K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 9 2017
1. Thì Hiện Tại Đơn (Simple Present):

Công thức thì hiện tại đơn đối với động từ thường

  • Khẳng định:S + V_S/ES + O
  • Phủ định: S+ DO/DOES + NOT + V +O
  • Nghi vấn: DO/DOES + S + V+ O ?

Công thức thì hiện tại đơn đối với động từ Tobe

  • Khẳng định: S+ AM/IS/ARE + O
  • Phủ định: S + AM/IS/ARE + NOT + O
  • Nghi vấn: AM/IS/ARE + S + O ?
Dấu hiệu nhận biết thì hiện tại đơn:

Thì hiện tại đơn trong câu thường có những từ sau: Every, always, often , usually, rarely , generally, frequently.

Cách dùng thì hiện tại đơn:
  • Thì hiện tại đơn nói về một sự thật hiển nhiên, một chân lý đúng.

Ex: The sun rises in the East and sets in the West.

  • Thì hiện tại đơn diễn tả 1 thói quen , một hành động thường xảy ra ở hiện tại.

Ex:I get up early every morning.

  • Để nói lên khả năng của một người

Ex : Tùng plays tennis very well.

  • Thì hiện tại đơn còn được dùng để nói về một dự định trong tương lại

EX:The football match starts at 20 o’clock.

  • Lưu ý : ta thêm “es” sau các động từ tận cùng là : O, S, X, CH, SH.

Xem thêm chi tiết chi tiết về: thì hiện tại đơn

2. Thì hiện tại tiếp diễn (Present Continuous): Công thức thì hiện tại tiếp diễn:
  • Khẳng định: S +am/ is/ are + V_ing + O
  • Phủ định: S + am/ is/ are+ not + V_ing + O
  • Nghi vấn:Am/is/are+S + V_ing+ O ?
Dấu hiệu nhận biết thì hiện tại tiếp diễn:

Thì hiện tại tiếp diễn trong câu thường có những cụm từ sau: At present, at the moment, now, right now, at, look, listen.…

Cách dùng:
  • Diễn tả hành động đang diễn ra và kéo dài trong hiện tại.

Ex: She is going to school at the moment.

  • Dùng để đề nghị, cảnh báo, mệnh lệnh.

Ex: Be quiet! The baby is sleeping in the bedroom.

  • Thì này còn diễn tả 1 hành động xảy ra lặp đi lặp lại dùng với phó từ ALWAYS

Ex : He is always borrowing our books and then he doesn’t remember.

  • Dùng để diễn tả một hành động sắp xảy ra trong tương lai theo kế hoạch đã định trước

Ex: I am flying to Moscow tomorrow.

  • Diễn tả sự không hài lòng hoặc phàn nàn về việc gì đó khi trong câu có “always”

Ex: She is always coming late.
Lưu ý : Không dùng thì hiện tại tiếp diễn với các động từ chỉ tri giác, nhận thức như : to be, see, hear,feel, realize, seem, remember, forget, understand, know, like , want , glance, think, smell, love. hate ……….

Ex: He wants to go for a cinema at the moment.

Học toàn bộ các thì tiếng Anh

Các thì trong tiếng Anh là những kiến thức cơ bản và bạn cần nắm chắc. Học tiếng Anh quan trọng nhất là việc sử dụng thành thạo được các thì khi Nghe Nói Đọc Viết. Nếu bạn ở Hà Nội và muốn học lại toàn bộ các kiến thức nền tảng tiếng Anh về ngữ pháp và từ vựng kết hợp với luyện tập Nghe Nói trong 3 tháng thì bạn có thể tham khảo lộ trình đào tạo Tiếng Anh cho người mới bắt đầu của Anh Ngữ Jaxtina tại đây

3. Thì quá khứ đơn (Simple Past):

Khẳng định:S + was/were + V2/ED + O
Phủ định: S + was/were + not+ V2/ED + O
Nghi vấn: Was/were+ S + V2/ED + O ?

Dấu hiệu nhận biết:

Các từ thường xuất hiện trong thì quá khứ đơn: Yesterday, ago , last night/ last week/ last month/ last year, ago(cách đây), when.

Cách dùng:

Dùng thì quá khứ đơn khi nói về một hành động đã xảy ra và kết thúc trong quá khứ.
EX:

I went to the concert last week .
I met him yesterday.

Xem thêm chi tiết về: Thì quá khứ đơn

4.Thì quá khứ tiếp diễn

Khẳng định: S + was/were + V_ing + O
Phủ định:S + was/were+ not + V_ing + O
Nghi vấn: Was/were+S+ V_ing + O ?

Dấu hiệu nhận biết:
  • Trong câu có trạng từ thời gian trong quá khứ với thời điểm xác định.
    • At +thời gian quá khứ (at 5 o’clock last night,…)
    • At this time + thời gian quá khứ. (at this time one weeks ago, …)
    • In + năm trong quá khứ (in 2010, in 2015)
    • In the past
  • Khi câu có “when” nói về một hành động đang xảy ra thì có một hành động khác chen ngang vào.
5. Thì hiện tại hoàn thành (Present Perfect):

Khẳng định:S + have/ has + V3/ED+ O

Phủ định:S + have/ has+ NOT + V3/ED+ O

Nghi vấn:Have/ has + S+ V3/ED+ O ?

Dấu hiệu :

Trong thì hiện tại đơn thường có những từ sau: Already, not…yet, just, ever, never, since, for, recenthy, before…

Cách dùng
  • Nói về một hành động xảy ra trong quá khứ, kéo dài đến hiện tại, có thể xảy ra trong tương lai.

EX: John have worked for this company since 2005.

  • Nói về hành động xảy ra trong quá khứ nhưng không xác định được thời gian, và tập trung vào kết quả.

EX: I have met him several times

Xem thêm chi tiết về: thì hiện tại hoàn thành

6. Thì hiện tại hoàn thành tiếp diễn (Present Perfect Continuous):

Khẳng định: S + have/ has + been + V_ing + O
Phủ định: S + haven’t/ hasn’t + been + V-ing
Nghi vấn: Have/ Has + S + been + V-ing ?

Dấu hiệu nhận biết:

Trong câu thì hiện tại hoàn thành tiếp diễn thường có các từ sau: All day, all week, since, for, for a long time, in the past week, recently, lately, up until now, and so far, almost every day this week, in recent years.

Cách dùng
  • Dùng để nói về hành động xảy ra trong quá khứ diễn ra liên tục, tiếp tục kéo dài đến hiện tại.

EX: I have been working for 3 hours.

  • Dùng để diễn tả hành động xảy ra trong quá khứ nhưng kết quả của nó vẫn còn ở hiện tại.

EX: I am very tired now because I have been working hard for 10 hours.

Xem thêm chi tiết về: thì hiện tại tiếp diễn

7. Quá khứ hoàn thành (Past Perfect):

Khẳng định: S + had + V3/ED + O

Phủ định: S + had+ not + V3/ED + O

Nghi vấn: Had +S + V3/ED + O ?

Dấu hiệu nhận biết:

After, before, as soon as, by the time, when, already, just, since, for….

Cách dùng

Diễn tả một hành động đã xảy ra, hoàn thành trước một hành động khác trong quá khứ. EX: I had gone to school before Nhung came.

