K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

9 tháng 11 2016

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Có lẽ, ai đọc tác phẩm "Chữ người tử tù" đều rung động cảm phục trước vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao.

Truyện kể về nhân vật Huấn Cao- một kẻ cầm đầu bọn phản loạn dám đứng lên chống lại triều đình.Khi bị bắt giam ở nhà tù tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm lòng viên quản ngục ông đã đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tình huống truyện vô cùng độc đáo. Huấn Cao là người cho chữ nhưng lại là tử tù chờ ngày ra pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ nhưng đồng thời lại là người quản lí trại giam nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc gặp gỡ đã tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi bật lên vẻ đẹp rạng ngời của nhân vật Huấn Cao.

Trước hết để xây dựng hình tượng Huấn Cao, tác giả lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát ngoài đời - môt con người mà ông hằng yêu mến kính trọng. Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quá lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa quyện với cái đẹp của khí phách. Dưới ngòi bút tài hoa và bút pháp lãng mạn, Nguyễn Tuân đã xây dựng lên một nhân vật lí tưởng, vì vậy nhân vật này đẹp nhất trong thế giới nhân vật " vang bóng một thời". Khi nói về Huấn Cao , nhà văn không đi vào miêu tả lai lịch xuất thân mà bằng cách miêu tả gián tiếp để dựng lên chân dung nhân vật. Đây là một cách miêu tả "vẽ mây nảy trăng". Cái tài của Huấn Cao được xác nhận khi quản ngục vừa nhận được phiến trát nói về người tù sẽ đến đề lao của mình " Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?" Quản ngục biết rằng chữ của ông Huấn " đẹp lắm, vuông lắm", "Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Qua đó, ta cũng thấy được thái độ trân trọng của tác giả với những bậc tài hoa và nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc.

Bên cạnh tài viết chữ đẹp Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục để trở về với cuộc sống tự do. Như vậy Huấn Cao trở thành mối đe dọa cho bất cứ trại giam nào có vinh hạnh được giam giữ ông. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng sa cơ lỡ vận. Nhưng người anh hùng này không giống những người anh hùng sa cơ lỡ vận khác mà ta đã bắt gặp trong thơ của Nguyễn Du khi nói về người anh hùng Từ Hải: " Hùm thiêng gặp bước sa cơ cũng hèn " và lại càng không giống tâm trạng con hổ trong bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ. Với Huấn Cao những ngày cuối cùng trong cuộc đời ông lại ngời lên khí phách của một đấng trượng phu, của một người anh hùng. Điều đó được thể hiện ngay trong tác phẩm khi ông được dẫn đến đề lao bằng hành động " chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái". Hành động đó thể hiện cái uy của ông đối với những người bạn tù trước sự phản ứng và tuân thủ của họ đồng thời thể hiện thái độ khinh bạc của mình đối với bọn lính áp giải bởi bọn chúng cũng chỉ là hạng người tiểu lại giữ tù mà thôi.

Suốt nửa tháng ở trong trại giam tỉnh Sơn, ông đã được thầy trò viên quản ngục biệt đãi, đáp lại ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt và coi đó là cái hứng lúc sinh bình. Sau nửa tháng thì Huấn Cao mới đối mặt với viên quản ngục. Trước sự lễ phép của viên quản ngục, Huấn Cao đã đáp lại rằng: " Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây ". Nó thể hiện thái độ rất khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục. Cố ý sỉ nhục viên quản ngục trong lời nói và trong cách xưng hô "ta- nhà ngươi" thì ông sẵn sàng chờ đợi một trận lôi đình, báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của ngục quan - những trò đánh đập như cơm bữa của các trại giam lúc bấy giờ. Nhưng với ông cái chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thi oai này. Qua những hành động lời nói ta mới thấy được khí phách của một người anh hùng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhưng câu chuyện lại làm cho người đọc cảm thấy bất ngờ khi viên quản ngục lại lễ phép lui ra lại còn hậu đãi ông và năm người bạn của ông hơn trước nữa. Và chính vì thế nó khiến cho tình huống truyện thêm kịch tính hơn nữa. Với Huấn Cao bền ngoài thì thản nhiên như thế nhưng bên trong ông lại đặt ra rất nhiều câu hỏi để lí giải cho sự biệt đãi bất thường, sự tươm tất ấy của viên quản ngục, bởi vì tất cả đã khai bên Ti niết rồi, hay viên quản ngục còn muốn thăm dò hay muốn đo lòng người hay sao... Nhưng đến khi hiểu được nỗi lòng và những sở nguyện cao quý của viên quản ngục rồi, trong tư thế "cổ đeo gông, chân vướng xiềng" thì ông cho chữ viên quản ngục. Vậy phải có khí phách của người anh hùng thì ông mới có phong thái ung dung như thế.

