K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 10 2021

Em tham khảo nhé:

Vì để cứu cha nên Thúy Kiều đã phải hy sinh bản thân mình. Nàng bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, chính vì nàng đã tìm đến cái chết. Có lẽ vì sợ mất tiền cũng như danh tiếng nên tú Bà vội khuyên can, vờ hứa hẹn, chăm sóc TK. Mụ đưa TK đến sống ở lầu Ngưng Bích. Nàng sống ở đó như bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó rất cao, cho nên từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy mây mù, cồn cát bụi bay mù mịt. Nàng sống ở đó chẳng có bạn có bè, lủi thủi một mình suốt đêm. Không gian càng xa rộng, lòng người càng thêm trống trải, đau buồn. Sự tuần hoàn của thời gian, sự đằng đẵng mỏi mòn, càng thêm vô vọng. Tâm trạng của Kiều đầy đau buồn, xấu hổ, tủi thẹn với thiên nhiên, với lòng mình, với những người thân yêu. Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa. Nàng nhớ đến Kim Trọng- người đàn ông nàng yêu nhất. Rồi Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông, thương cho cha me ngày càng già, day dứt không được ở cận kề chăm sóc. Nàng thương xót cho cha mẹ suốt ngày trông ngóng tin con. Xa xa thì có vài cái thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Rồi thì ngọn thác, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi. Tất cả đều trôi dạt vô định như chính cuộc đời tăm tối không tìm thấy lối đi của Kiều vậy. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu, một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, miêu tả bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc những xót xa khôn nguôi về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Một tấm lòng nhân hậu yêu thương, cảm thông của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều mãi mãi để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc.

Câu 3: Câu chủ đề: Tám câu thơ cuối “Buồn trông cửa bể chiều hôm.......kêu quanh ghế ngồi” trích trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã diễn tả tâm trạng buồn, lo âu của Kiều qua cái nhìn cảnh vật. Em viết đoạn văn (khoảng 10 câu) triển khai câu chủ đề đã cho. Tham khảo diễn đạt thành đoạn văn khoảng 10 câu Đề xuất luận điểm đã cho: Tâm trạng buồn, lo âu, sợ hãi của Kiều quan cái nhìn cảnh vật....
Đọc tiếp

Câu 3: Câu chủ đề: Tám câu thơ cuối “Buồn trông cửa bể chiều hôm.......kêu quanh ghế ngồi” trích trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã diễn tả tâm trạng buồn, lo âu của Kiều qua cái nhìn cảnh vật. Em viết đoạn văn (khoảng 10 câu) triển khai câu chủ đề đã cho. Tham khảo diễn đạt thành đoạn văn khoảng 10 câu Đề xuất luận điểm đã cho: Tâm trạng buồn, lo âu, sợ hãi của Kiều quan cái nhìn cảnh vật. Điệp từ “buồn trông” khởi đầu cho 4 cặp lục bát đã tái hiện nỗi buồn triền miên bao trùm tâm hồn nhân vật, thấm sâu vào cảnh vật. - Đó là nỗi buồn cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng đời của Thúy Kiều: + Tạo dựng sự tương phản: Không gian cửa biển lúc triều dâng >< Cánh buồm thấp thoáng, nhạt nhòa; cánh hoa tàn lụi man mác trôi trên dòng nước. -> Tô đậm cái nhỏ bé, bơ vơ của cánh buồm, bông hoa. + Hình ảnh ẩn dụ: “thuyền ai”, “hoa” -> ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều đang trôi dạt giữa dòng đời. + Câu hỏi “về đâu” -> sự lạc lõng, mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu về đâu của nàng. + Thời gian “chiều hôm” lại càng làm cho nỗi buồn thân phận thêm sâu sắc. - Là cảm giác cô đơn, lẻ loi khi đối diện với không gian mặt đất quanh lầu Ngưng Bích. + Hình ảnh: “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” -> cái vô cùng, vô tận của đất trời. + Từ láy “rầu rầu”: nhân hóa nội cỏ, vẽ lên một vùng cỏ cây vẻ ủ rũ, héo tàn - > gợi sự tàn úa, u buồn của lòng người. + Từ láy “xanh xanh”: gợi sắc xanh nhạt nhòa của nội cỏ, mặt đất chân mây; sắc xanh như che phủ, chia cắt tất cả. Từ ngữ, hình ảnh cho thấy dẫu có kiếm tìm nhưng dường như trong vũ trụ bao la này Thúy Kiều không thể tìm được một dấu hiệu thân quen nào, một hơi ấm nào. Đối diện với một không gian như vậy Thúy Kiều càng thấm thía hơn bao giờ hết sự nhỏ nhoi, đơn độc của mình. - Nỗi trơ trọi, hãi hùng: + Thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: gió giận dữ cuốn mặt duềnh, sóng ầm ầm vỗ ào ạt khi thủy triều lên. + Thậm chí, Kiều cảm giác những đợt sóng dữ dội kia đang bủa vây, kêu réo ngay bên mình. + Thiên nhiên là ẩn dụ cho dự cảm về những biến cố kinh hoàng sắp sửa ập xuống cuộc đời nàng. Những con sóng của số phận đang bủa vây, đe dọa người con gái lẻ loi, đơn độc nơi đất khách này. => Linh cảm trước tương lai khiến Thúy Kiều càng lo sợ, hãi hùng. = > 8 câu cuối cảnh được miêu tả theo trình tự: xa -> gần, màu sắc: nhạt -> đậm, âm thanh: tĩnh -> động. * TÓM LẠI: - Nỗi buồn đau, lo âu, kinh sợ chồng chất trong lòng Thúy Kiều. - Sự mong manh, lẻ loi, trôi dạt, bế tắc trong thân phận nàng. - Sự tuyệt vọng, yếu đuối nhất. => hãy tạo thành đoạn văn, diễn đạt đúng hình thức Giúp mình với 🙏🙏🙏

