhân dân, nghĩ về dân tộc. 

Đến với Rằm tháng giêng, ta thấy được ở bài thơ một không gian thiên nhiên đầy đẹp đẽ, một mạch nguồn cảm xúc mới mẻ, tươi tắn. Bài thơ mở đầu thật nhẹ nhàng:

"Rằm xuân lồng lộng trăng soi"

Vào những ngày rằm, trăng tròn trịa và toả sáng hơn, đặc biệt trăng xuân lại càng đẹp, càng mỹ miều hơn nữa. Ánh trăng toả ngát, soi "lồng lộng" khắp không gian, ánh trăng như bao trùm lấy vạn vật, ban thứ ánh sáng kiều diễm mê hoặc lòng người. Trăng sáng chiếu bát ngát, mênh mông khắp nơi, mọi chốn của núi rừng Việt Bắc.

" Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân"

Xuân ngập tràn không gian, sức xuân sống động, tươi trẻ và dồi dào toả khắp mây trời, sông nước. Xuân mang niềm vui, niềm thương gửi gắm vào tất thảy thiên nhiên, cảnh vật, dường như cả đất trời đang dào dạt sức sống mùa xuân.

" Giữa dòng bàn bạc việc quân"

Giữa lúc thiên nhiên đang rạo rực sức xuân như vậy, lòng người cũng đang rạo rực vì sự nghiệp kháng chiến. Câu thơ gợi cho ta cảm nghĩ về hình ảnh những người chiến sĩ đang miệt mài, tập trung bàn bạc, tìm ra những kế hoạch, chiến lược cho công cuộc cách mạng trên con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng, dưới ánh trăng dịu dàng của tạo hoá. Ánh trăng lúc này đây như người chiến sĩ cùng đồng hành, chăm chú dõi theo từng nghĩ suy, từng trăn trở, trăng lại như người bạn tri âm đến gần bên tâm tình với con người. 

" Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền"

Khi đêm đã khuya, cuộc họp bàn dường như vẫn chưa trọn, thuyền chở đầy trăng vẫn trôi nhẹ giữa dòng. Thuyền chở trăng, chở cả những hy vọng, ước mơ, chở cả những niềm tin vào một ngày đất nước được hoà bình, nhân dân được ấm no, an bình. Thuyền chở đầy trăng chở theo cả niềm lạc quan, sự tin yêu trên con đường cách mạng gian khó, dẫu có những hiểm nguy, dẫu có những mất mát vẫn giữ vững lòng tin vào ngày mai thắng lợi vẻ vang.

Hai bài thơ, tuy có những đặc sắc riêng, song giữa chúng ta vẫn bắt gặp những điểm tương đồng để làm nên dấu ấn, phong cách thơ của nhà thơ dân tộc Hồ Chí Minh. Cả "Cảnh khuya" và "Rằm tháng giêng" đều có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố cổ điển và tinh thần hiện đại. Đó là những hình ảnh, thi liệu khá quen thuộc được dùng nhiều trong thơ cổ như ánh trăng hay con thuyền. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt lời ít ý nhiều, hàm súc cùng bút pháp gợi mà không tả cũng được vận dụng đầy thuần thục, điều luyện. Đặc biệt, qua hai bài thơ, ta cảm nhận được một tình yêu thiên nhiên hoà trong một trái tim yêu nước thiết tha của Người, niềm lạc quan trong gian khó, phong thái đầy ung dung của một chiến sĩ cách mạng mãi là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ trẻ chúng em học tập, nói theo.

"Cảnh khuya" và "Rằm tháng giêng" đã mang đến cho em những nỗi nhớ, những niềm thương và cả sự kính trọng dành cho Bác. Chính những lời thơ bình dị, những tình cảm dạt dào gửi gắm trong thơ của Bác đã bồi đắp, nuôi dưỡng trong em tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước mình. Bản thân em sẽ mỗi ngày cố gắng, cố gắng hơn nữa để lớn lên có thể góp sức mình xây dựng quê hương mình ngày một giàu đẹp, ngày một đi lên như lời dạy của Bác năm nào.

23 tháng 11 2016

Bạn tham khảo nhé:

Viết một đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 câu nêu cảm nghĩ về bài thơ tiếng gà trưa

Bài làm

Xuân Quỳnh là một nữ nhà thơ nổi tiếng với những vần thơ giàu xúc cảm trong tình yêu. Nhưng khi viết về tình cảm gia đình, thơ Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng, lắng đọng, khơi gợi cho ta bao cảm xúc. “Tiếng gà trưa” là một bài thơ đặc sắc của Xuân Quỳnh được viết năm 1968 với những hình ảnh bình dị mà gần gũi nhưng thấm đượm tình bà cháu.