Xem thêm chi tiết về thi: Quá khứ hoàn thành

8. Quá khứ hoàn thành tiếp diễn (Pas Perfect Continuous):

Khẳng định: S + had + been + V-ing + O
Phủ định: S + had+ not + been + V-ing
Nghi vấn: Had + S + been + V-ing ?

Dấu hiệu nhận biết:

Until then, by the time, prior to that time, before, after.

Cách dùng
  • Nói vềmột hành động xảy ra kéo dài liên tục trước một hành động khác trong quá khứ.

EX: I had been typing for 3 hours before I finished my work.

  • Nói về một hành động xảy ra kéo dài liên tục trước một thời điểm được xác định trong quá khứ.

EX: Phong had been playing game for 5 hours before 12pm last night

Xem thêm chi tiết chi tiết về: thì quá khứ hoàn thành tiếp diễn

9. Tương lai đơn (Simple Future):

Khẳng định:S + shall/will + V(infinitive) + O

Phủ định: S + shall/will +not+ V(infinitive) + O

Nghi vấn: Shall/will+S + V(infinitive) + O ?

Dấu hiệu:

Tomorrow, Next day/ Next week/ next month/ next year, in + thời gian…

Cách dùng:
  • Diễn tả dự định nhất thời xảy ra ngay tại lúc nói.

EX: Are you going to the Cinema? I will go with you.

  • Nói về một dự đoán không có căn cứ.

EX: I think he will come to the party.

  • Khi muốn yêu cầu, đề nghị.

EX: Will you please bring me a cellphone?

Xem thêm chi tiết về: thì tương lai đơn

10. Thì tương lai tiếp diễn (Future Continuous):

Khẳng định: S + shall/will + be + V-ing+ O
Phủ định: S + shall/will + not + be + V-ing
Nghi vấn: Shall/Will+S + be + V-ing ?

Dấu hiệu:

next year, next week, next time, in the future, and soon.

Cách dùng :
  • Dùng để nói về một hành động xảy ra trong tương lai tại thời điểm xác định.

EX: At 10 o’clock tomorrow, my friends and I will be going to the museum.

  • Dùng nói về một hành động đang xảy ra trong tương lai thì có hành động khác chen vào.

EX:When you come tomorrow, they will be playing football.

Xem thêm chi tiết về: thì tương lai tiếp diễn

11. Thì tương lai hoàn thành (Future Perfect)

Khẳng định:S + shall/will + have + V3/ED
Phủ định: S + shall/will + not + have + V3/ED
Nghi vấn: Shall/Will+ S + have + V3/ED ?

Dấu hiệu:
  • By + thời gian tương lai, By the end of + thời gian trong tương lai, by the time …
  • Before + thời gian tương lai
Cách dùng :
  • Dùng để nói về một hành động hoàn thành trước một thời điểm xác định trong tương lai. EX: I will have finished my job before 7 o’clock this evening.
  • Dùng để nói về một hành động hoàn thành trước một hành động khác trong tương lai.
    I will have done the exercise before the teacher come tomorrow.

Xem thêm chi tiết về: thì tương lai hoàn thành

12. Tương Lai Hoàn Thành Tiếp Diễn (Future Perfect Continuous):

Khẳng định: S + shall/will + have been + V-ing + O

Phủ định:S + shall/will not/ won’t + have + been + V-ing
Nghi vấn: Shall/Will + S+ have been + V-ing + O ?

Dấu hiệu:

For + khoảng thời gian + by/ before + mốc thời gian trong tương lai

EX: for 10 years by the end of this year (được 10 năm cho tới cuối năm nay)

13 tháng 7 2016

mk nè. tổng cộng là 13 thì nhé bạn

4 tháng 9 2021

9. I spend about two hours walking to school.

10. It took Susan an hour to prepare her report.

11. I spent three months learning piano.

12. It took Adam 30 minutes to read a book everyday.

13. It often takes her 20 minutes to review her lesson before class.

4 tháng 9 2021

9 l spend about two hours walking to school 

10 it took susan an hour to prepare her report 

11 l spent three months learning piano 

12 it took adam 30 minutes to read a book everyday 

13 it often takes her 20 minutes to review her lesson before class

I think we need to stay healthy to prevent the flu, keep as healthy as i can by taking good care of myself. Sleep and nutritional considerations are help to prevent the onset of a cold or flu, a healthy lifestyle helps my immune system to be in its best possible shape, giving me the best chance of being able to fight off the onset of a cold or flu.

I need to eat healthily. Healthy foods such as vegetables, fruit, grains, etc., are an important part of keeping my body nutrition at its optimum. Processing fatty and sugary foods don't give the immune-boosting protection that healthier food does. Sugary foods can decrease immune function.

Exercise regularly. Exercise has enhancing immune-system that can help ward off illness. Overdo too much strenuous or excessive can leave me prone to illness, too. I make sure to get adequate sleep every night, get at least seven to eight hours sleep nightly

          I need to reduce my stress too. Stress can harm the ability of my immune system to work optimally, and people who are stressed tend to catch colds more than less stressed people. Manage my stress is contributing to prevent the flu. Beside, Drinking water may also help wash cold and flu viruses from my throat to my stomach where they cannot survive. Although getting cold doesn't actually cause a cold or flu (the viruses do), but being cold can reduce my stamina and make me feel miserable and fatigued, so i need to stay warm.

In addition, i eat more fruits to get vitamin C that might help me prevent the common cold, and i will also drink more milk, this will be help me healthy and stronger to prevent the cold

=> Bài dịch:

Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải giữ sức khỏe để phòng ngừa bệnh cúm, Giữ sức khỏe khi tôi có thể bằng cách chăm sóc tốt bản thân mình. Giấc ngủ và chế độ dinh dưỡng cũng giúp ngăn chặn sự tấn công của cảm lạnh hoặc cúm, một lối sống lành mạnh sẽ giúp hệ thống miễn dịch của tôi luôn trong tình trạng tốt nhất có thể, cho tôi cơ hội tốt nhất để chống lại sự tấn công của cảm lạnh hoặc cúm.

Tôi cần phải ăn uống lành mạnh. Các loại thực phẩm lành mạnh như rau, trái cây, ngũ cốc, vv, là một phần quan trọng của việc giữ dinh dưỡng trong cơ thể của tôi tại mức tối ưu của nó. Việc chế biến chất béo và các loại thực phẩm ngọt không cung cấp cho việc bảo vệ tăng cường miễn dịch bằng các thực phẩm lành mạnh. Thực phẩm ngọt có thể làm giảm chức năng miễn dịch.

Tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục làm tăng cường hệ thống miễn dịch giúp tránh bệnh tật. Việc lạm dụng việc thể dục quá nhiều hoặc quá mức có thể cũng làm tôi bị bệnh. Tôi chắc chắn có giấc ngủ đủ mỗi đêm, ngủ ít nhất là bảy đến tám giờ hàng đêm.

Tôi cũng cần phải giảm căng thẳng. Căng thẳng có thể gây hại khả năng hệ thống miễn dịch của tôi làm việc tối ưu, những người căng thẳng thì có xu hướng dễ bị cảm lạnh hơn là những người ít bị căng thẳng. Việc quản lý căng thẳng góp phần trong việc phòng ngừa bệnh cúm. Bên cạnh đó, việc uống nước cũng có thể giúp rửa sạch virus cảm lạnh và cúm từ cổ họng đến dạ dày của tôi khiến chúng không thể tồn tại.Mặc dù bị lạnh không thực sự gây cảm lạnh hoặc cúm (mà virus mới gây ra điều này), nhưng bị lạnh có thể làm giảm khả năng chịu đựng của tôi và làm cho tôi cảm thấy khổ sở và mệt mỏi, vì thế tôi cần phải giữ ấm.