0
2 tháng 11 2021

Tham khảo:

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích lột tả sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa lầu Ngưng Bích lạnh lẽo. Đó là một tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến, nỗi xót xa khi tình đôi lứa chia lìa và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.

10 tháng 5 2021

Gợi lên sự rợp ngợp ,gợi sự hun hút mênh mông

17 tháng 5 2021

- Không gian quanh lầu Ngưng Bích mênh mông, hoang vắng: "non xa, trăng gần, cát vàng,bụi hồng". Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bay mù mịt

- Thời gian "Mây sớm, đèn khuya" sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn. Qua đó thấy được Kiều thui thủi quê người một thân

- Tâm trạng Kiều bẽ bàng, buồn tủi, ngổn ngang. Qua đó ta thấy Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi

19 tháng 10 2020

Câu 1:

Sau khi gia đình xảy ra biến cố, lâm vào bước đường cùng, Kiều đành ngâm ngùi chấp nhận trao duyên lại cho em, bán thân lấy tiền để cứu cha và em trai thoát khỏi cảnh ngục tù. Hay tin này, gần đó có một bà mối thấy đây là món lợi lớn, bèn dắt mối cho Mã Giám Sinh đến để thương lượng mua Thúy Kiều về làm vợ. Hỏi ra thì được biết, Mã Giám Sinh quê vốn ở huyện Lâm Thanh, tuổi nay cũng đã ngoài bốn mươi, nhìn cách ăn vận chỉnh trang, thì xem ra cũng là người giàu có.

Nhưng cái vẻ bề ngoài chẳng thể nào che đậy được cái sự phàm tục của hắn, vừa mới bước chân vào nơi Kiều ở, đã sỗ sàng ngồi tót vào ghế, chẳng đợi ai mời mọc, không có một chút lễ độ, đúng mực nào cả. Giờ đây hắn chỉ muốn được chiêm ngưỡng nhan sắc vốn nổi danh của Kiều, bèn sốt sắng giục bà mối vào gọi Thúy Kiều ra cho hắn xem mặt, hành động vô cùng quá phận.

Thúy Kiều vốn đang đau khổ, xót thương cho thân phận hẩm hiu của bản thân, nay gặp cảnh này lại càng thêm ấm ức trong lòng, nàng đi mà chân không muốn bước, trên gương mặt vốn xinh đẹp tuyệt trần, nay lệ từng hàng tuôn rơi. Ngoài kia là người nàng sẽ gửi gắm cả cuộc đời, nhưng sao nàng có cảm giác sợ sệt, e ngại thế này, đôi mày liễu khẽ nhăn lại, gương mặt xinh đẹp hơi cúi, khẽ cắn làn môi hồng, chẳng dám nhìn thẳng Mã Giám Sinh. Đã xem mặt Kiều, nhưng họ Mã lại muốn thử cả tài, bèn ép Kiều đàn hát, đề thơ lên quạt, Kiều thiết nghĩ dù sa cơ lỡ vận nhưng cũng là con nhà gia giáo, há lại chịu cảnh nhục nhã này. Nhưng nay đã lỡ, Kiều cắn răng gảy đàn mà lòng rối như tơ, tay nàng xiết chặt cán bút đề thơ trên quạt giấy.

Thấy Kiều tài sắc vẹn toàn Mã Giám Sinh rất hài lòng nhưng lại ra chiều ép giá, hắn với bà mối kì kèo qua lại thêm thêm bớt bớt, bỏ mặc Kiều đứng chết lặng nhìn bản thân đang được ngã giá như một món hàng không hơn chẳng kém. Thôi thế đã đành, phận gái nay biết về nơi đâu?

Câu 2:

Sau bao năm tháng tủi nhục nơi lầu xanh dơ bẩn, cuối cùng ta may mắn được Từ Hải yêu mến và chuộc ra ngoài. Chàng cho ta cơ hội được trở về chỗ vợ chồng Thúc Sinh khi trước, để hoàn thành tâm nguyện đền ơn báo oán. Cảnh sắc nơi đây chẳng có gì thay đổi so với lần đầu ta đến, khung cảnh giàu có xa hoa, nhưng lại là nơi làm ta tổn thương sâu sắc.

