K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 11 2017

Văn bản ''Cây dừa Bình Định'' nêu lên lời ích của cây dừa và sự gắn bó của nó đới với người dân Bình Định.

Văn bản ''Tại sao lá cây có màu xanh lục'' giải thích chất diệp lục là nguyên nhân khiến ta nhìn thấy lá cây có màu xanh.

Văn bản ''Huế'' giải thích Huế - một trung tâm văn hóa lớn của Việt Nam.

Có thể gặp những văn bản này ở sách, bái, sách dư địa chí, các phương tiện thông tin đại chúng,.....

Đặc điểm chung:

+ Cung cấp tri thức chính xác, không hư cấu.

+Trình bày đặc điểm tiêu biểu của sự vật.

+Các ý mạch lạc, rõ ràng.

Đặc điểm ngôn ngữ:

+Phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.

Phương thức:

+ Cần trình bày đặc điểm cơ bản của đối tượng thuyết minh một cách khách quan và gắn liền với tư duy khoa học.

+ Các dữ liệu đưa ra phải chính xác, rõ ràng.

Chúc bạn học tốt!!!hihi

2 tháng 11 2017

Meo Meo bạn cho mk xin tấm ảnh dọc đc ko

18 tháng 10 2017

- Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết.

- Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung.

-Đoạn văn song hành (Không có câu chủ đề): Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đọan văn.

18 tháng 10 2017

ko có jhaha

19 tháng 12 2017

Dịch ra là : 

Hát cho tôi ngủ ngay.

Hát cho tôi ngủ.

Anh sẽ không hát cho tôi ngủ bây giờ?

Hát cho tôi ngủ.

A- bất cứ lúc nào

Tôi sẽ làm

Thời gian xa

Hôm qua. !!!

13 tháng 8 2018

,ngày tháng năm

Mẹ yêu mến của con!

Đây là lần đầu con viết thư cho mẹ. Con từng dùng những lời lẽ văn hoa trong những cuốn sách viết ra. Nhưng với mẹ, con sẽ viết bằng lời lẽ chân thực nhất từ trái tim.

Mẹ à, trước khi viết những dòng này, con khóc rất nhiều. Con nghĩ về quãng thời gian gia đình cực khổ, gánh nặng đè trĩu lên đôi vai mẹ mỗi ngày. Với mong muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho chúng con, biết bao lần, mẹ phải nén chịu trong tủi hổ. Mẹ đừng khóc nhé, vì cả cuộc đời mẹ đã khóc nhiều rồi, và điều con sợ hãi nhất trên đời này là phải nhìn thấy nước mắt mẹ rơi.

Mẹ à, con thấy mình thật tệ. Đến bây giờ, con không nhớ được ngày sinh nhật của mẹ. Con cũng không biết mẹ thực sự thích ăn món gì. Bởi mỗi khi cả nhà ngồi ăn, mẹ đều nhường mọi người và nói không thích món đó. Nhưng khi mọi người không ăn hết, mẹ sẽ là người cố gắng ăn. Mẹ nói "Ngon thế mày mà không ăn, bỏ đi phí hoài ra".

Con đi khắp nơi, của ngon vật lạ gì con đều từng nếm thử. Mẹ thì khác. Miếng ngon với mẹ có khi chỉ là chiếc đùi gà đầy nạc, hoặc một khúc cá thật to. Con còn biết cả những khi có đồ ngon đó, mẹ lại đậy lại để phần cho con...

Con biết rất nhiều lần mẹ từng tự oán trách bản thân mình vì mẹ vô dụng. Mẹ nói tại mẹ đau yếu, bệnh tật nhiều nên nhà mình mới nghèo mãi. Mẹ thường rằn vặt vì mẹ nên chị em chúng con không được sống cuộc sống no đủ như bạn bè cùng trang lứa.

Nhưng mẹ biết không? Mẹ là niềm tự hào lớn nhất trong cuộc đời của con. Con từng tự hỏi, không biết kiếp trước mình đã tu đủ bao nhiêu phúc đức để kiếp này được mẹ sinh ra.

Ngày nhỏ, con từng nhìn thấy mẹ quỳ gối van xin người khác để lấy tiền cho con kịp đóng học phí. Hôm đó là một buổi trưa tháng sáu trời đầy nắng, mẹ chở con trên con đường làng bằng chiếc xe đạp cà tàng, giọt mồ hôi thấm đẫm lưng. Tới nơi mẹ dặn con đứng ngoài cổng đợi.

Con đã đợi mẹ rất lâu nhưng không thấy mẹ trở lại. Vì lo lắng, con đã chạy vào tìm mẹ. Trước mắt con là hình ảnh mẹ quỳ sụp trước mặt người ta. Hai tay mẹ chắp lại cầu xin, trong khi khuôn mặt nhỏ nhắn ướt nhòa nước mắt. Mẹ van xin cho mẹ vay thêm vài trăm nghìn nữa để cho con kịp đóng học phí, rồi đến mùa mẹ sẽ trả lúa.

