K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 5 2018

Chủ đề là : nỗi oan khuất của nàng Thị Kính

bài làm

Thành ngữ '' Oan Thị Kính '' có nghĩa là nỗi oan của nàng Thị Kính . Nỗi oan đó đc xuất phát từ môt thứ vô cùng nhỏ nhoi đó chính là : cái râu moc ngươc của người chồng tên Thiên Sĩ . ''Khi thấy chồng đang ngủ ngon sau môt đêm dài đoc saćh , nàng Thị Kính bỗng phát hiên trên cằm chàng xuất hiên môt cái râu moc ngươc. Nàng lấy dao toan cắt nó đi thì Thiên Sĩ bỗng giật mk chồm dậy , thấy trên tay vợ có dao chàng ta nghĩ Thị Kính muốn giết mk bỗng la lớn gọi cha mẹ đến phân xử . Trước nh̃ lời ns tra hỏi gắt gao của cha mẹ Thiên Sĩ ,Thị Kính kô sao minh oan cho mk đc . Mặc dù nàng ns khô hết cả lời, khàn hết cả giọng nhưng vẫn kô sao giải nổi nỗi oan khuất này . Cha mẹ Thiên Sĩ giả Thị Kính về nhà bố ruột . Nàng giãi bày vs cha mk về nỗi oan này nhưng bây h dù có ns dì đi nx thì chỉ có trời tin, đất tin, cha nàng tin nàng mà thôi . Chỉ vì muốn giúp chồng cắt cái râu kia mà nàng đã mang nỗi oan: haị chồng. Cuộc đời nàng thật trớ trêu làm sao. '' Đáng thương thay cho thân phân phụ nữ như nàng- người phụ nữ ngày xưa chẳng có quyền hành dì nên kô thể minh oan cho bản thân , đến cả những lời họ ns ra cx chả ai chịu nghe , kô ai chịu tthấm. Qua đó phê phán tên chồng nhu nhươc , thiêú chủ kiến ,hèn nhát đến cả người vợ mk mà cx kô bảo vệđc thì đúng là loại đàn ông kô xứng đáng tồn tại trong cái xã hội này.

chúc ban hok tốthaha

6 tháng 8 2019

• Chủ đề của đoạn trích: Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đây là một chủ đề khá quen thuộc trong văn học trung đại. Bởi lẽ đây là thời kì phong kiến, thời kì mà mọi quyền lực trong gia đình, xã hội nằm trong tay của người đàn ông. Người ta hay gọi chế độ phong kiến là chế độ nam quyền độc đoán, chế độ trọng nam khinh nữ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người phụ nữ là những người không có tiếng nói trong gia đình, trong xã hội. Tiếng nói của họ bị coi rẻ, giá trị của họ bị phủ nhận, nhân cách của họ bị chà đạp. Đau đớn hơn nữa, người phụ nữ còn phải hứng chịu một cái nhìn hà khắc với những quy tắc, khuôn mẫu ngặt nghèo, khắt khe của xã hội: tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Nếu chỉ thiếu một trong những thứ ấy, hoặc chỉ làm sai một việc nhỏ, người phụ nữ cũng sẽ bị hành hạ, đay nghiến, xúc phạm.

• Câu thành ngữ "Oan Thị Kính" để chỉ những nỗi oan khiên không thể thanh minh, khiến cho người đó rơi vào hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng, không có lối thoát.

28 tháng 4 2017

- Chủ đề: Đoạn trích Nỗi oan Thị Kính thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và sự đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.

- Thành ngữ “Oan Thị Kính” chỉ những oan ức quá mức chịu đựng không thể giãi bày.

