K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Bài tập 2:Cho đoạn văn sau:“Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:  – Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng...
Đọc tiếp

Bài tập 2:Cho đoạn văn sau:

“Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:  – Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. (Theo Ngữ văn lớp 9, tập một, NXB Giáo dục, 2010) 1. Trong tác phẩm, lời thoại trên là độc thoại hay đối thoại? Vì sao?

2. Lời thoại này được Vũ Nương nói trong hoàn cảnh nào? Qua đó nhân vật muốn khẳng định những phẩm chất gì? 

3. Xét về cấu tạo ngữ pháp, câu văn  “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám” thuộc kiểu câu gì?

4. Hãy trình bày một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn bản trên và cho biết ý nghĩa của biện pháp nghệ thuật ấy.

5. Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, bi kịch gia đình đã xảy ra xuất phát từ sự nghi ngờ mù quáng, thiếu lòng tin. Từ văn bản đó kết hợp với những hiểu biết của bản thân, em hãy trình bày suy nghĩ của mình (khoảng 2/3 trang giấy thi) về vai trò của niềm tin trong cuộc sống. 

0
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu bên dưới:        Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn long, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược...
Đọc tiếp

Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu bên dưới:

        Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn long, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng long chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.

  Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng đồng lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:

-        Cha Đản lại đến kia kìa!

  Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:

-        Đây này!

Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!

Câu 1: (1,5đ)Vì sao Vũ Nương tự coi mình là  “kẻ bạc mệnh”?

Đây là lời độc thoại. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến chỗ tận cùng là cái chết .

Câu 2: (1,5đ) Tìm và chỉ ra cách dẫn trong đoạn trích và cho biết việc tìm ra cách dẫn dựa trên cơ sở nào?

                                                              

Câu 3: (2đ)Chi tiết nào trong đoạn trích là quan trọng nhất? Nêu ý nghĩa chi tiết đó?

II. TẠO LẬP VĂN BẢN: (5,0 điểm)

  Từ nội dung đoạn trích trên, viết một đoạn văn ngắn (10-15 câu) trình bày suy nghĩ của em về thân phận của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến.

 

 

0
Dưới đây là một đoạn trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ)... "Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm...
Đọc tiếp

Dưới đây là một đoạn trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ)

... "Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ."...

 

Câu 1: Trong tác phẩm, lời thoại trên là độc thoại hay đối thoại? Vì sao?

Câu 2: Lời thoại này được Vũ Nương nói trong hoàn cảnh nào? Qua đó nhân vật thể hiện phẩm chất và mong ước gì? Ghi lại ngắn gọn (khoảng 6 câu) suy nghĩ của em về những phẩm chất ấy của nhân vật.

Câu 3: Làm nên sức hấp dẫn của truyện truyền kỳ là những yếu tố kỳ ảo. Nêu hai chi tiết kỳ ảo trong truyện " Người con gái Nam Xương".

0
NHANH HỘ MÌNH VỚI !!!!Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới.:Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng:“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài, chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu...
Đọc tiếp

NHANH HỘ MÌNH VỚI !!!!

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới.:

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng:

“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài, chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”

1.Trong đoạn trích, lời thoại trên là độc thoại hay đối thoại? Vì sao?

2. Lời thoại trên được nhân vật thiếp nói trong hoàn cảnh nào? Qua những lời đó ta hiểu nhân vật Thiếp mong muốn gì? Nàng khẳng định những phẩm chất gì?

3. Giải thích nghĩa của từ “bạc mệnh”, “hẩm hiu” được sd trong đoạn trích.

4.Viết đoạn văn khoảng 10 câu theo mô hình tổng – phân – hợp, trong đó có sử dụng phép thế và tình thái từ để nêu cảm nhận của em về nhân vật thiếp được thể hiện trong lời thoại trên.

3
13 tháng 8 2021

1. Đây là lời độc thoại vì đây chỉ là lời của nhân vật với 1 phía

2. Trong hoàn cảnh nàng đang đau khổ, tuyệt vọng. Nàng muốn thanh minh cho bản thân. Nàng đã khẳng định phẩm chất thủy chung, trong sạch của mình

3. ''Bạc mệnh'' : có số phận mỏng manh, hẩm hiu

''Hẩm hiu'' : chịu thua kém

4. 