Thế mà, người ta vẫn làm ngơ coi như không có sự tồn tại của mẹ. Họ biết nhà mình quá nghèo. Nhà mình nợ quá nhiều. Nếu cho nhà mình vay rồi cũng làm sao có khả năng chi trả. Ấy vậy mà mẹ cứ gan lì quỳ ở đó, cho đến khi người ta nhún nhường, lấy tiền ra đưa cho mẹ, mẹ mới chịu đứng lên. Mẹ gạt nước mắt mang tiền ra đưa cho con mang tới lớp đóng học.

Con biết, mẹ không muốn để con thấy những cảnh tượng ấy. Đó là hình ảnh mà đến tận bây giờ, khi nghĩ lại, sống mũi con vẫn cay cay, khóe mắt trào dâng vì căm phẫn, xúc động. Đối với con, đó cũng là động lực chắp cánh cho con quyết tâm đứng lên thay đổi cuộc đời. Con quyết rằng, sẽ không bao giờ để những giọt nước mắt của mẹ trở thành vô nghĩa.

Đó là những câu chuyện của ngày xưa. Còn bây giờ, con đã lớn khôn sau bàn tay nuôi nấng của mẹ. Mỗi khi, con bước vào một nhà hàng quán ăn nào đó, nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ trung tuổi ngồi cặm cụi rửa bát, mắt con cay xè vì nghĩ đến mẹ.

Bởi trước đây, mẹ từng có những tháng ngày phải làm những công việc như thế. Mẹ làm giúp việc. Mẹ rửa bát thuê, kiếm tiền cùng bố nuôi chúng con ăn học. Sức khỏe mẹ vốn không tốt, nhưng con chưa từng thấy mẹ một lời kêu than. Thay vào đó là những lời xoa dịu mẹ không sao cả. Nhưng mẹ à, con biết rằng, đó là những lời nói dối từ sâu thẳm trái tim. Con nhớ nhiều lần, mẹ dặn con đừng bao giờ cho mọi người biết mẹ của con là người giúp việc, vì người ta sẽ khinh thường con đấy.

Nhưng đối với con, con có thể tự hào với mọi người rằng, mẹ tớ từng đi giúp việc cho nhà người ta đấy. Bởi con luôn thấy, điều đó không bao giờ xấu hổ. Nếu mẹ không có những ngày tháng ấy, thì cũng sẽ chẳng có con của ngày hôm nay. Mỗi lần bước chân lên máy bay hoặc bước chân vào một nơi đẹp đẽ sang trọng nào đó con đều nghĩ đến mẹ. Nhờ có mẹ con mới có thể đặt chân tới những nơi thế này.

Ngày xưa mẹ luôn bảo, bố mẹ nghèo, nên sẽ không có của cải hồi môn vàng bạc vốn liếng gì để cho các con. Bố mẹ cho mỗi đứa một cái nghề bằng cách nuôi cho các con ăn học tới nơi tới chốn, để sau này các con tự lao động tự kiếm tiền bằng trí tuệ, bằng bàn tay của mình, sẽ chẳng bao giờ lo chết đói. Mẹ còn nói, ví thử mẹ có vài chục cây vàng cho con cũng chưa chắc đã tốt. Chẳng may con lấy chồng không tốt, nó cờ bạc vài hôm là hết, con phải ra đường tay trắng, chi bằng mẹ cho con cái nghề và những kinh nghiệm sống bổ ích sau này.

Mẹ nói mẹ là nông dân quê mùa, không hiểu biết gì cả, nhưng mẹ lại dùng trái tim của mẹ để nuôi dạy chúng con nên người trưởng thành. Và trái tim của người mẹ thì chẳng bao giờ sai cả.

Con bây giờ luôn đi giày cao gót, ăn mặc nhiều loại quần áo màu mè. Còn mẹ vẫn dép lê và quần hoa mộc mạc như chính mẹ của bao năm qua. Con vẫn luôn thích nắm tay mẹ đi khắp nơi và tự hào khoe với cả thế giới rằng mẹ là mẹ của con.

Con yêu mẹ!

Vu Lan này, con viết thư cho mẹ!

"Với mong muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho chúng con, biết bao lần, mẹ phải nén chịu trong tủi hổ. Mẹ đừng khóc nhé, vì cuộc đời mẹ đã nhiều lần nước mắt tuôn rơi...".

"Mẹ là phụ nữ nhưng chưa một lần trong đời mang giày cao gót

Suốt những năm ròng mẹ đi chân trần nhiều hơn số lần xỏ dép

Bàn chân mẹ dọc dài theo năm tháng…

Cũng trai sần, bởi gánh nặng mưu sinh

Gối mẹ hơn một lần đã quỳ xuống vì con

Tự trọng, với kiêu hãnh, hình thù chúng ra sao mẹ không biết

Chỉ cần con được đứng thẳng vươn vai giữa cuộc đời dài rộng

Với mẹ thế là đủ rồi.