4 tháng 5 2017

Chủ đề của đoạn trích Nỗi oan hại chồng thể hiện phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan ức và sự bế tắc đến cùng cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sự đối lập giữa hai giai cấp thống trị và bị trị rất gay gắt thông qua xung đột hôn nhân, xung đột gđ.
Chủ đề chính của vở chèo Quan Âm Thị Kính có thể tóm gọn trong một chữ Oan. Nỗi oan khuất của người phụ nữ được tập trung cao độ và sâu sắc trong vở chèo này.
Thành ngữ Oan Thị Kính được dùng để nói đến những nỗi oan trái đến mức phi lí, người bị oan không thể thanh minh về nỗi oan khiên của mình. Xuất phát từ câu chuyện của Thị Kính, một người phụ nữ ngoan hiền, hết lòng yêu thương chồng; thế nhưng chỉ vì một hành động nhỏ nhặt mà bị vu oan đến mức tan vỡ hạnh phúc, bị đay nghiến tàn nhẫn, bị trả về cho bố mẹ đẻ một cách tủi nhục, uất ức.Định nương nhờ cửa Phật để tìm sự thanh thản trong lòng,
nhưng ở đây Thị Kính lại bị Thị Mầu vu oan tội làm cho thị có thai. Thị Kính lại bị đuổi khỏi chùa, phải ra ở tam quan, chịu khổ nhục, oan ức một lần nữa. Nỗi oan khiên tày trời của nàng được đúc kết qua hai câu thơ:

"Lúc làm vợ bị chồng thất tiết
Khi giả trai bị gái đổ oan tình "​
28 tháng 11 2019

Thành ngữ là hiện tượng vô cùng độc đáo của tiếng Việt. Tuy ít chữ nhưng dưới cái vô hình thức ấy chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa, thâm tuý. Từ lâu, trong dân gian đã lưu truyền câu thành ngữ "Oan Thị Kính" để nói về những nỗi oan ức cùng cực và không thể giãi bày. Cuộc đời Thị Kính là sự chồng chất của những nổi oan. Tiếng xấu hại chồng là nỗi oan đầu tiên, cũng là khởi đầu của cuộc đời đầy oan nghiệt.

Thiện Sỹ là chồng của Thị Kính. Một lần đọc sách mệt, chàng ngủ thiếp đi từ lúc nào. Thấy trên cằm chàng có sợi râu mọc ngược, nghĩ là điềm gở. Nhân lúc chồng đang ngủ, Thị Kính dùng dao cắt sợi râu đó đi. Giật mình thức giấc, chẳng hiểu thực hư ra sao, chàng lu loa rằng vợ dùng dao định giết mình. Thế là nàng mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Nỗi oan này, nàng không sao giãi bày được. Oan ức, đau khổ quá, nàng cắt tóc giả trai đi tu. Những tưởng nhờ nơi cửa Phật để cõi lòng được bằng an, và được yên phận với những tháng ngày còn lại, nhưng nào có được như thế. Với vai chú tiểu, Thị Kính đã làm say lòng Thị Mầu lẳng lơ. Bao lần tán tỉnh, nhưng Thị Mầu không sao làm siêu lòng "chú tiểu". Bỗng nhiên, Thị Mầu bụng mang dạ chửa, vu vạ cho "chú tiểu" ăn nằm với chị. Một lần nữa, Thị Kính mang tội, bị đuổi ra khỏi chùa. Suốt mấy năm ròng, Thị Kính bồng bế đứa con Thị Mầu đi xin từng giọt sữa và chịu bao tai tiếng nhục nhã. Cho đến khi nàng chết, sự thật mới sáng rõ. Dẫu rằng, nàng được về cõi Niết bàn, nhưng nỗi oan của nàng là một cái gì đó quá nặng nề với người đời.

"Oan Thị Kính" là thành ngữ được dùng để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không giãy bày được.

21 tháng 3 2017

* Chủ đề của đoạn trích "Nỗi oan hại chồng"
Thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Nỗi oan bi thảm và bế tắc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
* Thành ngữ "Oan Thị Kính" dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức, cùng cực và không thể giãi bày.
Phản ánh đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.