Nếu chỉ thấy tài hoa và khí phách của Huấn Cao thì hình tượng nhân vật Huấn Cao sẽ thiếu đi sự gần gũi đối với mọi người. Nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa một nét phẩm chất nữa là Huấn Cao có thiên lương trong sáng. Một con người bao dung độ lượng, trọng nghĩa khinh tài khiến cho Huấn Cao đẹp như một nhân vật huyền thoại và điều đó được tác giả thể hiện trong hoàn cảnh éo le nhất khi mà kịch tính của câu truyện được đưa lên đỉnh điểm. Đó là vào một buổi chiều lạnh, ngục quan nhận được công văn của quan Hình bộ Thượng thư rằng sẽ bắt giải Huấn Cao và những người bạn của ông vào kinh lãnh án vào sáng sớm hôm sau. Trong khi viên quản ngục lặng người đi thì Huấn Cao lại lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Ông suy nghĩ về tấm lòng về sự biệt đãi của thầy trò viên quản ngục đối với mình suốt một tháng qua và ông mỉm cười - cái nụ cười bao dung và độ lượng, để bằng lòng cho chữ viên quản ngục. Trước đây ông chỉ bằng lòng cho chữ những người bạn tri kỉ của mình nhưng ông lại bằng lòng cho chữ viên quản ngục như đang lấy tấm lòng của mình đáp lại tấm lòng của thầy Quản. Vì vậy ông nói mà như......................." Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Chính vì vậy Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “dậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Vẻ đẹp đó đã làm cho viên quản ngục "khúm núm cất những đòng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng". Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì "run run bưng chậu mực". Cái tư thế ấy cho thấy viên quản ngục và thầy thơ lại cảm thấy mình thật nhỏ bé trước một nghệ sĩ tài hoa, một con người có khí phách anh hùng, một con người không vì vàng bạc mà ép mình cho chữ, một con người mà đến cảnh chém chết còn không sợ nhưng lại sợ "phụ một tấm lòng trong thiên hạ".

Nhân vật Huấn Cao hiện lên với ba phẩm chất là một con người có tài hoa, khí phách và có thiên lương trong sáng, là một người anh hùng có trí có dũng có tâm. Qua đó, nhà văn muốn gửi gắm quan niệm về cái đẹp thông qua nhân vật này, đó là: con người lí tưởng trước hết là con người có tài có tầm cao văn hóa và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài của mình. Cái tài phải đi song song với bản lĩnh khí phách. Thế nhưng con người có tài có khì phách chưa đủ mà còn phải có cái tâm trong sáng. Nhà văn Nguyễn Tuân rất coi trọng chữ "tâm" coi trọng thiên lương của mỗi con người. Đúng như nhà văn Nguyễn Du đã viết:
" Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Cho nên với nhân vật Huấn Cao - một con " Nhất sinh đê thủ bái mai hoa " (cả đời chỉ biết cúi đầu trước vẻ đẹp của hoa mai ) nhưng vì có thiên lương trng sáng nên rất nâng niu, cảm kích, trân trọng trước tấm lòng "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" của viên quản ngục, sống giữa cái xấu xa cái ác mà vẫn hướng thiện. Không những thế Huấn Cao còn dàng cho viên quản ngục những lời khuyên rất chân thành: " thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi." Nó giống như lời khuyên bảo của cha ông xưa: " đói cho sạch, rách cho thơm", dù ở bất kì nơi đâu cũng phải giữ cái đạo làm người.

Với Nguyễn Tuân cái tâm luôn là gốc rễ của nhân cách là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách con người. Đồng thời, nó còn có giá trị gợi lại nét bẳn sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mai một và khẳng định phẩm chất trong sáng của con người:
"Bần tiện bất năng di
Phú quý bất năng dâm
Uy vũ bất năng khuất"

Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người mang những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi,Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.