Em tham khảo:

Vũ nương là người vợ thủy chung. Nổi bật trong văn bản ta thấy Vũ Nương là một người vợ hết mực yêu thương chồng. Khi Trương sinh đi lính, nàng chẳng mong chàng áo gấm trở về mà chỉ muốn chồng được bình yên nơi chiến trường. Nàng lo lắng cho Trương sinh ở nơi biên ải chịu khó khăn vất vả không có người nương tựa. Vậy mà Trương Sinh không cảm nhận được chăng?.  Khi bị Trương Sinh nghi oan nàng cũng chỉ hết mực giải thích để níu giữ hạnh phúc gia đình. Đến khi chết đi rồi, Vũ Nương cũng chẳng một lời trách móc, oán than Trương Sinh mà còn muốn về gặp chàng lần cuối. Qua tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã vẽ ra trước mắt chúng ta là một người phụ nữ tài đức vẹn toàn.

 Phép thế: Vũ Nương=> Nàng

Tình thái từ: In đậm Nghiêng

14 tháng 8 2021

alo giờ anh muốn như thế nào ta nhonhung

“Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:  – Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi...
Đọc tiếp

“Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:  – Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.

Câu 1:trích từ văn bản nào? Của ai? Nêu ý nghĩa nhan đề "Truyền kì mạn luc"?

Câu 2:giải nghĩa từ "bạc mệnh"

Câu 3:Tìm 2 thành ngữ

Câu 4:Những từ in đậm trong đoạn văn dùng để chỉ ai?Trình bày bằng 1 đoạn văn khoảng 10-12 câu,theo lối T-P-H,nêu suy nghĩ của em về vẻ đẹp và nhân phẩm của người đó.Trong đoạn sử dụng câu ghép_chỉ rõ

Câu 5: Từ nhân vật trong đoạn văn gợi cho em liên tưởng đến tác phẩm nào? Của ai?

 

2
8 tháng 10 2023

Câu 1: Trích từ văn bản “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Nhan đề "Truyện Kiều" nghĩa là chuyện tình của Kiều, kì ảo và mộng mị, thể hiện sức mạnh về nghệ thuật, ngôn ngữ và thông điệp sâu sắc của tác giả.
Câu 2: “Bạc mệnh” có nghĩa là số phận không may, gặp nhiều điều không may mắn và khó khăn trong cuộc sống.
Câu 3: Hai thành ngữ trong đoạn văn là "đoan trang" và "nhuốc nhơ".
Câu 4: Từ in đậm trong đoạn văn này là "thần sông", được dùng để chỉ các thần và linh vật trong truyền thuyết. Nếu để miêu tả vẻ đẹp và nhân phẩm của nhân vật trong đoạn văn, em có thể viết: Người đó là một người phụ nữ tuy không có vẻ đẹp hoàn hảo nhưng lại toát lên một vẻ đẹp rất riêng, một sự quyến rũ trong từng cử chỉ và hành động. Cô ta tận tụy trong tình yêu, tận tâm trong sự nghiệp và luôn có trái tim nhân hậu, chân thành, giúp đỡ người khác. Dù đang gặp nhiều khó khăn và chịu nhiều sự phỉ nhổ, cô ta vẫn không từ bỏ lý tưởng của mình và hy vọng sẽ có một cuộc đời tốt đẹp hơn. Với những phẩm chất đó, cô ta thật sự là một người đáng quý, xứng đáng được tôn vinh và kính trọng.

8 tháng 10 2023

bạn nhầm câu rồi

 

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi 1,2,3,4 bên dưới:Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi 1,2,3,4 bên dưới:

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin khắp mọi người phỉ nhổ.

(Theo Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2010)

Câu 1:(1.0 điểm) Đoạn trích trên là lời của ai, nói trong hoàn cảnh nào?

Câu 2: (0.5 điểm) Tại sao nhân vật trong đoạn trích trên mượn dòng Hoàng Giang để giải tỏ tấm lòng của mình?

Câu 3: (0.5 điểm) Xác định phép tu từ được sử dụng trong câu văn sau:

Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám.

Câu 4: (1.0 điểm) Sau khi nói lời trên nhân vật đã gieo mình xuống sông. Hành động đó có ý nghĩa gì?

II. TẠO LẬP VĂN BẢN (7.0 điểm):

Câu 5: (7.0 điểm) Từ đoạn ngữ liệu em hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 10 dòng) bàn về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

0
7 tháng 12 2021

1. Đoạn trích nói về cảnh Vũ Nương ra bến HG than với thần sông về nỗi oan khuất của mình. Qua đây có thể thấy phẩm chất trong sạch, liêm khiết của nàng. 