21 tháng 3 2017

Đoạn trích Nỗi oan hại chồng thể hiện sâu sắc mâu thuẫn giai cấp thông qua xung đột hôn nhân, gia đình mà nạn nhân trực tiếp của mâu thuẫn ấy là người phụ nữ - những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng lại phải gánh chịu biết bao khổ cực, oan trái. Đây là hình tượng điển hình cho thân phận ngườì phụ nữ trong xã hội phong kiến thối nát.
- Giải thích Oan Thị Kính:
+ Thị Kính là con gái nhà nghèo, về làm dâu nhà giàu, chỉ vì vô tình mà mang tiếng giết chồng - một nỗi oan không thể gột rửa, không thể thanh minh - cuối cùng đành xuống tóc đi tu mà vẫn không thoát khỏi số phận oan nghiệt. Chỉ là nam nhi giả dạng mà lại bị khép vào án hoang thai.
+ Tích truyện Quan Âm Thị Kính từ xưa đã được phổ biến rộng rãi trong dân gian. Những oan trái Thị Kính mắc phải được nhân dân ta đồng cảm nên thành ngữ Oan Thị Kính (hay Oan như oan Thị Kính) được dùng để chỉ những nỗi oan ức quá mức, cùng cực, không thể giãi bày.

25 tháng 1 2018

Hành động:

●   Dúi đầu Thị Kính xuống đất

●   Dúi tay Thị Kính ngã khuỵu xuống

●   Đuổi Thị Kính về nhà với ông Mãng

Ngôn ngữ:

●   Con mặt sứa gan lim

●   Bay là mèo mả gà đồng lẳng lơ

●   Câm đi!

●   Trên dâu dưới Bộc hẹn hò

●   Chém bổ băm vẩm xích mặt

●   Phi mặt gái trơ như mặt thớt

●   Ngựa bất kham, đồng nát, gái nỏ mồm

●   Liu điu, con nhà cua ốc

●   Đồ sát chồng

Nhận xét: Sùng bà đã sử dụng những từ ngữ cay nghiệt và hành động dứt khoát để sỉ nhục và buộc tội Thị Kính, không chỉ tội mưu sát chồng, mà còn cả tội lẳng lơ, trai gái, không đứng đắn. Người phụ nữ tội nghiệp ấy không được lên tiếng để buộc tội cho chính mình vì bị gạt phắt đi bởi lời khẳng định chắc chắn của Sùng bà.

21 tháng 2 2018

• Những lần kêu oan của Thị Kính với Sùng ông, Sùng bà và Thiện Sĩ hoàn toàn không nhận được sự cảm thông mà là sự buộc tội lạnh lùng của những con người ấy. Sùng bà không để Thị Kính nói lời giải thích, không để nàng giãi bày nỗi oan khiên. Thậm chí, chồng nàng là Thiện Sĩ, người đầu ấp tay gối, suốt ngày ở bên cạnh cũng không hề tin tưởng và nhân cách, đức hạnh của nàng. Hắn không hề lên tiếng bênh vực cũng không hề hỏi vợ sự tình là thế nào mà nghe theo lời mẹ, buộc tội Thị Kính, ngầm đồng ý để Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ.

• Lời kêu oan của Thị Kính với cha mới nhận được sự cảm thông, thấu hiểu. Mãng ông là người đã sinh ra và nuôi dạy Thị Kính nên ông biết rõ con gái mình là người đức hạnh, nết na. Ông thương con nhưng không biết kêu oan cho con thế nào. Ông chỉ có thể đưa Thị Kính về nhà để "cha liệu cho con".

17 tháng 11 2017

Trong trích đoạn, Thị Kính đã kêu oan năm lần:

●   3 lần kêu oan với Sùng bà: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi!; Oan cho con lắm mẹ ơi! Chàng học khuya mỏi mệt, Con thấy râu mọc ngược dưới cằm...; Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

●   Một lần kêu oan với Thiện Sĩ (chồng): Oan cho thiếp lắm chàng ơi!

●   Một lần kêu oan với Mãng ông (Cha): Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!

22 tháng 4 2018

Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích.

26 tháng 7 2018

Nhân vật nữ chính tcong vở chèo này là Thị Kính. Nàng con nhà nghèo, có nhan sắc nên lấy được chồng là Thiện Sĩ con nhà hào phú. Do bị vu là hại chồng, nàng bị hành hạ vùi dập, bị đuổi đi. Không còn con đường nào khác nàng đã chọn quãng đời còn lại cho mình là tu hành.