Dựng lên hình tượng Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói "Chữ người tử tù" với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.  
12 tháng 11 2017

Nhân vật Huấn Cao:

- Hình tượng nhân vật Huấn Cao có tính cuốn hút về nhân cách, tài năng, khí phách anh hùng ngang tàng, một con người mang nét đẹp của khí chất ngang tàng

- Con người sống hiên ngang, đầy tự trọng

+ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ

+ Những người chọc trời quấy nước chỉ đếm trên đầu ngón tay

- Chí lớn không thành, coi thường cái chết, cường quyền

+ Chống lại triều đình, bị bắt giam nhưng không hề sợ cái chết

+ Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng

- Khinh bỉ kẻ đại diện cho cường quyền

+ Khí phách hiên ngang giữa ngục tù

+ Khinh bỉ những kẻ cầm quyền thị oai, tàn nhẫn

- Là người yêu cái đẹp, tạo ra cái đẹp

+ Tài hoa khi viết thư pháp

+ Dành sự tài hoa cho người tri kỉ

- Hình ảnh cao đẹp, uy nghi của Huấn Cao khi cho chữ quản ngục

+ Viết chữ vốn thanh cao

+ Hình ảnh kì vĩ của người tù đeo gông, chân vướng xiềng xích tô đậm nét chữ >< hình ảnh co ro của thầy thơ lại, run run bưng chậu mực khúm núm, tay vái tạ

⇒ Hình tượng Huấn Cao phản ánh tư tưởng nghệ thuật của tác giả về cái đẹp: thiên lương cao cả tỏa sáng chính nơi bóng tối và cái ác ngự trị.

27 tháng 10 2018

Huấn Cao có vẻ đẹp thể hiện qua phẩm chất:

+ Con người tài hoa, ưu việt, đầy quyền năng (tài viết chữ “đẹp và vuông lắm”, tiếng tăm nổi khắp tỉnh Sơn, khiến quan ngục muốn xin chữ)

+ Khí phách hiên ngang, gan dạ của Huấn Cao (Vẫn giữ được sự hiên ngang, khảng khái ngay cả trong tù)

+ Người có “thiên lương” trong sáng và cao đẹp (thái độ trọng cái đẹp, chia sẻ lời gan ruột với quản ngục)

- Tác giả xây dựng hình tượng Huấn Cao với dụng ý nghệ thuật:

+ Bày tỏ quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của tác giả

+ Cái tài phải đi đôi với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời: quan niệm tiến bộ của tác giả

6 tháng 1 2022

Phan Châu Trinh (1872-1926), là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ nhất trong những năm đầu của thế kỷ XX, ông là người đầu tiên đề xướng phong trào cứu nước kiểu dân chủ, đòi bác bỏ chế độ quân chủ phong kiến sớm nhất ở Việt Nam. Trong suốt cuộc đời mình Phan Châu Trinh đã từng đi đến nhiều nơi để theo đuổi lý tưởng giải phóng dân tộc lúc ở Pháp, lúc ở Nhật. Tuy nhiên vì một số hướng đi sai lầm mà ông cũng như Phan Bội Châu vẫn chưa tìm ra được một con đường cứu nước đúng đắn và phù hợp với đặc điểm lúc bấy giờ của đất nước. Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi, Phan Châu Trinh còn là một nhà thơ, nhà văn chính luận có nhiều tác phẩm đặc sắc. Đập đá ở Côn Lôn là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông, được viết trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, ấy là khi Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp khép vào tội xúi giục nhân dân Trung Kỳ chống thuế và bị bắt đày ra Côn Đảo, bị buộc phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá.

 

Trước hết trong bốn câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm của mình về chí làm trai, đồng thời thông qua đó cũng bộc lộ những sự vất vả, cực nhọc của công việc lao động khổ sai khi bị lưu đày tại Côn Đảo.

