K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 12 2015

70% = 70/100 = 7/10

Vườn cây đó có số cây vải thiều à :

900 x 7/10 = 630 ( cây )

Đáp số : 630 cây vải thiều

Nhớ tick cho mik nha !!!

 

 

15 tháng 8 2015

một khu đồi trồng cây ăn quả có tất cả 1950 cây cam , quýt và vải thiều biết rằng 2/3 số cây cam bằng 3/5 số cây quýt và bằng 6/7 số cây vải thiều tính số cây mỗi loại 

Bài gỉai

Vì 2/3=6/9 ; 3/5=6/10 nên 2/3 số cây cam bằng 3/5 số cây quýt và bằng 6/7 số cây vải thiều tức là 6/9 số cây cam bằng 6/10 số cây quýt và bằng 6/7 số cây vải thiều.Ta cso sơ đồ:(cam 9 phần,quýt 10 phần,vải 7 phần)

Số cây cam là:1950:(9+10+7) .9=675(cây)

______quýt là:1950:(9+10+7) .10=750(cây)

______vải là:1950:(9+10+7) .7=525(cây)

Đáp số:........

Bấm đúng cho mk nếu thấy đúng nha!

4 tháng 2 2017

câu này khó đấy,tớ giải mãi mà không ra

17 tháng 5 2016

Gọi a là số cây cam

       b là số cây quýt

       c là số cây vải thiều

Ta có: {23a=35b23a=67c{23a=35b23a=67c   => {b=10a9c=14a18{b=10a9c=14a18 => {b=10a9c=7a9{b=10a9c=7a9

Tổng số cây ăn quả: a+10a9+7a9=1950a+10a9+7a9=1950

                         <=> 9a9+10a9+7a9=19509a9+10a9+7a9=1950

                         <=> 26a9=195026a9=1950

                         <=> a = 675

Suy ra {b=750c=525{b=750c=525

Vậy: Có 675 cây cam, 750 cây quýt và 525 cây vải thiều

17 tháng 5 2016

Vì 2/3 = 6/9 ; 3/5 = 6/10 nên 2/3 số cây cam bằng 3/5 số cây quýt và = 6/7 số cây vải thiều tức là 6/9 số cây cam = 6/10 số cây quýt và 6/7 số câu vải thiều. 

Ta có sơ đồ :

cam 9 phần, quýt 10 phần, vải thiều 7 phần

Số cây cam là :

1950 : ( 9 + 10 + 7 ) . 9 = 675 ( cây )

Số cây quýt là :

1950 : ( 9 + 10 + 7 ) . 10 = 750 ( cây )

Số cây vải thiều là :

1950 : ( 9 + 10 + 7 ) . 7 = 525 ( cây )

Đáp số : 

Cam : 675 cây

Quýt : 750 cây

Vải thiều : 525 cây 

6 tháng 3 2017

Lê Thánh Tông là hoàng đế thứ năm của nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Lê Thánh Tông trị vì từ năm 1460 đến năm 1497, tổng cộng 38 năm. Trong thời kỳ cầm quyền của Lê Thánh Tông, nhà nước Đại Việt phát triển rực rỡ về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và mở rộng đáng kể lãnh thổ của mình sau nhiều cuộc chiến với Chiêm Thành, Ai Lao và Bồn Man. Các thành tựu về nội trị và đối ngoại của Lê Thánh Tông đã đưa Đại Việt trở thành một cường quốc trong khu vực Đông Nam Á, cũng như đã khiến Quân chủ chuyên chế Việt Nam đạt đến đỉnh cao. Thời kỳ này được gọi là thời kỳ Hồng Đức thịnh trị. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới.

Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.