Hao gầy kia mẹ sẽ chịu, chai sạn kia mẹ sẽ mang

Chỉ cần con an vui là đủ...".

Con của mẹ

13 tháng 8 2018

bài bn tự viết à.Cảm ơn nhé!

6 tháng 12 2017

Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, có rất nhiều các loại đồ dùng, vật dụng được con người sử dụng trong gia đình. Đó là những vật dụng hữu ích, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người. Có công dụng như một loại bình để chứa nước, đặc biệt là giữ cho nước luôn ấm để mọi người trong gia đình có thể sử dụng bất kì lúc nào, mà không cần tốn công hâm nóng hay đi đun lại nước. Vật dụng thần kì này mang lại cho con người rất nhiều tiện ích. Đó là chiếc phích nước.

Phích nước là một trong những vật dụng được sử dụng phổ biến trong các gia đình. Công dụng lớn nhất của chiếc phích nước chính là giữ nước nóng ở nhiệt độ ổn định. Phục vụ kịp thời nhu cầu sử dụng nước của con người mà không mất thêm nhiều công sức đun nóng. Với thiết kế đặc biệt, chiếc phích nước có thể duy trì độ nóng của nước trong một thời gian khá dài, khoảng bảy đến mười ngày. Chiếc phích nước được cấu tạo bởi các bộ phận chính như: vỏ phích- đây là bộ phận bảo vệ ruột phích, thường được làm bằng nhựa. Vỏ phích cũng là bộ phận cách nhiệt với ruột phích, người sử dụng có thể thoải mái sử dụng, va chạm với lớp vỏ bày mà không sợ bị phỏng, nóng. Ngày nay, do nhu cầu sử dụng đi kèm với nhu cầu thẩm mĩ nên con người nên những chiếc phích được trang trí bởi họa tiết hoa văn, những hình vẽ ở vỏ phích vô cùng độc đáo và đa dạng.

Bộ phận thứ hai của chiếc phích mà ta có thể kể đến, đó chính là ruột phích. Trong cấu tạo của phích, ruột phích được xem là bộ phận quan trọng nhất, nó có vai trò giữ nhiệt độ của nước nóng. Do ruột phích được làm bằng một lớp thủy tinh mỏng, sau đó được tráng trên bề mặt một lớp bạc nên phích nước có thể duy trì nhiệt độ của nước trong một thời gian dài. Bộ phận thứ ba của chiếc phích nước là chiếc lắp phích, bộ phận này cũng vô cùng quan trọng bởi nó là bộ phận dùng để che kín miệng phích, cách li được nước nóng trong phích tiếp xúc với không khí bên ngoài. Chiếc lắp phích thường được làm bằng nhựa, gồm hai lớp. Lớp ở trong có những đường xoáy để tạo độ khít với phích nước, lớp bên ngoài có hình dạng như một chiếc cốc nhỏ, đậy ở trên cùng.

Phích nước thường có dạng hình trụ dài, kích thước ở thân đều nhau, miệng tương đối nhỏ. Với kích thước này chỉ thích hợp dùng siêu đổ nước trực tiếp hoặc dùng những chiếc ca có miệng để rót nước vào phích. Màu sắc, hình dạng, kích thước của những chiếc phích cũng khá đa dạng. Ngày nay, người ta sản xuất phích nước với rất nhiều mẫu mã, màu sắc khác nhau, đáp ứng được nhu cầu sử dụng cũng như sở thích của mỗi người, mỗi gia đình. Nếu như hình dáng bên ngoài của chiếc phích có hình trụ dài thì ruột phích lại có hình trứng, thon tròn ở dưới đáy, thuôn dài ở phần thân.

Về kích thước của những chiếc phích phụ thuộc hoàn toàn vào dung lượng nước mà nó có thể chứa. Thể tích thông thường nhất của những chiếc phích là khoảng 300 ml, nhưng cũng có những loại phích có kích thước lớn hơn 500 ml để phục vụ cho những gia đình đông người, cho những gia đình có nhu cầu sử dụng nước nóng nhiều. Phích nước có công dụng có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người, song giá thành của nó cũng rất rẻ, giá dao động từ một trăm nghìn đồng đến hai trăm năm mươi nghìn đồng, tùy thuộc vào thể tích, mẫu mã, nhãn hiệu… nhờ những chiếc phích nước mà con người luôn có nước nóng để phục vụ các nhu cầu sinh hoạt như: pha trà, pha mì tôm, hòa cà phê….