"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn"

Câu thơ đầu tiên "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn" đã mở ra cho người đọc một hình dung về bối cảnh không gian rộng lớn, đồng thời thông qua đó tọa dựng tầm vóc và tư thế hiên ngang của con người trong trời đất, bộc lộ khí phách của một người anh hùng, sừng sững giữa đất trời. Trong đó hai từ "làm trai" nhắc nhở độc giả về quan niệm chí nam nhi trong nền giáo dục truyền thống mà cụ thể ấy là Nho học, người ta luôn quan niệm rằng làm trai thì phải trả món nợ công danh, phải làm nên sự nghiệp, đáp đền cho Tổ quốc, đồng thời lừng lẫy với núi sông, xứng đáng là bậc nam tử hán đại trượng phu chí lớn rộng khắp đất trời. Có thể thấy quan niệm truyền thống về chí làm trai đã từng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca xưa ví như Nguyễn Công Trứ có "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông/ Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể", hay Phan Bội Châu với "Làm trai phải lạ ở trên đời" tức là không cam chịu cuộc sống tầm thường, mà luôn hướng tới những lý tưởng vĩ đại phi thường, tiêu biểu như sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hoặc xa hơn nữa còn có Phạm Ngũ Lão với "Nam nhi vị liễu công danh trái/Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu", ý bảo nam nhi mà chưa trả được nợ công danh thì ắt phải xấu hổ khi nghe chuyện nhà Gia Cát. Tương tự vậy trong Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh ông viết "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non", tức là thể hiện lòng kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, khát vọng hành động mãnh liệt, sẵn sàng làm nên những việc lừng lẫy rung chuyển núi sông. Đặc biệt nhân vật trữ tình với tư thế "đứng giữa" đất Côn Lôn, đối diện với núi non sừng sững, lại càng làm nổi bật lên vẻ đẹp oai hùng, hiên ngang của trang nam tử với ý chí cao ngút trời xanh. Khẳng định tầm vóc của con người khi đứng trước thiên nhiên, trời đất không hề bị lu mờ mà càng trở nên, rõ ràng, sắc nét, mang vẻ đẹp hùng tráng, mà vẻ đẹp ấy vốn toát ra từ chính ý chí nam nhi, từ những khát vọng to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại. Ở ba câu thơ tiếp, dù miêu tả công việc lao động khổ sai, cực nhọc khi tay cầm búa, dùng sức người đập đá, với khối lượng công việc lớn, thế nhưng giọng điệu thơ của Phan Châu Trinh ở đây lại hết sức mạnh mẽ, hùng hồn như đang bước vào một trận chiến mãnh liệt. Các từ ngữ mang sắc thái mạnh như "lừng lẫy", "đánh tan", "đập bể", thể hiện được sức mạnh, tầm vóc của con người trong những công việc lao động vất vả, nhưng không hề vì thế mà nao núng, chán chường. Trái lại từ một công việc lao động khổ sai vất vả, Phan Châu Trinh đã biến nó thành một công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy thách thức, mà con người trong đó luôn tràn trề sức sống, sinh lực, sẵn sàng chinh phục mọi đỉnh cao. Bộc lộ khẩu khí ngang tàn, ngạo nghễ của một con người tuy chịu cảnh tù đày thế nhưng vẫn hiên ngang mạnh mẽ, tinh thần lạc quan, tầm vóc sáng ngang sơn hà. Tạo dựng được một tượng đài về người anh hùng vượt lên trong nghịch cảnh, chiến thắng số phận, với khí phách hiên ngang lẫm liệt, sừng sững giữa đất trời, cũng như trong chính lòng giặc thù.

 

Nếu như 4 câu thơ đầu tập trung thể hiện khí phách, tầm vóc của người anh hùng giữa đất trời, thì ở bốn câu thơ cuối vẻ đẹp tâm hồn của Phan Châu Trinh lại càng được bộc lộ một cách rõ ràng, bổ sung cho phong thái ngạo nghễ, hiên ngang của người anh hùng trước những hoàn cảnh khó khăn, ngục tù, luôn giữ vững niềm tin và ý chí sắt son vào con đường mình đã chọn không đổi dời.

"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!"