Ngoài ra, tôi ăn nhiều trái cây để có được vitamin C có thể giúp tôi ngăn ngừa cảm lạnh thông thường, và tôi cũng sẽ uống sữa nhiều hơn, điều này sẽ giúp tôi khỏe mạnh và mạnh mẽ hơn để ngăn ngừa cảm lạnh.

24 tháng 10 2019

-do more exercise

-eat more vegetables

-..................................

Thằng điên 

mày cứ dịch đi xong tao dịch sau

kb 0

2 tháng 1 2019

Sai chính tả nhiều thế ! 

Ông bà Dursley, nhà số 4 ñường Privet Drive, tự hàomà nói họ hoàn toàn bình thường, 

cám ơn bà con quan tâm. Bà con ñừng trông mong gì họ tin vào những chuyện kỳ lạ 

hay bí ẩn, ñơn giản là vì họ chẳng hơi ñâu bận tâm ñến mấy trò vớ vẩn ñó. 

Ông Dursley là giám ñốc một công ty gọi là Grunnings, chuyên sản suất máy khoan. 

Ông là một người cao lớn lực lưỡng, cổ gần như không có, nhưng lại có một bộ ria mép 

vĩ ñại. Bà Dursley thì ốm nhom, tóc vàng, với một cái cổ dài gấp ñôi bình thường, rất 

tiện cho bà nhóng qua hàng rào ñể dòm ngó nhà hàng xóm. Hai ông bà Dursley có một 

cậu quý tử tên là Dudley, mà theo ý họ thì không thể có ñứa bé nào trên ñời này ngoan 

hơn ñược nữa. 

Gia ñình Dursley có mọi thứ mà họ muốn, nhưng họ cũng có một bí mật, và nỗi sợ hãi 

lớn nhất của họ là cái bí mật ñó bị ai ñó bật mí. Họ sợ mình sẽ khó mà chịu ñựng nổi 

nếu câu chuyện về gia ñình Potter bị người ta khám phá. Bà Potter là em gái của bà 

Dursley, nhưng nhiều năm rồi họ chẳng hề gặp gỡ nhau. Bà Dursley lại còn giả ñò như 

mình không có chị em nào hết, bởi vì cô em cùng ôngchồng vô tích sự của cô ta chẳng 

thể nào có ñược phong cách của gia ñình Dursley. 

Ông bà Dursley vẫn rùng mình ớn lạnh mỗi khi nghĩ ñến chuyện hàng xóm sẽ nói gì nếu 

thấy gia ñình Potter xuất hiện trước cửa nhà mình. Họ biết gia ñình Potter có một ñứa 

con trai nhỏ, nhưng họ cũng chưa từng nhìn thấy nó.ðứa bé ñó cũng là một lý do khiến 

họ tránh xa gia ñình Potter: Họ không muốn cậu quý tử Dudley chung chạ với một 

thằng con nít nhà Potter. 

Vào một buổi sáng thứ ba xám xịt âm u, ông bà Dursley thức dậy, chẳng hề cảm thấy 

chút gì rằng bầu trời ñầy mây kia ñang báo hiệu những ñiều lạ lùng bí ẩn sắp xảy ra 

trên cả nước Anh. Ông Dursley ậm ừ khi chọn cái cà-vạt chán nhất thế giới ñeo vào cổ 

ñi làm. Bà Dursley thì lách chách nói trong lúc vậtlộn với cậu quý tử Dudley ñang gào 

khóc vùng vẫy, không chịu ngồi ăn sáng tử tế. Khôngmột ai ñể ý ñến một con cú to và 

ñen thui bay xẹt qua cửa sổ. 

Tám giờ rưỡi, ông Dursley sách cặp, hửi cồ bà Dursley một cái và cố hôn cậu quý tử 

trước khi ñi làm. Nhưng cậu Dudley ñang chơi trò ñánh trống thổi kèn, phun phèo phèo 

thức ăn và vun vãi mọi thứ tứ tung, kể cả cái hôn của cha. Ông Dursley vừa cười khoái 

chí: “Thằng chó con”, vừa ñi ra khỏi nhà. Ông lên xe, lái ra khỏi ngôi nhà số 4 của mình. 

Chính ở ngay góc ñường, ông nhận thấy dấu hiệu ñầu tiên của chuyện lạ: Một con mèo 

xem bản ñồ. Thoạt tiên, ông Dursley không nhận ra ñó là chuyện kỳ quái. Thế rồi ông 

giật mình quay lại nhìn lần nữa. Có một con mèo hoang ñứng ở góc ñường Privet Drive, 

nhưng bây giờ lại chẳng có tấm bản ñồ nào cả! Chẳnglẽ chuyện ñó là do ông tưởng 

tượng ra ư? Hay ánh sáng ñã làm ông lóa mắt? Ông Dursley chớp chớp mắt rồi chăm 

chú nhìn con mèo. Nó cũng nhìn lại ông. 

Ông lái xe vòng qua góc ñường, ñi tiếp, và tiếp tụcnhìn con mèo qua kính chiếu hậu. 

Nó lúc ấy ñang ñọc bảng tên ñường Privet Drive- À không, ngó bảng tên ñường chứ, 

mèo ñâu có thể ñọc bảng tên ñường hay xem bản ñồ! Ông Dursley lắc lắc ñầu, ñuổi con 

mèo ra khỏi óc. Khi lái xe vào thành phố, ông khôngmuốn nghĩ ñến cái gì khác hơn là 

những ñơn ñắt hàng máy khoan mà ông mong có ñược nhiều thật nhiều trong ngày 

hôm ñó. 

Nhưng sắp vào tới thành phố, chợt có một việc khiếnông không còn tâm trí nghĩ ñến 

những chiếc máy khoan nữa: lúc ngồi ñợi trong xe, giữa dòng xe cộ kẹt cứng, ông 

không thể không nhận thấy hình như xung quanh có rất nhiều người ăn mặc lạ lùng 

ñang lảng vảng. Tất cả bọn họ ñều mặc áo trùm kín. Ông Dursley vốn ñã không chịu nổi 

bọn người ăn mặc dị hợm- những thứ lôi thôi mà ñám trẻ vẫn mặc!- nên ông cho là lần 

này chắc lại là một thời trang ngu ngốc nào ñó xuấthiện. 

Ông sốt ruột nhịp ngón tay trên tay lái xe hơi và ánh mắt ông ñụng nhằm một cặp quái 

ñang chụm ñầu ñứng gần ñó. Họ ñang thì thầm với nhau coi bộ rất kích ñộng. Ong 

Dursley giận sôi lên khi nhận thấy cặp này cũng chẳng còn trẻ gì: Coi, gã ñàn ông trông 

còn già hơn cả ông, vậy mà lại khoác áo trùm màu xanh ngọc bích! Chẳng ra thể thống 

gì cả! ðầu óc gì thế chứ! Nhưng ông Dursley chợt giật mình- hình như những người này 

ñang tụ tập vì một chuyện gì ñó… Ừ, hình như vậy!… 

Dòng xe cộ thông, và chỉ vài phút sau ông Dursley ñã lái xe vào bãi ñậu của hãng 

Grunnings, ñầu óc ông giờ ñã quay trở lại với mấy cái máy khoan. 