Bộ luật Hồng Đức được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700 điều, nội dung cơ bản của bộ luật như sau:

  • Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với giặc ngoại xâm lược;
  • Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
  • Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;
  • Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh;
  • Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng.
  • Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục và phát triển kinh tế
  • Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ[11];
  • Bảo vệ quyền lợi của vua và quan lại, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến

Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành.Ông từng nói :"Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo"

Chúc bạn học tốt

17 tháng 11 2016
MB:
Chiếc nón lá không chỉ là vật che mưa, che nắng mà còn mang lại nét duyên dáng cho người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón lá Việt Nam không thể thiếu trong cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam.
TB:
* Hình dáng
: Chiếc nón lá Việt Nam có hình tròn chóp trên đỉnh đầu.
Để có được chiếc nón lá đẹp, phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá , phơi lá, chọn chỉ khâu, đến độ tinh xảo trong từng đường kim mũi chỉ.
* Nguyên liệu và cách thực hiện:
+Nguyên vật liệu: Mo nan làm nón, dây móc, lá lụi, khuốn nón, vòng tròng bằng tre, sợi guột.
+Quy trình làm nón:
- Lá chằm nón được làm từ lá mây, lá cọ … lá phải tươi, mang về rửa sạch, sấy lá trên bếp than cho lá khô nhưng vẫn giữ được xanh tươi chứ không phơi nắng. Sau đó phơi sương tiếp từ 2 -> 4 giờ để cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải tròn và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá phẳng phiu.Hay có nơi người ta đặt lá lên lưỡi cày nung nóng để là cho phẳng. Chọn lựa kỉ lại lá lần nữa rồi cắt gọn còn khoảng 50cm.
-Nón chằm bằng các nan tre uốn thành hình từng vòng tròn nhỏ dần lên đến đỉnh.Vòng nón được chuốt tròn đầu đặn, chỗ nối không có vết gợn. Dây cột lá là dây cước dẻo, dai, săn chắc, có màu trắng trong suốt.
-Cần có khuôn đặt nan và lá vào rồi may bằng dây cước. - Việc cuối cùng là thắt và khâu nón khi lá đặt trên các vành khuôn. Sợi móc len theo mũi kim qua 16 lớp vòng cột bằng tre để hoàn chỉnh nón. Các lá nón không được sộc sệch, đường kim, mũi chỉ phải đầu tăm tắp.
- Lộn ngược nón, cắt miếng vải hình tròn nhỏ để vừa đủ che các mối kết ở đỉnh, kết quai.
- Nón khâu xong còn được đem hơi diêm sinh cho thêm trắng và tránh bị mốc.
- Ở Việt nam có các vùng nổi tiếng với nghề làm nón như nón làng Chuông (Hà Tây), nón làng Phú Cam, nón Quảng Bình, nón Huế … Đặc biệt là nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng bởi nó chỉ có 2 lớp lá lớp lá trên gồm 20 chiếc lá ở giữa là bài thơ cắt bằng giấy màu mỏng, lớp ngoài gồm khoảng 30 lá. Khi soi lên ánh sáng ta có thể đọc được baì thơ hay nhìn thấy cảnh đẹp của Huế như cầu Tràng Tiền, chùa Thiên Mụ, …
* Công dụng:
-Chiếc nón lá rất gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam.
-Nón dùng để che nắng che mưa cho người Việt Nam (nước ta là vùng nhiệt đới nắng, nóng, mưa nhiều).
- Nón còn dùng làm quà tặng, quạt, đựng … đồng thời cũng để làm duyên cho con gái.
- Điệu múa nón: xếp hình tròn di chuyển theo đường tròn, hình chữ …
- Chiếc nón lá đi kèm áo bà ba, nụ cười của cô gái -> Hình ảnh quảng bá cho nghành du lịch Việt Nam. Ngày nay có nhiều kiểu nón được biên1 tấu cho phù hợp với thời trang nhưng nón vẫn mang nết đẹp riêng đầy hấp dẫn.
KB:
Yêu mến, tự hào, vị trí chiếc nón lá trong đời sống tâm hồn người Việt. Ngày nay trong cuộc sống hiện đại, chiếc nón không còn vị trí, vai trò như trước nữa. Dần dần có những chiếc mũ xinh xắn tiện dụng thay thế cho chiếc nón lá xưa. Nhưng trong ý thức của mỗi con người Việt Nam, hình ảnh chiếc nón luôn là biểu tượng của người phụ nữ dịu dàng, duyên dáng. Đó là nét của người Việt Nam cần phải được giữ gìn.
  