Những chiếc phích mang lại nhiều tiện ích cho con người, trong đó quan trọng nhất là tiết kiệm được thời gian, công sức. Con người có thể sử dụng nước nóng bất kì lúc nào, nhiệt độ trong phích luôn được đảm bảo, nhu cầu sử dụng cũng được đáp ứng tốt hơn. Như vậy, phích nước là một vật dụng không thể thiếu trong sinh hoạt của mỗi người, mỗi gia đình.

6 tháng 12 2017

Việt Nam chúng ta có nhiều ngày tiết trời oi bức vì là nước thuộc vùng nhiệt đới, năm gần đường xích đạo. Lúc ấy, chúng ta sẽ cần đến một vật dụng mà chúng ta đang sử dụng hằng ngày - quạt máy.

Quạt điện hay quạt máy là một thiết bị dẫn động bằng điện được dùng để tạo ra các luồng gió nhằm phục vụ lợi ích cho con người (nhất là giảm sức nóng của cơthể, hạ nhiệt, giúp con người cảm thấy mát, thoải mái), thông gió, thoát khí, làm mát, hoặc bất kì tác động liên quan đến không khí trong môi trường sống. Khi hoạt động, quạt điện gồm các cánh quạt xoay nhanh tạo ra các dòng khí. Các nhà sản xuất thiết kế mỗi quạt điện có nhiều mức độ quay khác nhau từ mức cao nhất đến mức thấp nhất.

Cấu tạo chung của quạt gồm các phần chính : Thân quạt có gắn bộ công tắc chỉnh tốc độ, lồng quạt, cánh quạt, mô-tơ quạt và bộ chuyển hướng. Một số quạt có thêm đèn trang trí, đồng hồ... Mô-tơ quạt gồm có: cuộn dây đồng quấn trên lõi sắt từ (stator) gồm nhiều tấm tole silic mỏng ghép lại với nhau để tránh dòng điện Phu - Cô. Rotor cũng được làm bằng nhiều lá thép mỏng ghép lại và có phần nhôm đúc nối với cốt thép để gắn cánh quạt và phần đuôi để tạo chuyển động cho bộ chuyển hướng, tụ điện để tạo ra dòng điện lệch pha. vỏ nhôm để ghép giữa rotor và stator. Bạc thau có ổgiữ dầu bồi trơn để giảm lực ma sát.

Nguyên lí hoạt động của quạt: Khi có dòng điện chạy trong dây dẫn quấn trên lõi sắt từ được làm bằng tole silic mỏng ghép nhiều miếng lại với nhau sẽ tạo ra một lực tác động lên rotor. Do vị trí các cuộn dây (dây chạy và dây đề) đặt lệch nhau và tác dụng làm lệch pha của tụ điện sẽ tạo ra trong lòng stator các lực hút không cùng phương với nhau. Vì hai lực hút lệch nhau về thời gian và phương nên sẽ tạo ra trong lòng stator một từ trường quay làm cho rotor quay được. Để thay đổi tốc độ của quạt người ta quấn trên đó một số vòng dây chung với cuộn chạy, khi dòng điện tăng lên hoặc giảm đi do thay đổi điện trởcủa cuộn dây sẽ tạo ra một từ trường mạnh hơn hay yếu hơn sẽ làm quạt chạy nhanh hơn hoặc chậm hơn.

Nguồn gốc của quạt điện được tạo ra theo cơ chế hoạt động giống như quạt kéo ở vùng Trung Đông vào đầu thế kỉ XIX. Đó là một hệ thống gồm một cái khung làm bằng vải bạc kết nối với một sợi dây dẫn kéo tới và lui tạo ra luồng gió. Sau cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỉ XIX, các nhà máy thủy lực đã tạo ra một loại quạt dẫn động bằng đai. Họ thay trục giữa của quạt bằng bộ phận máy móc động và từ đó quạt điện bắt đầu được phát triển dần. Một trong những người tạo ra quạt máy đầu tiên là Omar-Rajeen Jumala vào năm 1832. ông gọi phát minh của mình là máy quạt li tâm, hoạt động giống như máy bơm không khí. Các loại quạt li tâm này được sử dụng rất thành công ởtrong các nhà máy vào năm 1832-1834. Và khi Thomas Alva Edison và Nikola Tesla phát hiện ra nguồn năng lượng điện cho toàn thế giới vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, và từ đó các loại quạt chạy bằng cơ học đã cải tiến thành quạt điện. Giữa năm 1882 đến năm 1886, Tiến sĩ Schuyler Skaats Wheeler đã phát triển thành loại quạt bàn và quạt điện cá nhân. Một công ty động cơ điện ởMĩ Crocker & Curtis đã mua lại sản phẩm này và đưa vào thị trường cho người sử dụng. Năm 1882, Philip Diehl đã giới thiệu đến chiếc quạt điện trần và Diehl được xem là cha đẻ của chiếc quạt điện hiện đại ngày nay. Vào cuối thế kỉ XIX, quạt điện được các hộ gia đình sử dụng. Những loại quạt đối lưu nhiệt được chạy bằng cồn, dầu, hoặc là dầu hỏa đã phổ biến khắp thế giới vào thế kỉ XX. Và ũ khoảng cuối thập niên 1890 đến đầu những năm 1920, quạt điện đã du nhập vào nước Mĩ. Chiếc lồng quạt bảo vệ của họ không có tính an toàn do người dân lúc ấy chưa biết, khoảng cách giữa các lưới ởlồng quạt (bằng sắt, đồng hoặc nhôm tạo thành một cái lồng) rất lớn, có độ hở rộng vì thế nhiều người nhất là trẻ em đã bị thương do cánh quạt gây ra.