Trong văn phòng ở lầu chín, ông Dursley thường vẫn hay ngồi quay lưng lại cửa sổ. Giả 

sử không ngồi kiểu ñó, thì rất có thể sáng hôm ấy ông sẽ khó tập trung ñược vô mấy cái 

máy khoan. Bởi ngồi như vậy, nên ông ñã không thấy,bên ngoài cửa sổ, một ñàn cú 

bay lượn xao xác giữa ban ngày. Mọi người dưới phố ñều trông thấy, nhưng ông Dursley 

thì không. Người ta chỉ trỏ kinh ngạc, thậm chí há hốc mồm khi ngước nhìn ñàn cú bay 

vụt qua ngay trên ñầu, nhiều người trong số ñám ñông ấy thậm chí chưa từng thấy một 

con cú vào nửa ñêm, ñừng nói chi giữa ban ngày như thế này. 

Ai cũng thấy chỉ riêng ông Dursley là không thấy. Ông ñã trãi qua một buổi sáng hoàn 

toàn bình thường, không có cú. Sáng ñó, ông quát tháo năm người khác nhau. Ông gọi 

nhiều cú ñiện thoại quan trọng và la hét thêm một hồi. Tâm trạng ông sảng khoái cho 

ñến bữa ăn trưa, và tự nhủ mình phải duỗi chân cẳngmột chút, băng qua ñường, mau 

cho mình một cái bánh ở tiệm bánh mì. 

Ông hầu như ñã quên bén những người khoác áo trùm kín cho tới khi ñi ngang qua một 

ñám người ñứng gần tiệm bánh. Cả bọn ñều mặc áo trùm. Ông nhìn họ giận dữ. Ông 

không biết tại sao, nhưng họ làm ông khó chịu quá. Bọn này thì thào với nhau có vẻ rất 

kích ñộng, mà ông thì không nghe ñược tí teọ nào. Chỉ ñến lúc trên ñường về từ tiệm 

bánh mì, ñi ngang qua ñám người khoác áo trùm, ông Dursley mới nghe lõm bỏm ñược 

những gì họ nói: 

- Gia ñình Potter, ñúng ñấy. Tôi nghe ñúng như thế…

- … Ừ, con trai họ, Harry… 

Ông Dursley ñứng sững lại, chết lặng. Ông ngợp trong nỗi sợ hãi. Ông ngoái nhìn ñám 

người ñang thì thào như muốn nói gì với họ, nhưng rồi lại thôi. 

Ông băng nhanh qua ñường, vội vã về văn phòng, nạt viên thư ký là ñừng có quấy rầy 

ông, rồi cầm ñiện thoại lên, sắp quay xong số gọi về nhà thì lại ñổi ý. Ông ñặt ống nghe 

xuống, tay rứt rứt hàng ria, suy nghĩ… Không, ông hơi hồ ñồ. Potter ñâu phải là một cái 

họ hiếm hoi gì. Ông dám chắc là có hàng ñống người mang họ Potter và ñặt tên con 

mình là Harry. Nghĩ ñi nghĩ lại thật kỹ, ông thấy cũng không chắc thằng cháu của ông 

tên là Harry. Ông chưa từng gặp nó. Biết ñâu nó tênlà Harvey hay Harold. Chẳng việc 

gì ông phải làm phiền ñến bà Dursley; bả luôn luôn nổi giận và buồn bực khi nghe nhắc 

ñến cô em gái của mình. Ông cũng chẳng trách bà, ông cũng sẽ thế thôi nếu ông có 

một cô em gái như thế… Nhưng mà em của bà hay em của ông thì ñằng nào cũng vậy. 

Nhưng… cái bọn khoác áo trùm!… 

Buổi trưa ñó, ông bỗng thấy khó mà tập trung vô mấycái máy khoan, và khi rời sở làm 

lúc năm giờ chiều thì ông trở nên lo âu và căng thẳng ñến nỗi ñâm sầm vào một người 

ở ngoài cửa. 

- Xin lỗi! 

Ông càu nhàu với người ñàn ông nhỏ thó bị ông ñâm vào làm cho suýt ngã bổ ra sau. 

Nhưng chỉ vài giây sau, ông Dursley chợt nhận ra làgã ñàn ông ñó cũng khoác áo trùm 

màu tím. Gã không tỏ vẻ cáu giận về chuyện gã suýt bị lăn quay ra ñất. Ngược lại, mặt 

gã giãn ra một nụ cười toe toét, và gã nói với một giọng mơ hồ khiến mọi người ñi 

ngang phải ngoái nhìn. 

- ðừng lo, thưa ngài, hôm nay không có gì có thể làm tôi nổi cáu ñược ñâu. Vui lên ñi. 

Bởi vì kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy cuối cùng ñã biến rồi! Ngay cả dân 

Muggle như ngài cũng nên ăn mừng cái ngày vui vẻ, rất vui vẻ này ñi. 

Và gã ñàn ông ôm ngang người ông Dursley một cách thân tình rồi bỏ ñi. 

Ông Dursley ñứng như trời trồng tại chỗ. Ông bị mộtngười hoàn toàn xa lạ ôm thân 

tình một cái! Ông lại bị gọi là dân Muggle, không biết là cái quỷ gì? Ông ngạc nhiên quá. 

Vội vã ra xe, ông lái về nhà, hy vọng là những gì xảy ra chẳng qua là do ông tưởng 

tượng mà thôi. Nhưng mà trước nay, cókhi nào ông công nhận là có trí tưởng tượng ở 

trên ñời ñâu! 

Khi cho xe vào ngõ nhà số 4, cái trước tiên mà ông nhìn thấy – và cũng chẳng làm cho 

ông dễ thở hơn chút nào – là con mèo hoang to tướngmà ông ñã thấy hồi sáng. Con 

mèo ñang ngồi chong ngóc trên bờ tường khu vườn nhàông. Ông chắc là ñúng con 

mèo hồi sáng, bởi quanh mắt nó cũng có viền hình vuôn. Ông Dursley xuỵt lớn: 

- Xù. 

Con mèo chẳng thèm nhúc nhíc. Nó còn nhìn lại ông một cách lạnh lùng. Ông Dursley 

thắc mắc. Không biết có phải kiểu cư xử thông thường của mèo là vậy? Cố gắng lấy lại 

vẻ tự chủ, ông ñĩnh ñạc bước vào nhà. Ông vẫn còn quyết tâm là sẽ không nói gì với vợ 

về chuyện Potter. 

Bà Dursley cũng trãi qua một ngày bình thường tốt ñẹp. Trong bữa ăn tối, bà kể cho 

chồng nghe chuyện rắc rối của nhà hàng xóm và con gái của họ, cùng chuyện hôm nay 

Dudley học nói ñược thêm hai từ mới (“hổng thèm”). Ông Dursley cố gắng cư xử như 

bình thường. Khi bé Dudley ñược ñặt lên giường ngủ thì ông vào phòng khách ñể xem 

bản tin buổi tối. 

