K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 4 2017

- Ngay từ ngày đầu Mĩ mở rộng chiến tranh, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh : triệt để sơ tán, phân tán những nơi đông dân để tránh thiệt hại về người và của.

- Trong điều kiện chiến tranh phá hoại, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh, tăng khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống của nhân dân từng địa phương.

- Trên mặt trận sản xuất, miền Bắc cũng lập được những thành tích quan trọng:

     + Về nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt “Ba mục tiêu (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động trên 1 hécta diện tích gieo trồng trong 1 năm. Năm 1965, miền Bắc có 7 huyện, 640 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta trong hai vụ, đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2 485 hợp tác xã.

     + Về công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán, sớm đi vào sản xuất, đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất cho chiến đấu và đời sống. Công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng phát triển. Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh.

     + Giao thông vận tải là một trong những trọng điểm bắn phá ác liệt của địch, nhưng ta vẫn bảo đảm giao thông thông suốt, đáp ứng được yêu cầu phục vụ chiến đấu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

11 tháng 4 2018

- Đến cuối năm 1957, sản lượng nông nghiệp tăng vượt mức trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nạn đói có tính chất kinh niên được giải quyết về cơ bản.

- Về công nghiệp, giai cấp công nhân với tinh thần dựa vào sức mình là chính đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng hầu hết các cơ sở công nghiệp quan trọng như mỏ than Hòn Gai, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy điện Hà Nội…; xây dựng thêm nhiều nhà máy như nhà máy cơ khí Hà Nội, diêm Thống Nhất, gỗ Cầu Đuống, thuốc lá Thăng Long, cá hộp Hải Phòng, chè Phú Thọ... Đến cuối năm 1957, miền Bắc có tất cả 97 nhà máy, xí nghiệp do Nhà nước quản lí.

- Về thủ công nghiệp, có nhiều mặt hàng tiêu dùng được sản xuất thêm, bảo đảm nhu cầu tối thiểu của đời sống, giải quyết phần nào việc làm cho người lao động. Đến cuối năm 1957, số thợ thủ công miền Bắc tăng gấp hai lần so với trước Chiến tranh thế giới thứ hai.

- Về thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán được mở rộng, đã cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng cho nhân dân ; giao lưu hàng hóa giữa các địa phương ngày càng phát triển : hoạt động ngoại thương dần dần tập trung vào tay Nhà nước. Đến cuối năm 1957, miền Bắc đặt quan hệ buôn bán với 27 nước.

- Về giao thông vận tải, gần 700 km đường sắt bị phá được khôi phục ; sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ô tô; xây dựng lại và mở rộng thêm nhiều bến cảng như Hải Phòng. Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy, Đường hàng không dân dụng quốc tế được khai thông.

18 tháng 4 2018

- Trong ba năm tiếp theo (1958 - 1960), miền Bắc tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh nhằm vận động những nông dân cá thể, những thợ thủ công, những thương nhân và nhà tư sản tham gia lao động tập thể trong các hợp tác xã, quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.

- Kết quả:

     + Xóa bỏ chế độ người bóc lột người, có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, nhất là trong điều kiện chiến tranh.

     + Hợp tác xã đã bảo đảm đời sống cho nhân dân lao động, tạo điều kiện vật chất, tinh thần cho những người ra đi chiến đấu và phục vụ vụ chiến đấu.

13 tháng 10 2017

* Giai đoạn 1954 - 1960:

- Hoàn thành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, khôi phục và phát triển kinh tế.

* Giai đoạn 1961 - 1965:

- Trên mặt trận kinh tế: đạt được những thành tựu nhất định về nông nghiệp, công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), bước đầu xây dựng nền móng của chủ nghĩa xã hội.

- Cung cấp một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, cán bộ, chiến sĩ cho tiền tuyến miền Nam.

* Giai đoạn 1965 - 1968:

- Trên mặt trận kinh tế:

+ Nông nghiệp: tăng diện tích đất canh tác, sản lượng lúa tăng, nhiều hợp tác xã đạt “ba mục tiêu”.

+ Công nghiệp: đáp ứng nhu cầu thiết yếu của chiến đấu, sản xuất và đời sống; công nghiệp địa phương và quốc phòng đều phát triển.

- Trên mặt trận quân sự: chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ giành thắng lợi.

- Chi viện cho miền Nam:

+ Miền Bắc luôn là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam về sức người và sức của.