17 tháng 11 2016

Chiếc nón lá xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ thứ 13, tức là vào đời nhà Trần. Từ đó đến nay, nón luôn gắn bó với người dân Việt Nam như là hình với bóng. Không phải là đồ vật phân biệt giới tính, tuổi tác và địa vị… nón luôn đi theo như người bạn đường che nắng che mưa cho mọi hành trình. Phải chăng như vậy mà nón đã từ lâu trở thành biểu tượng cho đất nước con người Việt Nam?
Trước hết, nón là một đồ dùng rất “thực dụng”. Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn… tất cả đều để che chắn che mưa. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp, làm duyên cho người phụ nữ và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ…

Người ta đội nón lá làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương… Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: “Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở”… Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: “Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa”. Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che…”. Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận…

Nón lá thường được đan bằng các loại lá, cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Có hoặc không có dây đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa để giữ trên cổ.

Nón lá thường có hình chóp nhọn hay hơi tù, tuy vẫn có một số loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh. Nón lá có nhiều loại như nón ngựa hay nón Gò Găng (sản xuất ở Bình Định, làm bằng lá dứa, thường dùng khi đội đầu cưỡi ngựa), nón quai thao (người miền Bắc Việt Nam thường dùng khi lễ hội), nón bài thơ (ở Huế, là thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hoặc một vài câu thơ), nón dấu (nón có chóp nhọn của lính thú thời phong kiến); nón rơm (nón làm bằng cọng rơm ép cứng); nón cời (loại nón xé te tua ở viền); nón gõ (nón làm bằng tre, ghép cho lính thời phong kiến); nón lá sen (còn gọi là nón liên diệp); nón thúng (nón là tròn bầu giống cái thúng, thành ngữ “nón thúng quai thao”); nón khua (nón của người hầu các quan lại thời phong kiến); nón chảo (nón mo tròn trên đầu như cái chảo úp, nay ở Thái Lan còn dùng).v.v.

Đối với người phụ nữ Huế chiếc nón bài thơ luôn là một người bạn đồng hành. Trong cuộc sống thường nhật, chiếc nón đối với người phụ nữ Huế rất thân thiết. Chiếc nón không chỉ có chức năng che mưa che nắng, mà người phụ nữ Huế còn dùng nó để làm đồ đựng, phương tiện quạt mát và cao hơn hết là chức năng làm đẹp, góp phần làm tăng thêm nét duyên dáng phụ nữ Huế.

Giờ đây chiếc nón lá được phổ biến khắp đất Việt Nam là nét đặc trưng văn hóa riêng của đất nước. Khi người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng muốn có trong hành lí của mình vài chiếc nón làm quà khi về nước

13 tháng 12 2017

banhquaMÌNH LÀM NGẮN NHẤT RỒI ĐÓ,BẠN MUỐN CẮT SAO THÌ CẮT!!

KHU DI TÍCH THÀNH CỔ LOA GIỚI THIỆU CHUNG

Cổ Loa (Loa Thành) là di tích kinh thành của đất nước Âu Lạc từ thế kỷ 3 TCN và nhà nước của vua Ngô Quyền thế kỷ 10 SCN. Hiện nay quần thể di tích này thuộc địa phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ Sông Hồng, là đầu mối quan trọng của cả đường bộ và đường thủy nên dã được lựa chọn làm kinh đô thời bấy giờ. Thành Cổ Loa là một khu vực đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng – một nhánh lớn của sông Hồng, nối liền với sông Cầu nhưng con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp nên hiện nay chỉ còn là một con lạch nhỏ. Xã Cổ Loa lúc đó có tên là Phong Khê – một vùng đồng bằng trù phú, đông đúc dân cư nên việc rời đô từ Phong Châu về đây đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của cư dân Việt cổ.

Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn và bậc nhất và cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Theo truyền thuyết Thành Cổ Loa có tới 9 vòng thành xoáy trôn ốc nhưng theo khai quật khảo cổ thì hiện nay chỉ còn dấu vết của 3 vòng thành. Trong đó vòng thành nội trong cùng có thể được làm sau này, vào thời Vua Ngô Quyền. Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, rộng từ 10-30m.

Hiện nay Cổ Loa được công nhận là một trong 21 khu du lịch Quốc gia, trong khu di có các công trình như Đền Thượng, Giếng Ngọc, Đình Cổ Loa, Đền thờ An Dương Vương… mở cửa quanh năm để phục vụ khách du lịch và người dân tham quan.

Xem thêm: Kinh nghiệm Du lịch Chùa Hương

Truyền thuyết và thực tế về thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa gắn liền với truyền thuyết về việc Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy giúp bày cách xây thành, về chiếc nỏ thần được làm từ móng chân rùa thần và về mối tình bi thương của Trọng Thủy – Mỵ Châu.

Tương truyền rằng thành Cổ Loa xây nhiều lần mà vẫn đổ, sau có Thần Kim Quy hiện lên giúp đỡ An Dương Vương thì thành mới đứng vững. Qua nhiều lần nghiên cứu khảo cổ thì các nhà khảo cổ đã tìm ra cách mà An Dương Vương giúp thành đứng vững chính là chèn một lớp đá vào chân tường thành, ở dưới sâu lòng đất vì đây là một khu vực đất yếu.

Sau khi xây thành xong, Thần Kim Quy đã tặng cho An Dương Vương một chiếc móng rùa thần của mình để làm nỏ thần, nỏ thân một phát bắn ra cả trăm cung tên khiến quân địch vô cùng hoảng sợ và đây chính là vũ khí giúp An Dương Vương giữ vững bờ cõi. Nhưng thực tế đây chính là “nỏ Liên Châu” do tướng quân Cao Lỗ là người phát minh ra. Nỏ này có một bộ phận gọi là “chốt giữ liên hoàn” để có thể 1 lần bóp cò mà nhiều mũi tên bay ra cùng lúc. Cùng với cấu tạo của Thành Cổ Loa là vòng xoáy trôn ốc, các ụ công sự được sắp xếp so le nhau nên các mũi tên từ các hướng bay ra cũng khiến quân địch vô cùng hoảng sợ.

Lúc này, Triệu Đà không tìm được cách nào để chiến thắng được An Dương Vương nên đã tìm cách đánh từ trong đánh ra. Triệu Đà giả hòa với An Dương Vương và xin kết thân cho con trai mình là Trọng Thủy với con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu. Vì An Dương Vương ỷ vào sức mạnh nỏ thần nên đã chủ quan, không ngờ Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần và An Dương Vương đã bị quân của Triệu Đà tiến đánh. Trong lúc nguy cấp, An Dương Vương đưa Mỵ Châu lên lưng ngựa và cùng bỏ chạy. Nhưng vì quá yêu và quá tin Trọng Thủy nên trên đường bỏ chạy Mỵ Châu đã rải lông ngỗng để Trọng Thủy có thể tìm thấy mình. Cuối cùng khi chạy đến bờ biển thì An Dương Vương mới biết chính con gái mình đã dẫn đường cho giặc đuổi theo nên đã rút kiếm chém đầu Mỵ Châu còn mình theo Thần Kim Quy lặn xuống biển sâu. Trọng Thủy vì quá đau khổ nên đã nhảy xuống giếng trong thành Cổ Loa tự vẫn.