- Và cuối cùng, thưa quý vị khán giả, những người quan sát cầm ñiểu khắp nơi báo cáo 

là chim cú trên cả nước ñã hành ñộng hết sức bất thường suốt ngày hôm nay. Mặc dù 

cú thường ñi săn vào ban ñêm và ít khi xuất hiện vào ban ngày, nhưng cả ngày nay, từ 

sáng sớm, ñã có hàng trăm con cú bay tứ tán khắp mọi hướng. Các chuyên viên không 

thể giải thích nổi tại sao cú lại thay ñổi thói quen thức ngủ như vậy. 

Phát ngôn viên nói tới ñây tự thưởng cho mình một nụ cười rồi tiếp: 

- Cực kỳ bí hiểm. Và bây giờ là phần dự báo thời tiết của Jim McGuffin. Liệu ñêm nay 

còn trận mưa cú nào nữa không Jim? 

Người dự báo thời tiết ñáp: 

- À, tôi không rành vụ ñó lắm,nhưng ngày hôm nay không chỉ có cú hành ñộng quái 

chiêu, mà thời tiết cũng tỏ ra bất bình thường. Nhiều quan sát viên ở các vùng khác 

nhau ñã gọi ñiện thoại phàn nàn với tôi là thay vì một trận mưa như tôi ñã dự báo ngày 

hôm qua, thì họ lại nhận ñược một trận sao băng. Không chừng người ta ăn mừng lễ 

ñốt pháo bông quá sớm, nhưng thưa bà con, tuần sau mới tới ngày ñốt pháo bông mà! 

Dù vậy tôi xin cam ñoan là thời tiết tối nay sẽ rấtẩm ướt. 

Ông Dursley ngồi như ñóng băng trên ghế bành. Sao băng trên khắp bầu trời Anh – cát 

– lợi à? Cú bay lượn vào ban ngày ư? Những con người khoác áo trùm bí ẩn khắp nơi 

nữa chứ. Và… và những câu chuyện thì thào về gia ñình Potter… 

Bà Dursley bưng hai tách trà vào phòng. Không ổn rồi. Ông phải nói gì với bà thôi. Ông 

tằng hắng lấy giọng: 

- Ờ… em à… lâu nay em không nghe nói gì về em gái của em phải không? 

- Không. 

ðúng như ông “mong ñợi”, bà Dursley giật mình và ñổquạu. Chẳng phải là lâu nay cả 

hai ñã ngầm coi như bà chẳng hề có chị em gì hết sao? Giọng bà sắc lẻm: 

- Mà sao? 

Ông Dursley lầu bầu: 

- À, chỉ là ba mớ tin tức… cười. Nào là cú… sao băng… lại có cả ñống bọn khoác áo trùm 

nhôn nhạo dưới phố hôm nay… 

- Thì sao? – Bà Dursley ngắt ngang. 

Ông Dursley vội phân bua: 

- Ờ… anh chỉ nghĩ… có thể… có chuyện gì ñó dính dáng tới dì nó… em biết ñó… dì nó… 

Bà Dursley nhấp môi son vào tách trà. Ông Dursley băn khoăn không biết liệu mình có 

dám nói với vợ là ñã nghe thiên hạ bàn tán về cái tên “Potter” không.Cuối cùng ông 

không dám. Thay vào ñó, ông cố làm ra vẻ hết sức bình thường: 

- Thằng con trai của họ… chắc là nó bằng tuổi bé Dudley nhà mình, phải không em? 

Bà Dursley nhấm nhẳn: 

- Có lẽ 

- Nó tên gì? Howard phải không? 

- Harry. Một cái tên tầm thường xấu xí. 

- Ờ, xấu thật. Anh hoàn toàn ñồng ý với em. 

Ông không nói thêm lời nào nữa về ñề tài này khi cảhai lên lầu vào phòng ngủ. Trong 

khi bà Dursley vào buồn tắm, ông Dursley ñứng bên cửa sổ nhìn ra vườn. Con mèo vẫn 

còn ñó. Nó ñang chăm chu ngóng ra ñường Privet Drive như thể ñang chờ ñợi cái gì 

vậy. 

Hay là ông chỉ tưởng tượn ra mọi thứ? Tất cả những chuyện vớ vẩn này thì có liên quan 

gì tới gia ñình Potter nào? Nếu có… nếu mà có dính dáng với cặp phù… Oâi, nghĩ tới ñó 

ông ñã cảm thấy không chịu nổi. 

Ông bà Dursley lên giường ngủ. Bà Dursley ngủ ngay tức thì, còn ông Dursley thì cứ 

nằm trăn trở mãi. Cuối cùng một ý nghĩ dễ chịu ñã giúp ông ngủ thiếp ñi, ấy là nếu mà 

gia ñình Potter có dính dáng ñến tất cả những chuyện nhảm nhí ấy thì họ cũng không 

có lý do gì ñể dây dưa ñến gia ñình ông. Gia ñình Potter biết rất rõ bà Dursley nghĩ như 

thế nào về họ và bọn người như họ. Ông Dursley thấykhông có lý do gì ñể mình và vợ 

mình có thể bị khổ sở về những gì ñang diễn ra – Ông ngáp và trở mình – Chuyện ñó 

không thể nào ảnh hưởng ñến họ. 

Nhưng ông ñã lầm. 

Ông Dursley cuối cùng cũng có thể tóm ñược giấc ngủ, dù một cách khó khăn. Nhưng 

con mèo ngồi trên bờ tường ngoài thì không tỏ vẻ gìbuồn ngủ cả. Nó cứ ngồi bất ñộng, 

mắt ñăm không chớp về góc ñường Privet Drive. Nó không ñộng ñậy ngay cả khi có 

tiếng cửa xe ñóng sầm bên kia ñường. Không nhúc nhích ngay cả khi có hai con cú vụt 

qua phía trên ñầu. Và chính xác là ñến gần nữa ñêm con mèo ấy mới nhúc nhích. 

Ấy là lúc một ông già xuất hiện ở góc ñường mà con mèo ñang ngóng về. Cụ xuất hiện 

thình lình và lặng lẽ như thể từ mặt ñất chui lên. ðuôi con mèo nhẹ ve vẩy và mắt nó 

nhíu lại. 

Xưa nay trên ñường Privet Drive chưa từng có một người nào trông kỳ quái như cụ già 

ấy lại qua. Cụ ốm, cao, rất già, căn cứ vào mái tócvà chòm râu bạc phơ dài ñến nỗi cụ 

phải giắt chúng vô thắt lưng. Cụ mặc áo thụng dài, khoát áo trùm màu tím cũng dài 

quét ñất, mặc dù cụ ñã mang ñôi giày bốt cao gót lêu nghêu. ðôi mắt xanh lơ của cụ 

sáng rỡ và lấp lánh phía sau cặp kính có hình dạng nữa vành trăng. Mũi cụ thì vừa dài 

vừa khoằm như thể cụ ñã từng bị gãy mũi ít nhất hailần. Tên cua cụ là Albus 

Dumbledore. 