Để nhấn mạnh cho vẻ đẹp tâm hồn kiên định, ý chí mạnh mẽ, cũng như chí lớn nam nhi của mình tác giả đã tinh tế dùng thế tương quan đối nghịch giữa các sự thể trong hai câu thơ 5 và 6 "Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/Mưa nắng càng bền dạ sắt son". Trong đó "tháng ngày" và "mưa nắng" là chỉ những khó khăn vất vả với cuộc sống tù đày dài đằng đẵng ngày này qua tháng khác không biết hồi kết, còn mưa nắng là để chỉ những nỗi khó nhọc, gian lao trong quá trình lao động khổ sai mà người tù phải gánh chịu. Tuy nhiên đối lập với những khó khăn này, thì "tháng ngày" chỉ càng làm cho thân thể, ý chí người chiến sĩ thêm bền bỉ, dẻo dai, với một tấm "thân sành sỏi", còn "mưa nắng" cũng chỉ khiến cho tấm lòng, tâm hồn tác giả thêm vững chãi, một lòng kiên trung với lý tưởng cách mạng, cứu nước, "càng bền dạ sắt son". Có thể nói rằng chính những khó khăn vất vả trong cảnh tù đày càng khiến người chiến sĩ cách mạng thêm quyết tâm và tin tưởng vào sự nghiệp, lý tưởng mà mình đang theo đuổi, càng trở nên mạnh mẽ và hiên ngang giữa trời đất, chứ không thể làm suy sụp hay chán chường trước nghịch cảnh.

 

Đến câu thơ thứ 7 "Những kẻ vá trời khi lỡ bước", khiến ta dễ dàng liên tưởng đến truyền thuyết bà Nữ Oa đội đá vá trời cứu muôn vạn sinh linh, đó là một sự kiện phi thường mà không phải ai cũng có thể làm được. Thì ở đây bản thân Phan Châu Trinh cũng ví công cuộc tìm đường cứu nước, làm cách mạng của mình chính là một công việc "vá trời" khác, bởi lẽ trong thế kỷ XX ấy dường như người ta chẳng thể tin vào việc một con người nhỏ bé có thể lãnh đạo một dân tộc nhỏ bé chống lại bọn đế quốc hung tàn mạnh mẽ được. Điều này càng thể hiện được cái chí lớn và khí phách anh hùng của Phan Châu Trinh trước một thời đại đầy biến động, chính vì thế với công việc mà vốn không ai tưởng tượng nổi ông cũng đã mạnh dạn mưu đồ thì chừ có há chi mấy "việc con con" như cảnh lao tù khổ sai khi lỡ bước. Thể hiện ý chí quyết tâm mạnh mẽ, niềm tin hướng về một ngày tự do không xa của tác giả, đồng thời là sự coi thường những phương cách bỉ ổi của bè lũ thực dân đối với những chí sĩ yêu nước như tác giả.

Đập đá ở Côn Lôn là một bài thơ hay, thể hiện rất rõ vẻ đẹp, tư thế hiên ngang sánh ngang với trời đất của người làm trai trước một thời đại nhiều biến động dữ dội của đất nước. Đồng thời cũng bộc lộ rất rõ những vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả ấy là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước, lý tưởng một lòng làm cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách ngục tù của thực dân, đế quốc đồng thời còn thể hiện ý chí sắt đá, mạnh mẽ, vượt qua được tất cả mọi gian lao vất vả mà vẫn giữ được tấm lòng son sắt với Tổ quốc.

19 tháng 12 2020

Tham khảo:

Câu 1:

Nam Cao được biết đến trong lịch sử văn học VN là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ổng để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị trên cả hai đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo. Nhưng tên tuổi của ông vẫn gắn liền với tác phẩm Chí Phèo- Một kiệt tác của NC, một tác phẩm mang đậm giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời cũng phê phán cái xã hội thối nát bấy giờ.

Xây dựng nên hình tượng người nông dân bị tha hóa trong xã hội thực dân trước Cách mạng tháng Tám là một sáng tạo mới trong nền văn xuôi nước nhà nói chung và của Nam Cao nói riêng. Nhà văn đã cảm nhận được cái vẻ đẹp chất phác, bình dị ẩn chứa trong cái vẻ bề ngoài thô ráp, xù xì của họ, mà tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo- một điển hình nghệ thuật về người nông dân bị xô đẩy chà đạp đến mức tha hóa. Chí không may mắn khi được sinh ra trong một gia đình không đàng hoàng, không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Có một hoàn cảnh sống tội nghiệp, nhưng Chí lớn lên khá khỏe mạnh, hiền lành, lương thiện,... Có một ước mơ giản dị như bao người nông dân khác: một gia đình nhỏ, chồng cày cấy, vợ dệt vải... Vốn từng mang trong mình bản chất của một con người đúng nghĩa, Chí phân biệt được đúng sai, tốt xấu qua hành động bóp chân cho bà Ba- "Hắn cảm thấy nhục hơn là thích". Sống ở một cái xã hội bình thường, người như Chí hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện yên ổn. Nhưng cuộc đời nào có hai chữ