“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”

Bài thơ mở đầu bằng những vần thơ tự nhiên mà bình dị, thủ thỉ như kể về một câu chuyện hết sức bình thường. Người chiến sĩ trên đường hành quân mệt mỏi được dừng chân bên một xóm nhỏ, anh nghe tiếng gà gáy trưa để rồi nững cảm xúc tuổi thơ chợt ùa về. Ơ đây, điệp tử “nghe” như mở rộng về chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Mỗi lần từ “nghe” lặp lại, âm thanh của tiếng gà như lan tỏa thêm. Đầu tiên là sự tháy đổi của ngoại cảnh “nghe xao động nắng trưa”, tiếp đến là sự thay đổi của cảm giác “nghe bàn chân đỡ mỏi” để rồi cuối cùng là sự thấm sâu vào tâm hồn “nghe gọi về tuổi thơ”. Điêp từ “nghe” cùng ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc đã diễn tả tình tế sự thay đổi cảm xúc của nhan vật trữ tình. Tiếng gà là âm thanh của thực tại, nhưng nó lại vọng về được tận kí ức, đánh thức những xúc cảm luôn giấu kín mà tưởng như con người đã quên.

Tiếp theo, theo những hồi tưởng, kỉ niệm dần ùa về

Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng
Những kỉ niệm tuổi thơ thật bình dị khiến cho nhân vật như trải qua những cảm xúc tuôi thơ trong sáng. Hình ảnh những con gà mái mơ, mái vàng, ổ rơm hồng những trứng dường như luôn thương trực trong tâm trí của anh. Nối tiếp những hình ảnh gần gũi của tuổi thơ này, người bà hiện ra trong khổ thơ tiếp theo:

Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
– Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng
Có bóng dáng thân thuộc của bà:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp

Tiếng gà trưa gợi bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu được sống trong tình yêu thương của người bà. Tiếng bà mắng, tay bà khum soi trứng, bóng dáng thân thuộc của bà, tất cả những hình ảnh sống lại cho ta thấy sự tần tảo, chắt chiu luôn chăm lo cho cháu của người bà. Để rồi:

 

Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông đến
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới”

Biết bao khó khăn khi gió mùa đông đến, trời giăng sương muối, bà không lo cho bà mà chỉ lo cho đàn gà. Tất cả để đánh đổi lấy niềm vui của cháu, để cuối năm cháu được có quần áo mới. “Cứ hàng năm hằng năm” cụm từ chỉ thời gian kéo dài, cho ta thấy đức hi sinh, nhẫn lại của người bà đồng thời qua giọng thơ ta cũng thấy được niềm kình yêu vô bờ của người cháu đối với bà.

Cảm nghĩ về bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh

 

Món quà tuổi thơ từ đàn gà mà bà chăm chút của nhân vật cuãng vô cùng giản dị:

Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt
Trong đoạn thơ tràn đầy niềm vui thích. Tiếng gà, ổ trứng chính là những hình ảnh đã nuôi dưỡng tâm hồn người cháu:

“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Chính những giấc ngủ bình yên ấm áp, hạnh phúc chính là động lực là nhân vật của chúng ta trở thành người chiến sĩ cầm chắc tay súng chiến đấu :

“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.”
Tác giả đã dùng điệp từ ‘vì” để nhấn mạnh về mục đích chiến đấu của người cháu. Không phải vì những điều gì lớn lao mà chỉ vì những điều thân thuộc của anh. Vì lòng yêu tổ quốc, vì xóm làng thân thuộc, vì bà và vì những kỉ niệm tuooit thơ gắn bó. Giọng thơ vẫn nhẹ nhàng nhưng đầy kiên quyết. ở đây ta thấy hình ảnh người cháu như lớn lao hơn, đã đủ sức để bảo vệ những gì đáng quý của mình. Hình ảnh của anh thật đẹp, thật cao thượng.

“Tiếng gà trưa” là một bài thơ hay của Xuân Quỳnh. Bằng lối thơ nhẹ nhàng kết hợp tự sự, tả đồng thời mỗi đoạn thơ đều gợi ra những kỉ niệm từ tiếng gà gây lên một cảm xúc lắng đọng trong tâm hồn người đọc. Bài thơ là tình yêu của người cháu đối với người bà đồng thời cũng thể hiện tấm lòng yêu nước cao quý.

28 tháng 11 2016

5 -> 7 dòng mà bn