Albus Dumbledore dường như không nhận thấy là mình ñã ñến con ñường mà từ tên họ 

cho ñến ñôi bốt của cụ không hề ñược hoan nghênh chào ñón. Cụ ñang bận lục lọi 

trong chiếc áo trùm của cụ, tìm kiếm cái gì ñó. Rồiñột nhiên, có vẻ như cụ nhận ra là 

mình ñang bị quan sát, bởi vì cụ thình lình ngước nhìn lên con mèo vẫn ñang ngó cụ từ 

bờ tường nhà Dursley. Aùnh mắt của con èmo có vẻ làm cụ thích thú. Cụ chắc lưỡi lẩm 

bẩm: 

- Lẽ ra mình phải biết rồi chứ! 

Cụ ñã tìm ñược cái mà cụ lục lọi nãy giờ trong chiếc áo trùm. Nó giống như cái bật lửa 

bằng bạc. Cụ giơ nó lên cao và bấm. Ngọn ñèn ñường gần nhất tắt phụt. Cụ bấm lần 

nữa, ngọn ñèn ñường kế tiếp tắt ngấm. Cụ bấm mười hai lần như thế, cho ñến khi ánh 

sáng còn lại trên cả con ñường chỉ còn là hai ñốm sáng long lanh ở phái xa – ñó là hai 

con mắt mèo ñang nhìn cụ. Nếu bây giờ mà có ai nhìnqua cửa sổ ra ñường, thì dù có 

con mắt tọc mạch như bà Dursley cũng chịu, không thể thấy ñược cái gì ñang xảy ra. Cụ 

Albus Dumbledore cất cái tắt – lửa vào áo trùm và ñi về phía ngôi nhà số 4 ñường Privet 

Drive. Cụ ngồi xuống trên bờ tường, cạnh con mèo. Cụ không nhìn nó, nhưng ñược một 

lúc, cụ nói: “Thật là hay khi gặp bà ở ñây ñấy, giáo sư McGonagall!” 

Cụ quay sang ñể mỉm cười với con mèo, nhưng chẳng còn mèo nào cả. Thay vì vậy cụ 

ñang mỉm cười với một bà lão trông ñứng ñắn, ñeo kính gọng vuông y như cái dấu vuôn 

quanh mắt con mèo. Bà cũng khoác áo trùm, màu ngọc bích. Tóc bà bới thành một búi 

chặt. Bà có vẽ phật ý rõ rệt: 

- Làm sao ông biết con mèo ñấy là tôi? 

- Thưa bà giáo sư yêu quý của tôi, hồi nào tới giờ tôi chưa từng thấy một con mèo nào 

ngồi cứng ñờ như thế. 

Giáo sư McGonagall nói: 

- Ông mà ngồi cả ngày trên bờ tường thì ông cũng cứng ñờ thế thôi. 

- Cả ngày?trong khi lẽ ra bà ñang phải mở tiệc ăn mừng chứ? Trên ñường ñến ñây, tôi 

ñã gặp ít nhất cả chục ñám tiệc tùng linh ñình rồi.

Giáo sư McGonagall hít hơi một cách giận giữ và nóimột cách không kiên nhẫn: 

- Vâng, mọi người ăn mừng, ñược thôi. ðáng lẽ ông phải thấy là họ nên cẩn thận một 

chút chứ – ngay ca dân Muggles cũng nhận thấy có chuyện gì ñó ñang xảy ra. Họ thông 

báo trong chương trình thời sự ñấy. 

Bà hất ñầu về phía cửa sổ phòng khách tối om của gia ñình Dursley. 

- Tôi nghe hết.Những ñàn cú… sao băng… Chà, họ không hoàn toàn ngu ngốc cả ñâu. 

Họ ñã nhận ra có ñiều gì ñó. Sao băng… Tôi cá ñó làtrò của Diggle, hắn thật chẳng có 

ñầu óc gì cả. 

Albus Dumbledore nhẹ nhàng bảo: 

- Bà không thể trách như vậy ñược. ðã mười một năm nay chúng ta chẳng có dịp nào 

ñể vui mừng mà! 

Giáo sư McGonagall vẫn cáu kỉnh: 

- Tôi biết. Nhưng ñó không phải là lý do ñể phát ñiên lên. ðám ñông cứ nhởn nhơ tụ tập 

bừa bãi trên ñường phố giữa ban ngày, thậm chí không thèm mặc quần áo của dân 

Muggle ñể ngụy trang, lại còn bàn tán ầm ĩ. 

Bà liếc sang cụ Albus Dumbledore ngồi bên, như thể hy vọng cụ sẽ nói với bà ñiều gì, 

nhưng cụ không nói gì cả, nên bà nói tiếp: 

- Giá mà khi kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai –ñấy biến ñi hẳn, người Muggle mới 

phát hiện ra chúng ta thì hay biết mấy. Nhưng tôi không chắc là hắn ñã chết thật chưa 

hả ông Dumbledore? 

- Chắc chắn như vậy rồi. Thật là phước ñức cho chúng ta! Bà có dùng giọt chanh 

không? 

- Giọt gì? 

- Giọt chanh. ðó là một loại keo của dân Muggle mà tôi rất khoái. 

- Không cám ơn. 

Giáo sư McGonagall lạnh lùng từ chối, bà không nghĩlà nhấm nháp kẹo lúc này lại thích 

hợp. 

- Như tôi nói ñấy, ngay cả nếu như kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy ñã biến… 

- Ôi, giáo sư yêu quý của tôi, một người có ñầu óc như bà có thể gọi hắn bằng tên cúng 

cơm chứ? Mớ bá láp kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy thiệt là nhảm nhí. Mười 

một năm nay tôi ñã chẳng bảo mọi người cứ gọi hắn ñúng theo tên của hắn: Voldemort 

sao? 

Giáo sư McGonagall e dè nhnìn quanh. Nhưng cụ Dumbledore có vẻ như chẳng ñể ý gì, 

cụ ñang chăm chú gỡ hai viên kẹo dính nhau và cụ nói tiếp: 

- Nếu mà chúng ta cứ gọi bằng: kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy thì mọi sự cứ 

rối beng lên. Tôi thấy chẳng có gì ñể sợ khi gọi bằng tên cúng cơm của Voldemort. 

Giáo sư McGonagall nói, giọng nữa lo lắng nữa ngưỡng mộ: 

- Tôi biết ông không sợ. Nhưng ông thì khác. Mọi người ñều biết ke û- ma ø- ai – cũng – 

biết – là… thôi ñược, goi là Voldemort ñi, hắn chỉ sợ có mỗi mình ông mà thôi. 

Cụ Albus Dumbledore bình thản nói: 

- Bà tâng bốc tôi quá. Voldemort có những quyền lựctôi không bao giờ có. 

- Ấy là chỉ bởi vì ông… ừ, ông quá cao thượng nên không xài tới những quyền lực ñó. 

- Cũng may là trời tối nhé. Kể cũng lâu rồi tôi chưa ñỏ mặt, từ cái lần bà Pomfrey nói bả 

khoái cái mũ trùm tai của tôi. 

Giáo sư McGonagall liếc cụ Dumbledore một cái sắc lẻm. 

- Mấy con cú lượn vòng vòng chỉ chờ tung tin vịt ñấy. Ông biết mọi người ñang nói gì 

không? Về vì sao hắn phải biến ñi ấy? Về cái ñiều ñã chặn ñứng ñược hắn ấy? 