"bình lặng"...Bằng ngòi bút lạnh lùng nhưng đa cảm, Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo . Nỗi thống khỏ đó không phải là không cha không mẹ, không nhà không của, không họ hàng thân thích... mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát của cả bộ mặt người, cướp đi lình hồn người phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó là nỗi thống khỏ của cá thể sinh ra là hình hài của một con người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi. Tình trạng bi thảm này được tác giả mình chứng cho đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách "hấp dẫn", vừa hé cho thấy một số phẩn bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm thía"nông nỗi" khốn khổ của thân phận mình. Anh chửi trời, chửi đời rồi chuyển sang chửi tất cả làng Vũ Đại, cuối cùng ảnh chửi cái thằng cha con mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không ai chửi lại vì rất đơn giản là không ai coi anh như là một con người. Nam Cao có vài cái nhìn đầy chìu sâu nhân đạo khi đi vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con người khốn khổ. Chí Phèo đến với Thị Nở trong một đêm say rượu. Như điều kì diệu là TN không phải chỉ khơi dậy bản năng ở gã đàn ông say, mà lòng yêu thương mộc mạc, chân thành, sự chăm sóc giản dị của người đàn bà xấu xí, vô duyên và ngớ ngẩn ấy đã làm thức tỉnh Chí Phèo. Trong tâm hồn tưởng chừng như đã chai sạn, thậm chí bị hủy hoại của Chí Phèo, phần lương thiện ngày thường bị lấp đi vẫn le lói một ánh sáng lương tri, sẽ bừng sáng lên lúc gặp cơ hội. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, anh bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng đập mái chèo đuổi cá , tiếng cười nói của những người đi chợ, thì niềm ao ước một gia đình nhỏ lại trỗi dậy trong lòng anh sau những tháng ngày dài chìm trong cơn say khướt. Nam Cao đã phát hiện ra ngọn đóm đỏ đăng hắt hiu le lói, việc cuối cùng là cho nó chút mồi để nó bùng lên. Nhưng còn đường đời của Chí lại bị chắn đứng lại. Bà cô của TN - Nhân vật đại diện cho suy nghĩ của dân làng Vũ Đại đã nhất quyết không cho cháu mình đi lấy một "thằng chỉ có nghề là rạch mặt ăn vạ". Cánh cửa quay về lương thiện đã đóng xập trước mặt Chí. Đau khổ CP phải cất lên tiếng thét "Tao muốn làm người lương thiện...", "Ai cho tao lương thiện?.." Chí đã nhận thức được bản chất con người của mình thì không còn nguyên cớ nào lại có thể biến anh sống trở lại kiếp quỷ dữ, không thể tiếp tục rạch mặt ăn vạ, giết người đốt nhà. Chí đã đâm chết bá kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Đó là một kết cục bi thảm nhất, đồng thời cũng là chiếc chìa khóa giải thoát CP khỏi kiếp đời trớ trêu, cái kiếp số muốn sống như một con người nhưng không thể được. Chính cái xã hội thối nát thời bấy giờ đã tạo ra những sản phẩm như Chí Phèo-hình ảnh tiêu biểu của người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tôi lỗi dần dần bị tha hóa về thể xác lẫn tâm hồn. Mà đại diện cho giai cấp thống trị chính là Bá Kiến-một tên cường hào cáo già trong nghề thống trị dân đen, được khắc họa qua những chi tiết ngoại hình độc đáo, từ "giọng nói rất sang", lối nói ngọt ngào đến cái cười Tào Tháo...Vì sự hờn ghen vớ vẩn của hắn đã đẩy Chí vào con đường tù tội. Chốn lao ngục ấy của bọn thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào thâm độc để giết chết phần người trong Chí Phèo, biến Chí thành Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Sự tha hóa ấy không chỉ có Bá Kiến, nhà tù thực dân gây ra, mà còn những người dân sống ở làng Vũ Đại mà tiêu biếu nhất là bà cô của TN- Con người đã tạo ra bức tường vô hình ngắn cách Chí đến với cuộc sống đích thực của một người lương thiện. Kết thúc câu truyện là một tình tiết đầy ngụ ý, biết đâu lại chẳng có một "CP con" bước ra từ cái lò gạch cũ vào đời để "nối nghiệp bố". Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh của tác phẩm là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn nước ta thời đó.