Vào thập niên 1920, do có sự cải cách và mặt tiến bộ công nghiệp trong sản xuất nên đã hạ giá quạt để nhiều nhà có thể đủ tiền mua sử dụng. Đến năm 1930, nghệ thuật trang trí quạt ra đời (quạt hình Thiên nga). Trong năm 1950, các loại quạt được sản xuất và sơn đủ loại màu sắc bắt mắt. Khi máy điều hòa không khí ra đời vào năm 1960 là lúc đánh dấu kết cho sự kết thúc của cả một tuổi vàng cho quạt điện. Trong những năm 1970, kiểu quạt trần của Nữ hoàng Victoria được phổ biến thế giới. Trong thế kỉ XX, quạt điện đã trở nên thiết thực hơn. Một số ứng dụng tiêu biểu nhất bao gồm điều hòa không khí, hệ thống giảm nhiệt độ, tiện ích của con người (như quạt bàn điện), thông gió (như quạt hút thải khí), sàng lọc (như dùng để tách các hạt ngũ cốc), loại bỏ bụi (như máy hút bụi). Con người thường dùng quạt điện để làm khô quần áo, tóc...

Trong thập niên 2000, việc chọn mua quạt thẩm mĩ phù hợp với nhà đã trở thành một mối quan tâm lớn của mọi người. Quạt điện đóng vai trò là một phần rất lớn trong cuộc sống mỗi ngày ởmột số nước vùng nhiệt đới. Hiện nay, mặc dù đã có điều hòa không khí nhưng chiếc quạt điên vẫn rất phổ biến và được dùng nhiều nhất ởtrong mọi gia đình Việt Nam.

- chúc bạn học tốt

18 tháng 12 2019

Chảy máu ở động mạch:

các bước tiến hành sơ cứu:

- Dùng ngón tay cái dò tìm vị trí động mạch ở cánh tay, khi thấy dấu hiệu mạch đập rõ thì bóp mạnh để làm ngừng máu chảy ở vết thương vài ba phút.

- Buộc garo: Dùng dây cao su hay vải mềm buộc chặt ở vị trí gần sát nhưng cao hơn vết thương ( về phía tim), với lực ép đủ làm cầm máu.

- sát trùng vết thương ( nếu có điều kiện), đặt gạc và bông lên miệng vết thương, rồi băng lại.

- Đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu

18 tháng 12 2019

+Ấn động mạch

+gấp chi tối đa

+băng ép

+băng chèn

+băng đút nút

+dùng kẹp để kẹp mạch máu

+khâu mép vết thương

+đặt garo

14 tháng 9 2018

cha mẹ là người yêu ta nhất,bổn p của con cái:

-yêu mến cha mẹ,bt vâng lời.

ko cãi ngang cãi dọc khi mk sai

lm cho cha mẹ vui,đửng lúc nào cx game lm cha mẹ buồn

16 tháng 10 2017

Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn nước ta vào những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhà văn Nguyên Hồng đã được bạn đọc yêu quý. Bởi vì, ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhà văn đã hướng ngòi bút về những người cùng khổ, gần gũi mà ông yêu thương với trái tim thắm thiết của mình. Đọc văn Nguyên Hồng, chúng ta bắt gặp bao nhiêu người cùng khổ đáng cảm thông, đáng yêu thương và trân trọng. Trong đó, nổi bật là những người bà, người mẹ, người chị, những cô bé, cậu bé,… Có nhà nghiên cứu đã nhận định : Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng. Đọc đoạn trích Trong lòng mẹ – chương IV – hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, chúng ta bắt gặp hai người phụ nữ và một thiếu niên. Cả ba nhân vật đều được nhà văn khắc hoạ bằng một ngòi bút chận thực, với một trái tim nhạy cảm. Tinh cảm bao trùm toàn bộ đoạn văn là lòng mẹ dịu êm, tình con cháy bỏng, đầy ấn tượng.