ĐỀ SỐ 6. Đọc đoạn trích dưới đây trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” và thực hiện các yêu cầu:  “Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng:  - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài, chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm...
Đọc tiếp

ĐỀ SỐ 6. Đọc đoạn trích dưới đây trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” và thực hiện các yêu cầu:

  “Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng:

  - Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài, chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Câu 5. Đọc truyện Vợ chàng Trương, hãy cho biết cách kể của Nguyễn Dữ ở đoạn này có sự sáng tạo như thế nào? Chỉ rõ hiệu quả của sự sáng tạo đó.

Câu 6. Chi tiết nào trong đoạn trích là quan trọng nhất? Nêu ý nghĩa chi tiết đó? Vũ Nương mong muốn gì? Nàng khẳng định những phẩm chất gì?

1
1 tháng 10 2021

Tham khảo:

undefined

undefined

than rằng: Đoại rồi năng tắm gội chạy sạch ra bến Hoàng Giang ngừa hạt lên trời ma -Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều dấu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhờ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gần lồng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lỏng chim dạ cá lừa chồng đối con,...
Đọc tiếp

than rằng: Đoại rồi năng tắm gội chạy sạch ra bến Hoàng Giang ngừa hạt lên trời ma -Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều dấu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhờ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gần lồng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lỏng chim dạ cá lừa chồng đối con, dưới xin làm mồi cho cả tôm, trên xin làm cơm cho điều qua, và xin chịu khắp mọi người phi nhỏ. Nói xong nằng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy năng tự tấn cũng đồng lòng thương, tìm vớt thấy nàng, nhưng chẳng thấy tâm hơi đậu và. Một bản phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chat đứa con nới răng Cha Dân kì đến kia kia Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách. -Đây này! Thì ra, thường ngày, ở một mình, nàng hay đùa con, trò bóng minh mà bảo là cha Đàn. Bấy giờ chồng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi! ( Chuyện người con gái Nam Xương - Trích Truyền kì mạn luc- Nguyễn Dir) Thực hiện các yêu cầu sau: Cần 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích. Câu 2. Trong đoạn trích có hoạt động giao tiếp giữa các nhân vật nào? Câu 3. Trong đoạn trích “chiếc bóng” là hình ảnh của ai Câu . Theo em hình ảnh “chiếc bóng” có ý nghĩa gì? Câu 5. Nêu nội dung chính của đoạn trích là gì? Câu 6. Qua đoạn trích, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (5 den 7 dòng) bàn v hat c vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

0
Cho đoạn văn sau:“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người...
Đọc tiếp

Cho đoạn văn sau:

“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”…

Câu 1: Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của ai? Nêu xuất xứ của tác phẩm.

Câu 2: Hãy tìm các điển tích điển cố và các từ Hán Việt có trong đoạn văn.

Câu 3: Đoạn văn là lời nói của ai? Nói trong hoàn cảnh nào? Em có nhận xét gì về tâm trạng của nhân vật ở đoạn này?

Câu 4: Tại sao tác giả lại sử dụng cụm từ "kẻ bạc mệnh" trong đoạn văn? Đoạn văn đã cho em hiểu điều gì về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam quyền?

1
10 tháng 4 2022

Tham khảo
Câu 1: Đoạn văn trích từ tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Xuất xứ: “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
Câu 2: Từ hán việt: bạc mệnh, duyên phận, thần linh, chứng giám, thiếp, đoan trang, tiết, trinh bạch, ngọc, nhược, phỉ nhổ
Câu 3: - Đây là lời thoại của nhân vật Vũ Nương

- Lời thoại này được nói trong hoàn cảnh khi Vũ Nương bị Trương Sinh nghi oan là phản bội chồng và để minh chứng cho tấm lòng son sắt thủy chung của mình, Vũ Nương đã ra bến sông Hoàng Hà và giãi bày tâm sự với trời đất.
- Lời than của nàng trước trời cao, sông thẳm là sự minh chứng cho tấm lòng trinh bạch, nàng muốn được thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất cũng như ghi nhận đức hạnh của nàng.

10 tháng 4 2022

Tham khảo
Trong kho tàng văn học trung đại có rất nhiều những tác giả đã dùng ngòi bút của mình để viết về những mảnh đời bất hạnh. Mà tiêu biểu nhất đó là số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Được sinh ra làm người nhưng không sống đúng giá trị của một con người. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng chính là một đại diện tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nói riêng và phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.