Tác phẩm Chí Phèo mạng đậm giá trị nhân đạo đặc sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương của NC đối với những người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện.

Câu 2:

Nguyễn Tuân - một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu, tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ…”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn không những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.

Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình. Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Câu 3:

Thạch Lam là một nhà văn có lối viết nhẹ nhàng và sâu lắng, tác phẩm của ông mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc đa dạng bằng sự bình dị và tinh tế vốn có. Một trong những tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam phải kể đến truyện ngắn Hai đứa trẻ, truyện kể về những kiếp người nghèo khổ trong cuộc sống tàn lụi nơi phố huyện, song lấp lánh trong đó còn có cả sự yêu thương, những ánh sáng hy vọng dù nhỏ bé trong cuộc đời mỗi người nơi đây. Bên cạnh những chi tiết tiêu biểu như ngọn đèn dầu của chị Tí, cảnh chợ tàn,…còn có một hình ảnh khác khiến ta không khỏi nghĩ suy- đó là hình ảnh chuyến tàu đêm qua huyện nghèo.

Khi chợ đã vãn nơi phố huyện cũng là lúc cái nghèo, cái đói hiện lên rõ rệt nhất. Những rác rưởi bị vứt bỏ đầy đường, tiếng ồn ào huyên náo chẳng còn, mùi ẩm bốc lên,…Màn đêm dần buông xuống, đâu đó có những ánh đèn le lói nơi nhà bác Xẩm, chị Tí,…nhưng những ánh sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể nào có thể xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lên phố huyện. Đêm về, cuộc sống thường ngày vẫn diễn ra như vậy, chị em Liên dọn quầy tạp hoá nhỏ ra bán, chị Tí dọn hàng nước bán cho mấy anh lính lê hay phụ gạo, phụ xe, bà cụ Thi tới mua rượu, hàng phở bác Siêu cũng dần đến trong tiếng kẽo kẹt của gánh đòn,….Hoạt động còn người vẫn diễn ra đấy thôi nhưng sao thật nhạt nhẽo, buồn thương. Tất cả đều quen thuộc, đều không có gì là thú vị với chị em Liên, duy chỉ có một điều khiến hai chị em chờ đợi đó là chuyến tàu từ trên phố Hà Nội đi ngang qua, một hoạt động diễn ra cuối ngày nơi phố huyện.

Liên và An muốn đợi tàu với hai lý do. Thứ nhất là theo lời mẹ dặn, cố thức đến khi tàu xuống để đón khách, họ tranh thủ khi tàu dừng ghé lại mua dăm ba gói thuốc, vài ba bao diêm nơi hàng nhà. Thứ hai, cũng là lý do chính mà Liên và An đều muốn thức đến lúc ấy là bởi họ muốn được nhìn chuyến tàu đêm đó.

Khi trống cầm canh phố huyện đánh lên vài tiếng động vang xa, vài ba người cầm đèn lồng có các bóng dài đi qua cũng là lúc báo hiệu tàu dần đến. Liên nghe tiếng bác phở Siêu cất lên trong niềm vui nhỏ bé:

” Đèn ghi đã ra kia rồi.”. Cố ngẩng về phía tàu, Liên thấy thứ ánh sáng xa xa quên thuộc: “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi”. Và lắng nghe tiếng âm thanh phát ra từ chiếc tàu dài khổng lồ kia” còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi”. Rồi trong tiếng nhẹ nhàng, Liên hối thúc em dậy để kịp nhìn tàu đến, trong khoảnh khắc ấy, cả hai đều ánh lên niềm vui khôn tả, cố căng mắt để cảm nhận hết tất thảy những ánh sáng, yêu thương và sự thú vị mà đoàn tàu mang đến. “Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Dù hôm nào tàu cũng qua phố huyện nhưng lần nào đến tàu cũng mang lại cho hai chị em Liên cả sự tò mò và thích thú. Chuyến tàu qua được miêu tả vô cùng cụ thể, từ ánh sáng, đến hoạt động của những người trên các toa, từ âm thanh xa xa đến tiếng ồn vội vã khi tàu đến. Khi tàu đêm qua đi, chỉ còn những đốm than đỏ bay trên đường sắt và màu bóng tối lại bao trùm cũng là lúc mà trong lòng cả An và Liên đều trống rỗng, nuối tiếc.