Thị Kính được sinh ra trong một gia đình nghèo khó, mến mộ nhan sắc của nàng Thiện Sĩ cưới nàng làm vợ. Cuộc sống vợ chồng đang bình thường yên ấm, bỗng chốc nàng bị mang tội tày trời: giết chồng.

Một hôm, vợ ngồi khâu vá, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Vốn yêu chồng nàng lân la ngắm nghía khuôn mặt chồng yêu, bất chợt:

Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc

Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta

Râu làm sao một chiếc chồi ra ...

Dạ thương chồng lòng thiếp sao an

Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.

Nàng vì muốn đẹp cho chồng, thương chồng. Rõ ràng việc nàng lấy dao cắt bỏ cái râu mọc ngược trên mặt chồng là thế hiện tình cảm đó. Nhưng trớ trêu thay chính hành động đó đã khiến cả cuộc đời nàng mang nỗi oan khiên. Và thế là như một quả bom nổ tung trong gia đình Sùng bà, chưa rõ mọi chuyện nhưng qua lời kể của Thiện Sĩ thì đích thị là nàng.

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya

Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ

Con nói đây có quỷ thần hai vai chứng tỏ

Dẫu thực hư đôi lẽ con chưa tường.

Thật nực cười thay cho Thiện Sĩ, lấy vợ mà chẳng hiểu vợ mình thế nào, và chàng chẳng cần xem xét sự việc thực hư đã khẳng định là vợ muốn giết mình. Đây có lẽ cũng là một trong những điều khiến ta suy nghĩ nhiều. Vợ chàng chàng đâu tìm hiểu, cha mẹ lấy cho là chàng có vợ. Sự việc sẽ bình thường nếu như vị nho sinh kia hiểu vợ, hiểu hành động của vợ. Lẽ dĩ nhiên, câu chuyện rẽ sang ngả khác và bi kịch với Thị Kính diễn ra.

Sùng bà mạt sát Thị Kính thậm tệ, bà quả quyết rằng Thị Kính muốn giết con bà, bằng chứng là con dao kề cổ.

Cái con mặt sứa gan lim này! mày định giết con bà à?

Mụ vừa chửi vừa rủa vừa dúi đầu Thị Kính ngã xuống. Mụ gào lên như chính mình bị ăn hiếp. Mụ chửi Thị Kính là tuồng lẳng lơ, mèo mả gà đồng. Mụ gạt phắt đi những lời kêu oan khẩn cầu của Thị Kính. Nàng muốn giãi bày đầu đuôi sự việc nhưng nào có được. Mụ xỉa xói cho rằng nàng “cả gan” là kẻ hư hỏng say hoa đắm nguyệt, trên dâu dưới Bộc... và “gái say trai lập chí giết chồng và đòi chém bổ băm vằm Thị Kính. Mụ khinh bỉ Thị Kính vì không biết đạo lý vơ chồng, tam tòng tứ đức rồi cầu mong cho Thị Kính bị báo ứng.

Mụ cho rằng Thị Kính không xứng với Thiện Sĩ, quyết đuổi Thị Kính ra khỏi nhà. Mụ vênh váo tự cao cho rằng gia đình mụ là cao môn lệnh tộc, là rồng phượng không thể sống cùng hạng cua ốc, liu điu. Ta thấy rằng trong đoạn trích này hầu như không có một phản ứng nào của chồng mụ và con mụ. Trước sự việc lớn như vậy mà Sùng ông - trụ cột gia đình không dám đứng ra phân giải xem xét dự việc. Sùng ông chỉ là kẻ nát rượu, lèm bèm. Còn Thiện Sĩ thì răm rắp nghe lời mẹ, mặc dù vợ mình đang một mực kêu oan. Dường như mọi quyền hành trong gia đình thuộc về một tay mụ ác (Sùng bà). Như vậy cả chồng của mụ, con trai mụ cũng không dám nói câu nào huống hồ con dâu. Thị Kính chỉ biết khóc và cũng chỉ khóc mà thôi.