Có vẻ như giáo sư McGonagall ñã gạt tới ñiểm then chốt mà bà muốn tranh luận. ðó là 

lý do khiến bà ñã phải ngồi chờ suốt cả ngày trên bờ tường cứng và lanh lẽo này. Rõ 

ràng là chuyện mà mọi người ñang bàn tán, cho dù làchuyện gì ñi nữa, bà cũng không 

vôi tin cho ñến khi Dumbledore nói với bà là chuyệnñó có thật. Tuy nhiên cụ 

Dumbledore vẫn ñang bận lựa một viên kẹo khác chứ không trả lời. 

- Chuyện mà họ ñang bàn tán ấy,” bà McGonagall nhấnmạnh, “là tối hôm qua 

Voldemort ñã ñến Hố Thần. Hắn ñi tìm gia ñình Potter. Nghe ñồn rằng vợ chồng Potter 

ñã… ñã…, họ ñồn thôi, ñã… chết rồi! 

Cụ Dumbledore cúi ñầu. Giáo sư McGonagall há hốc miệng, ngẹn ngào: 

- Vợ chồng Potter… Tôi không thể tin ñược… Tôi không muốn tin… Ôi, ông 

Dumbledore… 

Cụ Dumbledore duỗi tay vỗ nhê lên vai bà giáo sư, cụ chậm rãi nói: 

- Tôi biết… Tôi biết… 

Giọng giáo sư McGonagall run run tiếp tục: 

- Mà chuyện chưa hết. Họ còn nói hắn tìm cách giết cả ñứa con trai của Potter, bé Harry 

ấy. Nhưng… hắn không giết ñược> Hắn không thể giết nổi ñứa bé. Không ai biết tại 

sao, thế nào…, nhưng họ nói… khi không thể giết ñược Harry Potter, quyền lực của 

Voldemort bị tiêu tan. Chính vì vậy mà hắn cũng phải biến ñi. 

Cụ Dumbledore buồn bã gật ñầu. Giáo sư McGonagall ấp úng: 

- Chuyện ñó… ñó… là… là… thật sao? Hắn ñã làm bao nhiêu chuyện tai quái, giết chết 

bao nhiêu người.. mà…, mà rốt cuộc hắn không thể giết nỗi một thằng bé? Thật là 

không tin ñược… cái gì ñã chặn nổi bàn tay hắn như vậy… Nhưng bằng cách nào mà 

Harry Potter sống sót? 

Cụ Dumbledore nói: 

- Chúng ta chỉ có thể ñoán mò mà thôi. Chuyện ấy chẳng bao giờ biết ñược chính xác. 

Giáo sư McGonagall rút ra một cái khăn tay chùi nước mắt dưới cặp mắt kính. Cụ 

Dumbledore thở dài một tiếng rõ to khi rút chiếc ñồng hồ vàng trong túi ra xem xét. Cái 

ñồng hồ ấy cũ lắm. Nó có mười hai kim nhưng không có số. Thay vào những con số là 

các hành tinh nho nhỏ di chuyển quanh mép ñồng hồ. Nhưng chắc là cụ Dumbledore coi 

giờ ñược bằng cái ñồng hồ ñó, nên khi nhét nó lại vào trong túi, cụ nói: 

- Hagrid ñến trễ. Chắc chính lão nói cho bà biết làtôi ñến ñây, ñúng không? 

- ðúng. 

Giáo sư McGonagall xác nhận và nói tiếp: 

- Chắc ông cũng không thèm nói cho tôi biết tại saoông ñến ñây chứ? 

- Tôi ñến ñây ñể giao Harry Potter cho dì dượng nó.Bây giờ nó chỉ còn có họ là bà con. 

Giáo sư McGonagall nhảy dựng lên, chỉ tay vào ngôi nhà số 4: 

- Ông nói gì? Chắc là ông không có ý nói ñến mấy người sống trong ñó chứ? 

Dumbledore, ông không thể làm vậy. Tôi ñã quan sát họ suốt cả ngày. Ông không thể 

tìm ra ñược người nào khá hơn họ hay sao? Mà họ cũng ñã có một ñứa con trai. Tôi ñã 

nhìn thấy thằng nhóc ấy, nó ñá mẹ nó suốt quãng ñường ñến tiệm bánh kẹo, khóc la 

vòi vĩnh cho ñược mấy viên kẹo. Harry Potter mà phải ñến sống ở ñây sao? 

Cụ Dumbledore khẳng ñịnh: 

- ðây là nơi tốt nhất cho ñứa bé. Khi nó lớn lên dìdượng của nó có thể giải thích cho nó 

hiểu. Tôi ñã viết cho họ một lá thư. 

- Một lá thư? 

Giáo sư McGonagall lập lại yếu ớt, thả người ngồi xuống bờ tường, băn khoăn nói tiếp: 

- Ông Dumbledore, ông thật sự tin là ông có thể giải thích mọi chuyện trong một lá thư 

à? Mấy người ñó sẽ không bao giờ hiểu ñứa bé! Nó sẽnổi tiếng - như một huyền thoại. 

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu sau này người ta gọi ngày hôm nay là ngày Harry Potter: 

sẽ có sách viết về Harry. Mọi ñứa trẻ trong thế giới chúng ta rồi sẽ biết ñến tên nó! 

- ðúng vậy. 

Cụ Dumbledore nhướn mắt dòm qua ñôi kính nữa vành trăng của cụ một cách nghiêm 

túc nói rằng: 

- Nhiêu ñó cũng ñủ hại ñầu óc bất cứ ñứa trẻ nào. Nổi tiếng trước cả khi biết ñi biết nói! 

Nổi tiếng về những ñiều mà nó cũng không thể nhớ ñược! Bà không thấy là tốt cho nó 

hơn biết bao nếu nó lớn lên ngoài vòng bao phủ của tiếng tăm, lớn lên một cách bình 

thường cho ñến khi nó ñủ lớn ñể làm chủ ñược ñiều ñó sao? 

Giáo sư McGonagall lại há hốc miệng thay ñổi ý kiến, nuốt vô, ngậm miệng lại rồi nói: 

- Vâng, vâng, dĩ nhiên là ông nói ñúng. Nhưng mà ông Dumbledore ơi, làm sao ñứa bé 

ñến ñây ñược? 

Bà giáo sư nhìn chòng chọc vào tấm áo trùm của cụ Dumbledore như thể là bà nghĩ cụ 

ñang giấu ñứa bé trong ñó. Cụ Dumbledore nói: 

- Hagrid ñang mang nó ñến. 

- Ông cho là giao lão Hagrid một viêc quan trọng như thế này là khôn ngoan sao? 

- Tôi có thể giao cả ñời tôi cho Hagrid. 

Bà McGonagall vẫn không bằng lòng: 

- Tôi không nói là lão Hagrid không biết phải quấy,nhưng mà ông cũng biết ñấy, lão là 

chúa ẩu… Uûa? Cái gì vậy? 

Một tiếng ñộng trầm trầm nổi lên quanh họ, nghe rầmrầm, càng lúc càng lớn. Cả hai 

nhìn ra ñường xem có ánh ñèn xe không, thế rồi những tiếng ñộng nghe như sấm dội 

khiến cả hai người ngước nhìn lên trời: một chiếc xe gắn máy khổng lồ chạy trên không 

trung rồi hạ xuống, lăn bánh trên mặt ñường nhựa trước mặt họ. 