Vũ Nương là một người con gái với xuất thân bình dân và vẻ đẹp dung dị mặn mà. Chính vì thế nàng đã được con trai hào phú trong làng để ý tới. Trương Sinh không tiếc trăm ngàn lạng vàng đến hỏi cưới nàng về làm vợ. Thế nhưng Trương Sinh là công tử ít học, từ bé sống trong nhung lụa nên có tính đa nghi, gia trưởng. Từ sau khi làm dâu ý thức được thân phận nhỏ bé, gia cảnh bần hàn của mình Vũ Nương chưa một lần dám phản kháng hay làm trái ý chồng. Cuộc sống những tưởng êm ả thế nhưng binh biến loạn lạc, Trương Sinh phải lên đường ra chiến trận. Ngày chia tay nàng rót chén rượu đầy cho chồng mà thưa rằng: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong muốn của nàng chẳng phải chức tước công lao chỉ đơn giản là hai tiếng hạnh phúc bình dị. Đó chính là niềm khát khao cháy bỏng của người vợ trong những ngày binh chiến loạn lạc.

Vũ Nương ở lại một tay tần tảo lo lắng việc nhà, chăm sóc mẹ già lại phải cáng đáng thêm đứa con mới lọt lòng. Thế nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ người phụ nữ ấy oán trách nửa lời. Sau khi tiễn con trai lên đường mẹ già vì quá đau buồn mà sinh bệnh nặng. Vũ Nương ngày đêm túc trực thăm nom, đi khắp nơi kiếm thầy tìm thuốc chữa cho mẹ chồng, đồng thời hết lời khuyên lơi nhưng bà không qua khỏi. Mẹ chồng vô cùng cảm động trước tình cảm của con dâu nên trước khi nhắm mắt xuôi tay bà cầm tay nàng mà dặn dò : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Sau khi mẹ chồng qua đời nàng hết lòng ma chay, tang chú lễ nghĩa cho trọn đạo dâu hiền.

 

Về phần con nhỏ, do quấy khóc nên hàng đêm Vũ Nương ẵm con trên tay chỉ vào chiếc bóng mình trên tường và nói “Cha con đến kìa”. Mỗi lần như thế đứa bé lại cười reo thích thú. Lâu dần thành quen nàng cũng chẳng còn nhớ giải thích về “chiếc bóng” trên tường với con nữa.

Giặc tan, Trương Sinh trở về tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng từ đây thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vì hiểu lầm nhỏ nhặt mà đã đẩy cuộc đời Vũ Nương vào bế tắc.

Chính chiếc bóng mình trên tường đã khiến Trương Sinh nảy sinh lòng đa nghi đố kỵ. Không nghe vợ giải thích chỉ biết đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương vì quá tủi nhục đã trẫm mình xuống sông tự vẫn kết thúc nỗi oan nghiệt thấu trời. Nguyên nhân đẩy nàng đến cái chết không phải do sự vô tâm của chồng mà chính là sự cay nghiệt của miệng đời.

Số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Luôn bị áp bức và dồn đến đường cùng. Dù họ có xinh đẹp tài hoa hay sang hèn thì đều chung một tiếng đó là “bạc mệnh”. Như nhà thơ Nguyễn Du từng viết:

“Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Họ là những nạn nhân của chế độ cũ, của những hủ tục lạc hậu và định kiến hà khắc. Sống ở đó họ chỉ tồn tại như những món đồ vô tri vô giác, mang đi đổi chác, bán mua và hoàn toàn không có quyền lên tiếng hay thanh minh gì cho mình. Vũ Nương chết mang theo nỗi oan thấu trời xanh thế nhưng kẻ khiến nàng rơi vào đường cùng là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án hay dè bỉu. Thậm chí khi nàng đã được minh oan, Trương Sinh cũng không bị cắn rứt lương tâm, không muốn nhắc lại chuyện cũ mà coi như “nó đã qua”. Phải chăng sự sống và cái chết của người phụ nữ trong xã hội bị coi thường đến mức rẻ rúm? Họ không có quyền thanh minh và lại càng không được bảo vệ đến tính mạng?

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng ngậm ngùi khi nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ bằng những vần thơ đầy đau thương:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Thế nhưng mặc dù đã đạp lên số phận, đã khẳng định tiếng nói vị thế của mình song hành động đó của bà chỉ như một điểm sáng vụt qua giữa bầu trời đầy đen tối. Nó không đủ để làm nên một đại cách mạng về quyền sống và quyền làm người của phụ nữ trong xã hội đương thời đầy rối ren và bế tắc.

Vũ Nương chính là một hình ảnh đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Những con người sinh ra làm con người nhưng không được sống trọn vẹn một kiếp người. Đó cũng là tiếng nói chống lại sự bất công, phân biệt đối xử trong xã hội, và là tiếng lòng nhân ái đầy sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi gắm.