Tuy chỉ là một chương thuộc phần giữa của thiên hồi kí chín chương, nhưng đoạn trích được bỗ cục khá chật chẽ, rành mạch, tương đương một truyện ngắn. Phần mở bài (từ đầu đến "… sống bằng cách đó"), nêu cảnh ngộ éo le của chú bé Hồng : cha vừa mất, mẹ bỏ nhà đi tha hương cầu thực. Phần thân bài (từ "Một hôm…" đến "… thơm tho lạ thường") kể câu chuyện : mặc dù bị người cô châm chọc, khích bác, Hồng vẫn tin yêu mẹ, nên cuối cùng đã được gặp lại mẹ, được sống trong lòng mẹ dịu êm, chứa chan hạnh phúc. Đoạn kết bài ("Phải bé lại… không mảy may nghĩ ngợi gì nữa") nhấn mạnh niềm hạnh phúc của tình mẫu tử. Lần theo câu chuyện về một chặng đời thơ ấu của Nguyên Hồng – cũng là cuộc đời của biết bao em bé khổ đau trong xã hội bấy giờ – chúng ta thấy nổi bật lên hai tình huống truyện, gắn với tâm trạng tính cách ba nhân vật : nhân vật bà cô, nhân vật bé Hổng và nhân vật người mẹ.

Qua cuộc đối thoại giữa hai cô cháu ở phần thứ nhất của thân bài, nhân vật bà cô hiện lên là một người phụ nữ mang tâm địa độc ác. Mở đầu câu chuyện, bà cô gọi bé Hồng, cười hỏi : "Mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mẹ mày không ?". Sao lại cười hỏi mà không phải là lo lắng hỏi, nghiêm trang hỏi, hoặc âu yếm hỏi,… ? Nụ cười nửa miệng và câu hỏi thăm dò kia tưởng đã chạm tới nỗi nhớ và tình thương mẹ của chú bé khốn khổ. Nhưng không, chỉ trong giây lát, Hồng đã "nhận ra những ý nghĩa cay độc trong giọng nói và trên nét mặt khi cười rất kịch kia". Điều đó nghĩa là bề ngoài, bà cô ra vẻ quan tâm đến tình cảm mẹ con của đứa cháu côi cút, thực chất bên trong bà ta chỉ gieo rắc vào đầu đứa trẻ nỗi hoài nghi, rồi ruồng rẫy người mẹ đang phải tha hương cầu thực. Sau khi nghe cháu đáp : "Không ! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về.", một lời đáp cứng cỏi, đầy niềm tin đối với mẹ, thì bà cô hỏi luôn, giọng ngọt, kèm theo cái nhìn bằng đôi mắt long lanh, chằm chặp : "Sao lại không vào ? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu !". Nói câu này, bà cô như ngầm báo với Hồng rằng mẹ của chú bé đã thay lòng đổi dạ, không thương con, không gắn bó với gia đình như trước nữa. Khi thấy cháu im lặng, cúi đầu xuống đất, bà cô hẳn biết rằng lòng cháu đang thắt lại. Nhưng bà vẫn chưa tha, tiếp tục cười mà nói : "Mày… cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ". Cái cử chỉ vỗ vai, cái nụ cười và lời nói ấy mới giả dối, độc ác làm sao ! Điêu này chứng tỏ bà ta cố ý lôi đứa cháu đáng thương vào một trò chơi cay độc của người lớn. Đến đây, bà cô không chỉ cay độc, mà còn châm chọc, nhục mạ cháu. Thật cay đắng biết bao khi niềm tin và tình mẫu tử bị người khác – lại chính là cô mình, người gắn bó với mình bằng tình máu mủ – cứ săm soi hành hạ. Nguyên Hồng đã kể lại vô cùng chân thực nỗi đau của đứa trẻ bị hành hạ bàng một giọng văn trĩu nặng tình đời : "Nước mất tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ. Hai tiếng em bé mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, thật rõ, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn". Cái ý định nói xấu người mẹ, chia rẽ tình mẹ con của nhân vật bà cô như vậy đã đến đích. Song bà ta vẫn chưa thoả lòng. Cả đến khi chú bé phẫn uất, nức nở cười dài trong tiếng khóc, bà cô vẫn không mảy may xúc động. Bà ta như vô cảm, lạnh lùng và có phần thích thú trước nỗi đắng cay như bị xát muối trong lòng của đứa cháu. Bà ta cứ tươi cười kể các chuyện… Tinh cảnh túng quẫn, hình ảnh gầy guộc, rách rưới của người mẹ chú bé được bà cô miêu tả một cách tỉ mỉ với vẻ thích thú rõ rệt. Cho đến khi nhìn thấy đứa cháu nghẹn lời, khóc không ra tiếng, bà cô mới đổi giọng nghiêm nghị và vỗ vai an ủi cháu, tỏ một chút xót thương người anh trai vừa khuất, thương hại người chị dâu khổ sở, nói tới ngày giỗ anh, nói tới việc nhắn chị dâu về, nói tới cái sĩ diện của đứa cháu,… Vài lời vớuvát cuối cùng ấy tuy làm dịu đi đôi phần nỗi đau tình mẫu tử trong tâm hồn chú bé Hồng, nhưng không xoá nổi những nét bản chất trong tính cách nhân vật bà cô. Đó là một người phụ nữ lạnh lùng, độc ác, thâm hiểm. Khắc hoạ nhân vật một bà cô như thế, nhà văn Nguyên Hồng đã chân thành và mạnh dạn phê phán những người sống tàn nhẫn, khô héo cả tình máu mủ, ruột rà trong xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ. Câu tục ngữ cổ xưa của cha ông ta "Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng" dường như đã ứng nghiệm trong nhân vật bà cô ở đoạn trích này. Đọc văn Nguyên Hồng, suy ngẫm về lời cha ông, chúng ta mong rằng những bà cô của chúng ta ngày nay sẽ khác những bà cô ngày xưa…