Trong sáu lần nàng khóc van xin có đến bốn lần nàng van lạy Sùng bà, nàng càng khóc thì mụ càng chửi mắng thậm tệ hơn. Với nàng nỗi oan chỉ có kêu trời mà thôi.

Bị vu oan là giết chồng, tội ác không thể tha thứ, mẹ chồng nàng không cần biết nàng nói gì, mặc nàng cứ khóc, cứ van xin. Mụ nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đó là sự tủi nhục cực khổ vô cùng của Thị Kính, của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ. Sinh ra phải kiếp nhà nghèo tưởng rằng được nương tựa nhà giàu là bớt khổ, tưởng rằng lấy được chồng có học thì cuộc sống gia đình sẽ ấm êm, ai ngờ nhà giàu họ khinh bỉ phận nghèo, coi nàng như cỏ rác, còn chồng thì đần độn... Nàng còn biết nhờ cậy vào ai?

Ngay cả cha đẻ của nàng cũng bị Sùng ông khinh miệt coi thường, mặc dù giữa họ là chỗ thông gia. Cha con ôm nhau cùng khóc, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này.

Nếu như sự bế tắc của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là bị chồng nghi oan là thất tiết, thanh minh không được nàng đành trầm mình xuống bến Hoàng Giang thì ở đây Thị Kính lại khác. Nàng tuy bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ, nàng đau khổ về miệng đời cũng không sao tránh khỏi tiếng mỉa mai. Nàng xót xa cho số phận hẩm hiu, trách cuộc đời oan trái, nàng trách gia đình nhà Thiện Sĩ đang tay nỡ bẻ phận hồng làm đôi. Nàng cũng chẳng cầu mong nhật nguyệt rạng soi. Điều này, cho ta thấy chính trong lúc bề tắc tột nàng đã vượt lên chính mình làm chủ được mình.

Không, không phải sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính

Và nàng xuống tóc đi tu.

Những kẻ nghèo hèn trong xã hội luôn bị vùi dập, Thị Kính là một ví dụ. Nàng đức hạnh thuỷ chung nhưng không được sống cuộc đời hạnh phúc. Chính gia đình nàng đã đẩy nàng vào chân tường, nàng đã không chọn cái chết, nàng không chịu ngậm oan nơi chín suối. Nàng đã nhận thức rằng phải sống, sống để minh oan cho mình. Không phải riêng nàng mà dường như trong nhận thức của nhân dân ta khi quá khổ cực, quá cay đắng họ thường tìm đến thế giới siêu nhiên để tự an ủi mình, đế tìm lối thoát. Họ quan niệm chỉ có đến cửa phật mới mong rũ bỏ bụi trần, khiến cho con người ta thiện hơn, nhân ái với nhau hơn. Và cũng chỉ có đức phật mới chứng giám cho lòng nhân lòng thiện của con người. Với Thị Kính có lẽ chỉ có con đường tu hành là duy nhất, nhưng thực tế oan khiên với nàng còn đeo đẳng nàng ngay lúc nàng đã đi tu. Nỗi oan chồng chất đeo đẳng theo nàng mãi.

Sự bế tắc không chỉ của Thị Kính mà là của cả một lớp người, giai tầng xã hội. Cả cuộc đời họ chuỗi ngày oan trái không lối thoát. Tiếng nói của họ là sự lên án mạnh mẽ xã hội thối nát đồng thời mơ ước một xã hội tốt đẹp hơn như cõi tu chẳng hạn. Đây chính là sự bế tắc, có thể nói rằng là sự buông xuôi phó mặc cho số phận của cả một xã hội chưa có cách mạng dẫn đường.

Nỗi oan hại chồng là tiếng kêu thương, đau khổ của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ. Bị vu oan, bị vùi dập, bị xua đuổi, sống trong bế tắc. Song dù trong hoàn cảnh như vậy thì Thị Kính nói riêng và dân ta nói chung có chăng lối thoát duy nhất:

Tu là cõi phúc, tình là dây oan