Sự thực về mối tình đầy ngang trái này của Trọng Thủy và Mỵ Châu thì đến nay vẫn chưa có tài liệu nào có thể làm rõ được nhưng phải nói rằng đây là một bài học cảnh giác, gắn liền với lịch sử giai đoạn này của Nhà nước Âu Lạc

Đền thờ An Dương Vương hay còn được gọi là đền Thượng nằm ở trung tâm Thành trong, được coi là nơi Vua Thục Phán trước kia ở. . Đền Thượng mọc lên trên một gò đất hình đầu rồng, hai gò hai bên là hai cánh rừng. Phía dưới có hai hố tròn là mắt rồng. Trước mặt đền Thượng là một hồ nước lớn, bên trong hồ có Giếng Trọng Thủy (Giếng Ngọc) – nơi truyền thuyết cho rằng Trọng Thủy đã gieo mình xuống đây tự vẫn.

Hiện không rõ đền được xây dựng từ năm nào nhưng lần sửa chữa xa nhất vào năm 1687 và có một lần trùng tu lớn nhất vào năm 1893.

Trong đền còn giữ được một số di vật như: tượng An Dương Vương bằng đồng, đúc vào năm 1897, hai con ngựa hồng – bạch làm vào năm 1716, các món đồ bằng đồng, sứ, gỗ, vải…

Trước cổng để có 2 con rồng đá, thân uốn lượn, tay vuốt râu, được chạm khắc hết sức tinh tế của những người thợ thủ công Việt Nam thế kỷ 17.

Đền có nhiều cửa ra vào, khu vực chính giữa là điện thờ Vua, nằm phía trong ở hai bên là nơi thờ Hoàng Hậu và thờ Mẫu.

2. Ngự triều di quy – Đình Cổ Loa

Qua cổng làng Cổ Loa cũng là cổng Thành Trong là tới Ngự triều di quy hay còn được gọi là Ngự Đình hay Đình Cổ Loa. Đây là một ngôi đình được chuyển từ nơi khác về, và dựng lại hồi cuối thế kỷ 18 ngay trên khu đất tương truyền là nơi xa xưa vua Thục Phán thiết triều. Trong đình vẫn còn tấm hoành phi ghi bốn chữ “Ngự triều di quy”. Giữa đình, còn bức cửa võng chạm hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) và tứ quý (đào, cúc, trúc, mai). Bức chạm khá tinh tế và được thếp vàng rực rỡ. Đình có kiến trúc vững chãi, bề thế và tại đây trưng bày nhiều di tích khảo cổ niên đại hàng nghìn năm có giá trị quan trọng ví dụ như những mũi tên bằng đồng từ thời An Dương Vương.

Am Mỵ Châu

Bên trái Đình Cổ Loa là Am thờ Mỵ Châu (Am Bà Chúa), dân làng còn gọi đây là mộ Mỵ Châu. Đây chỉ là một am nhỏ nằm khiêm tốn dưới gốc đa nghìn tuổi với vẻ u tịch như muốn gợi về câu chuyện tình ngang trái cách đây hàng ngàn năm. Căn phòng trong cùng có tượng công chúa Mỵ Châu. Đây là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Truyền thuyết kể rằng sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.

Chùa Bảo Sơn hay Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn Tự)

Từ Am Mỵ Châu đi sâu vào phía trong là chùa Bảo Sơn, trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị to lớn như: bức cốn tứ linh từ thế kỷ 19, 134 bức tượng Phật được bài trí ở chính điện, hậu cung, hành lang và nhà Mẫu, 5 tấm bia đá từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, 2 đại hồng chung đúc vào năm Gia Long thứ 2 (năm 1803), một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị khác.

Đền thờ Cao Lỗ

Cao Lỗ (? – 179 TCN) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê người Gia Bình, Bắc Ninh. Ông là người phát minh ra “nỏ liên châu” bắn được nhiều mũi tên cùng một lúc. Ông cũng chính là người khuyên An Dương Vương dời đô xuống vùng đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người thiết kế, chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.