Trái ngược với hình ảnh nhân vật bà cô là hình ảnh người mẹ (cũng là một phụ nữ) và nhân vật "tôi", bé Hồng, một thiếu nhi. Cả hai đều rất đáng thông cảm và mến thương. Trước hết chúng ta hãy ngắm nhìn và suy ngẫm về hình ảnh người mẹ. Không đợi con trai viết thư và chắc cũng chẳng cần cô em chồng nhờ người nhắn gọi về, mẹ của Hồng đã trở về nhà vào đúng "ngày giỗ đầu thầy tôi", nghĩa là người phụ nữ ấy không quên tình nghĩa và trách nhiệm đối với con, với chồng và gia đình chồng. "Mẹ tôi về một mình đem rất nhiều quà bánh… Xe chạy chầm chậm. Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi… Mẹ tôi vừa kéo tay tôi… xoa đầu tôi… Mợ đã về với các con rồi mà… Mẹ thấm nước mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe…". Tư thế ấy, những cử chỉ ấy và lời nói ấy mới đàng hoàng làm sao, đẹp đẽ làm sao. Đẹp hơn nữa là hình hài của mẹ, sự ân cần, âu yếm mà mẹ dành cho con. Nhà văn đã dành những lời đẹp nhất miêu tả người mẹ : "… Mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mất trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má…". Trên quãng đường ngắn, ngồi xe tay bên đứa con trai bé bỏng côi cút, được ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình, người mẹ đã trẻ lại, tươi đẹp như thuở nào. Và người mẹ ấy đã truyền cho đứa con bao nhiêu là niềm vui, hạnh phúc, thật… êm dịu vô cùng, đúng như lời kể của nhà văn. Rõ ràng, hình ảnh và tấm lòng người mẹ ấy hoàn toàn không như những lời xúc xiểm, những ý nghĩ cay độc, thành kiến của bà cô. Sau nhân vật bà cô, khắc hoạ chỉ bằng vài nét chấm phá giản dị nhân vật người mẹ như thế, phải chăng nhà văn muốn gợi cho người đọc sự đối sánh về chân dung những người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ. Và cũng từ đó, nhà văn bày tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng mà chủ yếu là nỗi đau và tình thương, thương những lầm lỡ của con người, thương kiếp người gặp nhiều gian truân, tủi cực.

Bên cạnh nhân vật người mẹ mang nhiều nét đẹp, nhân vật chú bé Hồng hiện lên với biết bao suy nghĩ và cảm xúc, cũng thật là đẹp, đáng chia sẻ, đáng trân trọng. Qua nhân vật này, chúng ta không chỉ cảm nhận những cung bậc tâm trạng của một chú bé rất mực tin yêu mẹ mà còn hiểu cụ thể, sâu sắc những nét đặc trưng của thể văn hồi kí, một thể văn đậm chất trữ tình. Chất trữ tình thống thiết của ngòi bút Nguyên Hồng thể hiện bằng lời kể của nhân vật "tôi" (tức bé Hồng) với những diễn biến tâm trạng theo trình tự thời gian trong hai mối quan hệ : quan hệ với bà cô và quan hộ với người mẹ, rất cụ thể.