+ Xây dựng tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam trên bộ và trên biển, nối liền hậu phương với tiền tuyến.

- Cung cấp hàng vạn cán bộ, trang bị về mặt vật chất như thuốc men, đạn dược... cho miền Nam.

* Giai đoạn 1969 - 1973:

- Kinh tế miền Bắc cơ bản được khôi phục, hệ thống thủy nông, mạng lưới giao thông, công trình văn hóa, giáo dục, y tế phát triển.

- Chống chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ hai năm 1972, buộc Mĩ phải Hiệp định Paris ngày 27 - 1 - 1973 .

- Chi viện cho tiền tuyến miền Nam: hàng vạn bộ đội, thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm... để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh k

20 tháng 5 2019

Miền Bắc trở lại hòa bình, khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

- Đến cuối tháng 6 -1973, miền Bắc cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ thủy lôi, bom mìn do Mĩ thả trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường.

- Sau hai năm (1973 - 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thủy nông, mạng lưới giao thông, các công trình văn hóa, giáo dục, y tế. Kinh tế có bước phát triển.

- Đến cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1964 và năm 1971 - là hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đời sống nhân dân được ổn định.

- Thực hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 -1974, miền Bắc đưa vào các chiến trường gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong hai tháng đầu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 5,7 vạn bộ đội. Miền Bắc cũng đưa vào chiến trường 26 vạn tổn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men, lương thực, thực phẩm.

- Chi viện của miền Bắc cho miền Nam thời kì này, ngoài việc phục vụ nhiệm vụ chiến đấu với trọng tâm tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, còn chuẩn bị cho xây dựng và tiếp quản vùng giải phóng sau khi chiến tranh kết thúc.

8 tháng 4 2017

-Giai đoạn 1954-1960:

-Trong hai năm 1955-1956 ta lấy từ tay địa chủ hơn 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ chia cho nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà Đảng đã đề ra từ năm 1930.

-Những năm 1954-1957, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch 3 năm, khôi phục kinh tế thắng lợi. Điều này làm cho đời sống nhân dân miền Bắc ổn định tạo điều kiện để miền Bắc bước vào thời kì mới.

-Từ năm 1958-1960 Đảng đề ra chủ trương 3 năm cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trong đó cải tạo XHCN là trọng tâm mà khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.

-Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn của miền Bắc sau 6 năm (1954-1960) đã được phản ánh tập trung trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày 1-1-1960.

-Giai đoạn 1961-1965:

+Đảng tiến hành Đại hội Đảng lần thứ III, hoạch định đường lối cho cách mạng mỗi miền và xu thế phát triển của thời đại.

+Với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), ta bước đầu xây dựng nền móng của CNXH.

-Trên mặt trận quân sự : đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ nhất (5-8-1964 đến 1-11-1968)

-Trên mặt trận sản xuất: Đảng chủ trương tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH trong bất kì hoàn cảnh nào miền Bắc vẫn đẩy mạnh sản xuất và chuyển hướng kinh tế lần thứ nhất từ thời bình sang thời chiến.

-Về chi viện:

Trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam về sức người và sức của. Với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt sẵn sang đảm bảo “thóc không thiều một cân, quân không thiếu một người”.

-Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và trên biển dọc theo bờ biển Việt Nam. Bắt đầu khai thông từ ngày 19-5-1959 kéo dài hàng nghìn km nối liền hậu phương với tiền tuyến.

-Trong 4 năm 1965-1968 miền Bắc đã đưa hơn 30 vạn cán bộ-bộ đội dọc theo dãy Trường Sơn vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

-Cùng trong thời gian này miền Bắc gửi vào miền Nam hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm góp phần không nhỏ vào thắng lợi của miền Nam trong chiến đấu chống chiến tranh cục bộ của Mĩ.

-Giai đoạn 1969-1973

Trên mặt trận kinh tế

Từ năm 1969 đến tháng 3 năm 1972 miền Bắc chuyển hướng kinh tế lần thứ hai từ thời chiến sang thời bình khôi phục kinh tế-văn hóa-xã hội mà trước hết là các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.

Trên mặt trận chiến đấu: Chống chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ hai, từ tháng 4-1972 đến 12-1972.

-Chỉ định trong 7 tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại lần này (từ tháng 4-1972 đến 12-1972), quân dân miền Bắc đã bắn rơi 651 máy bay địch, bắt sống hàng trăm giặc lái.