Đền thờ Cao Lỗ hiện được dựng ở nhiều nơi như quê ông ở Bắc Ninh, hay ở Ái Mộ và ngay trong thành Cổ Loa cũng có đền thờ của ông.

Đền thờ nhỏ, có dựng tượng Cao Lỗ bắn nỏ giữa ao nước trước đền. Trong đền còn lưu giữ nhiều mũi tên đồng mà các nhà khảo cổ học đã khai quật được.

Đền thờ Cao Lỗ chỉ cách Đền thờ An Dương Vương khoảng 150m

Kết hợp đi Cổ Loa và Đền Gióng Sóc Sơn trong 1 ngày

Các cửa thành và các Miếu thờ Thần trấn các cửa thành.

Ngay trên đường vào khu vực Thành Cổ Loa các bạn sẽ nhìn thấy Cửa Trấn Nam và Miếu thờ Thần trấn cửa Nam. Qua cửa này rẽ tay phải chính là Đền thờ Cao Lỗ.

Cửa trấn Bắc và Miếu thờ Thần trấn cửa Bắc nằm ở vòng thành thứ 3, cách Trung tâm Cổ Loa khoảng 5km.

Cửa trấn Tây và Miếu thờ Thần trấn cửa Tây cũng nằm ở vòng thành thứ 3 nhưng riêng cửa trấn Đông thì đã không còn qua quá trình xây dựng khu dân cư ở đây

Các di chỉ khảo cổ

Cổ Loa là một khu vực dày đặc các di chỉ khảo cổ như: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, Xóm Nhồi, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực… và các nhà khảo cổ học đã khai quật được ở đây hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí, vũ khí bằng đồng…

14 tháng 12 2017

Cổ Loa là một vùng đất gắn liền với truyền thuyết Trọng Thủy-Mị Châu, với quá trình dựng, giữ nước cũng như chống giặc ngoại xâm của Thục Phán An Dương Vương. Một vùng đất ngoại thành Hà Nội không chỉ có những khu di tích lịch sử mà còn là nơi sở hữu phong cảnh đẹp tuyệt vời. Bài viết “Kinh nghiệm du lịch thành Cổ Loa đầy đủ và chi tiết nhất” này dulichfun gửi tặng đến những bạn đang nung nấu ý định tới đây.

Cây phát sinh là một sơ đồ hình cây phát sinh những nhánh từ một gốc chung (tổ tiên chung). Các nhánh ấy lại phát sinh những nhánh nhỏ hơn từ những gốc khác nhau và tận cùng bằng một nhóm động vật. Kích thước của các nhánh trên cây phát sinh càng lớn bao nhiêu thì số loài của nhánh đó càng nhiều bấy nhiêu. Các nhóm có cùng nguồn gốc có vị trí gần nhau thì có quan hệ họ hàng gần với nhau hơn.
 

28 tháng 4 2021

Ý nghĩa, của cây phát sinh giới động vật:

- Cho biết nguồn gốc chung của giới động vật.

- Cho biết quá trình phát sinh, tiến hóa của giới động vật, loài nào càng gần gốc thì xuất hiện càng sớm.

- Cho biết mối quan hệ họ hàng giữa các ngành động vật.

- Cho biết mức độ phong phú và đa dạng của các nhóm loài.

 


 

11 tháng 3 2018

l;skfedhn;k aiyh mla[ hursdknla[t4 9ha

odaiFEm lwehNF V;DFPJ

24 tháng 1 2018

Đề thi học sinh giỏi văn hả bạn?