Khi nói chuyện với bà cô, bé Hồng chịu bao nhiêu đau đớn, uất ức, nhưng vẫn một lòng tin yêu mẹ. Nghe lời nói thứ nhất của bà cô, lập tức trong kí ức chú bé sống dậy hình ảnh người mẹ ở nơi xa, cơ cực, vất vả. Từ cử chỉ "cúi đầu không đáp" đến lúc cười và đáp lại : "cuối năm thế nào mợ cháu cũng về" là một phản ứng thông minh xuất phát từ sự nhạy cảm và lòng tin yêu mẹ của chú bé. Chú đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa cay độc trong lời bà cô và cố gắng giữ vững tình thương yêu và lòng kính mến mẹ. Nhưng vì tuổi thơ non nớt, nên đến lời nói thứ hai, thứ ba của bà cô, lòng chú bé "càng thất lại, .khoé mắt đã cay cay", rồi "nước mắt ròng ròng, rớt xuống hai bên mép rồi chan hoà đầm đìa ở cằm và ở cổ…". Nỗi đau, sự day dứt đã lên đến đỉnh cao. Trong tâm hồn non nớt ấy, diễn ra một mâu thuẫn : "Tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm…". Tinh thương, niềm tin yêu và một chút ngờ vực đối với người mẹ như dang nổi bão, giằng xé trong lòng chú bé. Nhưng chú vẫn cố kìm nén để giữ vững tình yêu và niềm tin. Vì thế, bé Hồng đã "cười dài trong tiếng khóc" hỏi lại bà cô về cái tin sét đánh kia. Nỗi uất ức và đau đớn như chuyển sang trạng thái chai lì, bướng bỉnh. Khi nghe bà cô tươi cười kể lể tình cảnh khốn khổ của mẹ mình thì "cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng". Và một ý nghĩ táo tợn bất cần, đầy phẫn nộ đã trào sôi như cơn dông tố trong lòng chú bé : "Giá những cổ tục đã đày đoạ mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi". Một câu văn biểu cảm và một hình ảnh so sánh đặc sắc! Nguyên Hồng đã sử dụng các từ cắn, nhai, nghiến,… nằm trong rnột trường nghĩa đặc tả tâm trạng uất ức, căm giận của nhân vật. Đến đây, tình thương và niềm tin đối với mẹ đã xui khiến người con hiếu đễ ấy suy nghĩ sâu hơn, xúc cảm rộng hơn. Từ cảnh ngộ riêng của người mẹ, từ những lời nói kích động của người cô, bé

Hồng nghĩ tới những "cổ tục", căm giận cái xã hội cũ kĩ đầy đố kị, thành kiến độc ác đối với những người phụ nữ gặp hoàn cảnh éo le. Từ câu chuyện riêng của đời mình, Nguyên Hồng đã truyền tới người đọc những nội dung mang ý nghĩa xã hội bằng những dòng văn giàu cảm xúc và có hình ảnh, rất ấn tượng. Qua cuộc đối thoại và những cung bậc cảm xúc của bé Hồng trước bà cô, chúng ta thông cảm với những nỗi đau thấm thìa, đồng thời rất trân trọng một bản lĩnh cứng cỏi, một tấm lòng thiết tha của người con rất mực thương và tin yêu mẹ. ;

Nhờ tình thương và niềm tin ấy, đến khi gặp mẹ, bé Hồng đã nhận được niềm sung sướng, hạnh phúc lớn lao. Như trên ta đã biết, người mẹ của bé Hồng trở về đúng thời điểm quan trọng nhất, đã xua tan mọi đau đớn, dằn vặt trong tâm hồn chú bé. Mới chỉ thoáng thấy một bóng người giống mẹ, chú bé Hồng đã vội vã, bối rối, vừa chạy theo vừa gọi mẹ. Được ngồi lên xe cùng mẹ, chú bé "oà lên khóc rồi cứ thế nức nở" khiến cho người mẹ cũng "sụt sùi theo". Ba từ oà, nức nở, sụt sùi cùng trường nghĩa, nối nhau miêu tả các dạng thức đặc biệt của tiếng khóc, của những dòng lệ. Đây là âm thanh, là nước mắt của biết bao nỗi niềm, tâm trạng hai mẹ con : tủi hận, tự hào, bàng hoàng, sung sướng,… Cảm giác sung sướng của đứa con khi được ngồi kề bên mẹ, được ôm ấp trong lòng mẹ cứ dâng lên từng giây, từng phút. Trước hết, chú được tận mắt nhìn thấy mẹ, "nhận ra mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá… Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má…". Có được một người mẹ như thế, chú bé nào chẳng vui sướng, tự hào, huống chi là bé Hồng, đứa trẻ côi cút từng mong gặp lại mẹ đến cháy lòng, cháy ruột, từng phải dấu tranh với người khác cố ý nói xấu mẹ mình, chia rẽ tình mẹ con. Tiếp sau, chú bé được mẹ ôm ấp "đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi,… hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường…". Chỉ một đoạn văn ngắn mà nhà văn đã sử dụng dồn dập bao động từ, tính từ, nhất là những danh từ cùng trường nghĩa : ỹương mặt, đôi mắt, nước da, gò má, đùi, đầu, cánh tay, da thịt, khuôn miệng,… miêu tả vô cùng sinh động niềm hạnh phúc lớn lao tưởng như tới đỉnh điểm của tình mẫu tử. Đây thực sự là những cảm giác "mơn man" ngây ngất, đắm say mà vô cùng êm dịu của tình máu mủ, ruột thịt mà những đứa trẻ bất hạnh không dễ gì có được. Nhà văn đã dựng lại một bức tranh tràn ngập ánh sáng, đường nét rõ ràng, hài hoà, trong đó là những sắc màu tươi tắn, thoang thoảng hương thơm. Đó là một hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỉ niệm, ãm ắp tình.