-Nhưng sau khi trúng cử tổng thống nhiệm kì hai, Ních xơn đã quyết định mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội-Hải Phòng trong 12 ngày đêm (từ ngày 18 đến ngày 19-12-1972) dội xuống miền Bắc 10 vạn tấn bom. Riêng Hà Nội là 4 vạn tấn bom.

-Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng, tổ chức, quân dân miền Bắc đã giáng trả cho địch những đòn đích đáng, làm nên trận Điện Biên Phủ trên không. Trong 12 ngày đêm ta đã bắn rơi 81 máy bay địch trong đó có 34 máy bay B52, máy bay F111.

-Ngày 30-12-1972, Chính phủ Mĩ phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, đến ngày 15-1-1973 thì ngừng hoàn toàn các cuộc bắn phá miền Bắc để tiến tới kí với Chính phủ ta Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 rút hết quân khỏi miền Nam.

-Về chi viện

-Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mĩ không ngăn cản được sự chi viện ngày càng lớn của miền Bắc đối với miền Nam.

Hàng chục vạn thanh niên được gọi là nhập ngũ. Trong đó có 60% lên đường bổ sung cho các chiến trường miền Nam-Lào-Campuchia. Cũng trong thời gian này khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước đó.

-Trong năm 1972 miền Bắc động viên trên 22 vạn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang trên cả 3 chiến trường ở Đông Dương.

-Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971.

-Bản thân cơ quan tình báo Mĩ cũng phải thú nhận rằng “mặc dù ném bom rất ác liệt nhưng vẫn không làm giảm đi một cách ý nghĩa việc đưa người và trang thiết bị từ miền Bắc vào miền Nam.


18 tháng 8 2017

- Nông nghiệp:

+ Chính phủ đề ra chủ trương khuyến khích sản xuất. Chăn nuôi là ngành chính.

+ Các hợp tác xã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học-kỹ thuật, năng suất tăng đạt từ 6 đến 7 tấn trên một hécta.

- Công nghiệp: Được khôi phục nhanh chóng, đầu tư xây dựng nhiều công trình nhà máy thủy điện. Các ngành công nghiệp trọng điểm có bước phát triển, giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142%.

- Giao thông vận tải được khẩn trương khôi phục.

- Văn hóa, giáo dục, y tế nhanh chóng được phục hồi và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định.

6 tháng 2 2022

Ý nghĩa:

  -Làm thay đổi bộ mặt kinh tế-xã hội của miền Bắc.

  -Đánh dấu bước phát triển của cách mạng miền Nam

  -Tạo đà đẩy mạnh cách mạng hai miền Nam-Bắc đi lên

14 tháng 4 2017

-Giai đoạn 1954-1960:

-Trong hai năm 1955-1956 ta lấy từ tay địa chủ hơn 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 2 triệu nông cụ chia cho nông dân nghèo thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” mà Đảng đã đề ra từ năm 1930.

-Những năm 1954-1957, nhân dân miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch 3 năm, khôi phục kinh tế thắng lợi. Điều này làm cho đời sống nhân dân miền Bắc ổn định tạo điều kiện để miền Bắc bước vào thời kì mới.

-Từ năm 1958-1960 Đảng đề ra chủ trương 3 năm cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa. Trong đó cải tạo XHCN là trọng tâm mà khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp.

-Những thành tựu đạt được trong kế hoạch 3 năm (1958-1960) cùng với những thay đổi lớn của miền Bắc sau 6 năm (1954-1960) đã được phản ánh tập trung trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày 1-1-1960.

-Giai đoạn 1961-1965:

+Đảng tiến hành Đại hội Đảng lần thứ III, hoạch định đường lối cho cách mạng mỗi miền và xu thế phát triển của thời đại.

+Với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), ta bước đầu xây dựng nền móng của CNXH.

-Trên mặt trận quân sự : đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ ra miền Bắc lần thứ nhất (5-8-1964 đến 1-11-1968)

-Trên mặt trận sản xuất: Đảng chủ trương tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH trong bất kì hoàn cảnh nào miền Bắc vẫn đẩy mạnh sản xuất và chuyển hướng kinh tế lần thứ nhất từ thời bình sang thời chiến.

-Về chi viện:

Trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, miền Bắc luôn là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến miền Nam về sức người và sức của. Với tinh thần mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt sẵn sang đảm bảo “thóc không thiều một cân, quân không thiếu một người”.