Nếu cái xe gắn máy bự quá khổ, thì cũng không thấm gì so với người ngồi trên xe. Lão 

hầu như cao gấp ñôi người bình thường và bự có ñến gấp năm, nếu tính chiều ngang. 

Trông lão ta to lớn ñến nỗi khó tin, và lại hoang dã. Những nùi tóc râu ñen thui hầu như 

che kín gương mặt lão, tay lão trông như cần cẩu, còn chân thì ú na ú núc như mính 

con cá heo con. Trên ñôi tay vạm vỡ ấy là một nùi chăn tả. Cụ Dumbledore tỏ ra yên 

tâm, bảo: 

- Hagrid, cuối cùng anh ñã ñến. Anh kiếm ñâu ra cáixe ñó? 

Lão khổng lồ cẩn thận trèo xuống xe ñáp: 

- Kính thưa ngài giáo sư Dumbledore, tôi mượn của Sirius ðen. Thưa ngài, tôi ñã mang 

ñược cậu bé ñến ñây. 

- Có lôi thôi rắc rối gì không? 

- Thưa ngài không ạ. Ngôi nhà hầu như tan hoang, nhưng tôi ñã kịp ñem nó ra trước 

khi dân Muggle bắt ñầu lăng xăng chung quanh. ðang bay tới ñây thì nó lăn ra ngủ. 

Cụ Dumbledore và giáo sư McGonagall cúi xuống ñống chăn tã. Bên trong mớ chăn ấy là 

ñứa bé ñang ngủ say. Trên vầng trán ñứa bé có một vết thương nhỏ hình tia chớp. Giáo 

sư McGonagall thì thầm: 

- Có phải ñó là… 

- Phải, nó sẽ mang vết thẹo ñó suốt ñời. 

- Ông không thể xoá nó ñi sao ông Dumbledore? 

- Nếu mà tôi làm ñược thì tôi cũng chẳng ñời nào làm. Thẹo cũng có lúc xài ñến. Tôi 

ñây cũng có một cái thẹo ở trên ñầu gối, nó có giá trị như cái bảng ñồ ñường xe ñiện 

ngầm ở Luân – ðôn ấy. Thôi, Hagrid, ñặt nó ở ñây, chúng ta nên làm xong chuyện này 

cho rồi. 

Cụ Dumbledore bồng Harry ñi về phía nhà Dursley. Lão Hagrid ấp úng: 

- Tôi… tôi có thể hôn tạm biệt ñứa bé ñược không ạ?

Lão cuối cái ñầu lông lá bờm xờm xuống mặt ñứa bé và dụi mớ râu ria lởm chởm của 

lão lên làng da non của ñứa bé. Rồi thình lình lão Hagrid thốt lên một tiếng như tiếng 

chó bị thương. Giáo sư McGonagall vội nhắc nhở: 

- Xuỵt! Lão ñánh thức ñám Muggle bây giờ. 

Lão Hagrid thổn thức: 

- Xin lỗi, hic hic. Nhưng tôi không thể… Hic hic. Vợ chồng Potter chết rồi, và Harry bé 

bỏng phải ñi ở nhờ dân Muggle. Hic hic. 

Giáo sư McGonagall vỗ về: 

- Vâng, vâng, buồn lắm, nhưng mà ráng nín khóc ñi, Hagrid, không thôi bọn mình bị lộ 

ñấy. 

Lão Hagrid cố dằn cảm xúc, ñứng bên giáo sư McGonagall, nhìn theo cụ Dumbledore 

bồng Harry Potter ñi qua sân vườn ñến cửa trước nhàDursley, nhẹ nhàng ñặt ñứa bé 

xuống bật cửa, lấy trong áo trùm ra một lá thư, nhét lá thư dưới lớp chăn quấn quanh 

ñứa bé, rồi trở lại với hai người kia. Cả ba ñứng lặng cả phút nhìn cái bọc chăn tả ñang 

ấp ủ ñứa bé. Vai của Hagrid run lên từng chập, mắt của giáo sư McGonagall chớp chớp 

liên tục, và cái tia sáng lấp lánh thường loé lên từ ñôi mắt của cụ Dumbledore cũng 

dường như tắt ngóm. Cuối cùng cụ Dumbledore nói: 

- Thôi, ñành thế. Chúng ta chẳng còn việc gì ở ñây nữa. Có lẽ chúng ta ñi nhập tiệc với 

những người khác thôi. 

- Dạ. –Tiếng lão Hagrid ñáp rõ to. – Tôi sẽ ñem trảlại Sirius cái xe này. Chào giáo sư 

McGonagall, và xin chào ngài, giáo sư Dumbledore. 

Chùi nước mắt còn ñang chảy ròng ròng trên mặt, lãoHagrid nhảy lên xe và ñạp một 

cái cật lực cho máy nổ, rồi lão rú ga phóng vào không trung ñen như hũ nút. 

Cụ Dumbledore cuối ñầu chào bà McGonagall: 

- Tôi mong sớm gặp lại bà, giáo sư McGonagall. 

Giáo sư McGonagall hỉ mũi một cái ñể ñáp lễ. Cụ Dumbledore xoay người bước xuống 

ñường. Tới góc ñường, cụ dừng bước, lấy trong áo trùm ra cái tắc - lửa bằng bạc. Cụ 

giơ lên bấm nó một cái, rồi mười hai cái, lập tức mười hai cái bóng ñèn trên ñường 

Privet Drive bật sáng, nhưng cũng không kịp soi bóng một con mèo hoang to tướng 

chuồn lẹ ñằng sau khúc quanh ở phía ñầu kia con ñường. 

Còn lại một mình, cụ Dumbledore nhìn lần cuối cái bọc chăn tả trên bậc cửa ngôi nhà số 

4. Cụ ngậm ngùi nói: 

- Chúc cháu may mắn, Harry. 

Rồi phất tấm áo trùm một cái cụ biến mất. 

Một luồn gió thoảng qua những hàng rào cây xanh củangôi nhà trên ñường Privet 

Drive. Ngôi nhà ngăn nắp và những hàng rào cắt xén ngay ngắn ấy là nơi cuối cùng mà 

người ta có thể mong ñợi một chuyện kỳ lạ xảy ra. Harry Potter trở mình trong cuộn 

chăn mà không thức giấc. Một nắm tay nhỏ xíu của béñặt trên lá thư sát bên mình, và 

bé ngủ tiếp, không hề biết là vài tiếng ñồng hồ nữabà Dursley sẽ ñánh thức bé dậy 

bằng một tiếng hét thảng thốt khi bà mở cửa ñể bỏ những vỏ chai sữa rỗng. ðứa bé 

cũng không biết là mình sẽ trở thành món ñồ chơi của thằng anh họ Dudley, bi nó tha 

hồ ngắt véo trong vài tuần lễ sau ñó. ðứa bé không hề biết gì về những ñiều ñó trong 

lúc này, cái lúc này mà khắp nơi trên cả nước, tiệctùng linh ñình ñang diễn ra, người 

người ñều nâng ly chúc tụng: “Uống mừng Harry Potter! ðứa bé vẫn sống!”

19 tháng 3 2017

They are talking about a different type of footprint .

10 tháng 1 2019

No, I didn't. Did you do that?

27 tháng 9 2021

B

27 tháng 9 2021

b