Đang chìm trong hoài niệm, thì Thúc Sinh được người đưa vào, thấy ta chàng bất ngờ lắm, tiếc thay vật đổi sao dời, nay ta và chàng đã không còn như trước kia, nhưng ơn cứu giúp ta thoát khỏi lầu xanh và những ân tình chàng từng dành cho ta, ta chưa từng quên dù chỉ một ít. Ta với chàng ôn lại chuyện xưa cũ, nhìn bộ dáng nhu nhược, khúm núm của chàng, ta tự hỏi mình đây là người khi xưa ta từng hết mực yêu thương ư? Ta cũng không biết nữa, chỉ lẳng lặng truyền người mang vào gấm vóc, vàng bạc rồi trao cho chàng, coi như hết nợ ân tình. Nhưng cái gai trong lòng ta vẫn chưa được gỡ bỏ, nó làm ta đau đớn, nhức nhối tâm can từng ngày.

Ta nhắc về Hoạn Thư, vợ chàng, muốn xem thái độ của chàng về việc này ra sao, nhưng chàng im lặng, giống như xưa khi ta bị vợ chàng lăng nhục, chàng cũng im lặng như vậy, ta chỉ còn biết lắc đầu thở dài. Ta cho Thúc Sinh lui xuống, đã đến lúc gặp người phụ nữ kia rồi, Hoạn Thư được áp giải vào, thấy ta thì hồn lạc phách siêu, chắc chẳng ngờ nổi bản thân cũng có ngày hôm nay. Người phụ nữ này đã từng khiến ta chịu bao tủi hổ, đau đớn, đang đứng trước mặt ta, nhưng lòng ta bình tĩnh đến lạ kỳ, không nổi giận, quát mắng. Ta mỉm cười liếc mắt nhìn nàng ta mà rằng: “Tiểu thư cũng có ngày hôm nay, sao khi xưa không nghĩ đến việc chừa cho ta một đường lui? Phải biết rằng gieo nhân nào gặp quả nấy, tiểu thư cũng đừng trách ta vô tình!”. Hoạn Thư nghe ta nói vậy, thì lập tức dập đầu phân bua: “Thúy Kiều, cô hãy hiểu cho ta, đều phận đàn bà, lại gặp kiếp chồng chung, có ghen tuông ắt là điều không thể tránh khỏi. Nhưng cô nhớ xem, lúc trước ta cũng chỉ muốn cô chép kinh thư cho tâm thanh tịnh, lúc cô bỏ trốn cũng không hề đuổi theo, suy cho cùng cũng chỉ trách bản thân ta quá yêu Thúc Sinh, sợ mất chàng, mà làm điều không phải với cô. Nay phần tội lỗi này ta xin nhận hết, chỉ mong cô rộng lòng tha thứ, ta xin khấu đầu tạ tội!”, nói rồi lại dập đầu thêm lần nữa. Ta mỉm cười, quả thật thông minh, khá khen cho lý lẽ sắc bén, kín kẽ một chút gió cũng không lọt nổi, ta còn biết nói thêm lời nào nữa? Âu cũng là khi xưa vì bản thân mình mà nàng ta đau khổ, chắc gì đã sung sướng hơn ta, thật xót xa cho phận đàn bà, thôi có lẽ oán này không cần báo nữa rồi. Ta ra hiệu cho người thả Hoạn Thư ra, còn bản thân bước đến trước cửa nhìn trời xanh, nhủ thầm: “Báo ân, báo oán đều đã trọn, buông xuống thôi Thúy Kiều, từ nay về sau, quá khứ chẳng còn liên quan gì với tương lai, chỉ còn Từ Hải”.

Câu 3:

Tôi có một cô bạn rất thân, chúng tôi chơi với nhau từ thời hai đứa còn rất nhỏ. Tình bạn của tôi cứ tưởng mãi tốt đẹp như thế cho đến khi tôi lỡ bỏ quên sinh nhật nó, chỉ vì mải mê “cày” một bộ phim mới nổi. Nó không hề giận hay trách móc tôi, tuy vậy nhưng tôi thấy có lỗi nhiều lắm, cả ngày chỉ cứ nghĩ mãi đến hôm sinh nhật nó, người bạn thân nhất là tôi thế nào lại quên béng đi, không có lấy một lời chúc mừng. Để chuộc lỗi, ngay hôm sau tôi tặng bù nó món quà mà tôi thức suốt đêm để làm, chỉ hy vọng nó sẽ tha thứ cho tôi. Tôi ước rằng nó cứ giận hay trách móc tôi cũng được, chứ nó cứ dung túng cho tôi thế này tôi lại càng cảm thấy bản thân thật tệ. Nó cầm món quà của tôi, nét mặt hạnh phúc lắm, nó bảo tôi: “Mày đừng thấy áy náy nữa, thật sự tao không để tâm đâu, thấy mày cứ ủ dột như vậy, tao không muốn”. Nghe được câu nói đó của nó tôi thấy như được thoát khỏi cái gông cùm tội lỗi mấy hôm vừa qua. Cũng từ đó tôi học được cách quan tâm để ý mọi người hơn, và cũng chưa từng quên sinh nhật của những người thân thiết bao giờ.