25 tháng 1 2018

Xin chào, tôi là Linh Dan Nguyen Thi, hướng dẫn viên du lịch. Hôm nay, tôi sẽ đưa các bạn tới Cà Mau, mảnh đất tận cùng của Tổ quốc thân yêu. Để cho chuyến đi thêm phần thú vị và đúng chất của vùng miền Cà Mau, tôi mời các bạn cùng ngắm cảnh thiên nhiên của Cà Mau và tìm hiểu nơi đây trên chiếc thuyền nhỏ ở đằng kia. Xin mời các bạn đi theo tôi.

Đến với Cà Mau, bạn sẽ được hòa mình vào sắc xanh đơn điệu của mây trời, sông nước, lắng nghe thứ âm thanh có thể ru ngủ thính giác, làm mòn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt của thị giác con người. Đó là tiếng rì rào của những khu rừng bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào của từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối. Qua Chà Là, Cái Keo rồi xuôi dòng theo con sông Bảy Háp, ta sẽ được tận mắt nhìn thấy gạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt hay kênh Ba Khía, xã Năm Căn,... Sở dĩ ở đây người ta gọi tên đất, tên sông không phải bằng những danh từ mĩ lệ mà cứ theo đặc điểm của nó gọi thành tên. Chẳng hạn như gạch Mái Giầm, vì hai bên bờ mọc toàn những cây mái giầm mà các bạn đang thấy, cọng tròn, xốp nhẹ, trên chỉ xòa ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ. Hay gọi là kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt, đen như hạt vừng, cứ bay theo thuyền từng bầy như những đám mây nhỏ. Bị nó đốt vào da thịt chỗ nào là ta ngứa ngáy nổi mẩn đỏ tấy lên. Rồi thì kênh Ba Khía vì ở hai bên bờ là những con ba khía bám đặc sệt quanh các gốc cây. Đó là một loại còng biển lai cua, càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon! Còn như xã Năm Căn thì nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian của những người tới đốn củi hầm than dựng lên.

Tới sông Năm Căn rồi! Chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra Cửa Lớn rồi xuôi theo dòng là chúng ta đã tới được Năm Căn. Các bạn có thể thấy được vẻ đẹp hoang sơ giàu sức sống với hàng đàn cá nước đen trũi nhô lên ngụp xuống, nước mênh mông, ầm ầm đổ ra biển ngày đêm. Hai bên bờ là những rừng đước cao ngất mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia thành từng bậc màu xanh rêu, xanh lá mạ, xanh chai lọ,... Nằm sát bên bờ sông là hình ảnh cuộc sống đông vui, tấp nập, trù phú và độc đáo của chợ Năm Căn. Vẫn là cái quang cảnh ồn ào, náo nhiệt khá quen thuộc của những khu chợ khác. Nhưng cái độc đáo của chợ Năm Căn là những túp lều lá thô sơ kiểu cổ xưa nằm cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng, những đống gỗ cao như núi chất dựa bờ, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh trên sóng... Sự trù phú trên mảnh đất tận cùng của đất nước này được thấy từ những bến vận hà nhộn nhịp dọc dài theo sông, những lò than hầm gỗ đước sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất miền Nam cho tới những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi. Ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, một món nấu Trung Quốc hay đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu. Ngoài ra còn có thể mua những vật dụng khác cần thiết cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà không cần phải bước ra khỏi thuyền. Đến với chợ Năm Căn, bạn sẽ được gặp những người con gái Hoa Kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ người Miên bán rượu với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ. Chúc các bạn có một chuyến đi vui vẻ và thú vị tại Cà Mau. Xin cảm ơn các bạn đã lắng nghe.

Trên đây là bài của mình. Ngoài ra bạn có thể sử dụng các chú thích ở sách giáo khoa để bài thuyết trình thêm hay, hấp dẫn và thực tế hơn. Chúc bạn làm bài tốt!

12 tháng 10 2017

*Tác giả: +Nguyễn Khuyến (1935-1909)

+Là nhà thơ của tình bạn,tình ng,tình quê

*Tác phẩm:Xuất xứ:Sáng tác trong thời gian ở ẩn,nép nhà thơ phía sau