Chuyến tàu đêm đến trong sự đợi chờ, mong mỏi và rời đi trong nỗi hụt hẫng, tiếc nuối. Chuyến tàu đêm khiến Liên nhớ về những ngày quá khứ đẹp đẽ nơi Hà Nội, khi gia đình Liên còn được sống trong những ngày vui vẻ, an yên. Chuyến tàu cũng mang đến màu sắc của tương lai, của một thế giới khác, đó là một thứ ánh sáng mới, ánh sáng của hy vọng, của niềm tin, của một thế giới khác đầy vui vẻ, an yên. Nó khác xa với thế giới của những ngọn đèn tàn, của sự tĩnh mịch, tù túng nơi đây.

Chuyến tàu đêm đi qua, ta càng thấy thương cảm cho những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện, họ bị cái đói, cái khổ vùi dập trong bóng tối. Nhưng trong bóng tối, trong màn đêm của sự tù túng, nhạt nhoà họ vẫn khát khao hạnh phúc, khát khao một cuộc sống tốt đẹp hơn

cho chính cuộc đời mình và mọi người. Ánh sáng của đoàn tàu chở cả những mơ ước nhỏ bé của chị em Liên, của những người dân nơi phố huyện, họ mơ ước một cuộc sống mới, huyên náo và vui vẻ, hạnh phúc và bình yên, họ luôn khát khao vươn mình trước bóng tối với sự mong mỏi về một tương lai sẽ mới mẻ hơn.

Chỉ với một chi tiết nhỏ thôi nhưng quả cái nhìn đầy nhân văn của Thạch Lam đã làm cho giá trị của tác phẩm thêm phần sâu sắc.

   
13 tháng 8 2023

Dàn ý:

Mở đoạn:

- Giới thiệu văn bản "Tức nước vỡ bờ" và truyện ngắn "Lão Hạc".

Thân đoạn:

- Nêu nội dung chính của hai văn bản:

+ "Tức nước vỡ bờ" lên án chính sách và bộ mặt bọn thực dân phong kiến tàn bạo, đồng thời thể hiện thật cảm động cuộc sống cùng quẫn và khẳng định bản chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.

+ "Lão Hạc" nói về số phận nghèo khổ, khốn khó của người cố nông nghèo không bị tha hóa dù cuộc sống có đẩy bản thân đến bước đường cùng như thế nào.

- Làm rõ cuộc đời của chị Dậu qua "Tức nước vỡ bờ":

+ nghèo khổ khốn khó, sống trong cảnh bị đàn áp và xã hội không có sự công bằng.

+ người phụ nữ nông dân quanh năm làm lụng vất vả nhưng không đủ ăn vì bị bọn cường hào vơ vét hết.

- Làm rõ tính cách của chị Dậu qua "Tức nước vỡ bờ":

+ là một người phụ nữ thương chồng thương con qua chi tiết chị đứt ruột bán cái Tí để lo nộp thuế cho người em chồng đã mất trước đây 3 năm.

+ là một người phụ nữ vô cùng lễ phép, đầy đủ đức hạnh qua chi tiết Chị nói chuyện với bà lão hàng xóm.

+ là người không chịu khuất phục trước sự đàn áp, có sức mạnh tiềm tàng đứng lên đấu tranh thể hiện chân lý "Có áp bức ắt có đấu tranh".

- Làm rõ cuộc đời của Lão Hạc qua truyện ngắn "Lão Hạc":

+ là một người cố nông nghèo mất vợ sớm, không đủ tiền cho con trai cưới vợ.

+ túng quẫn, tài sản chỉ vỏn vẹn mấy thước đất.

- Làm rõ tính cách của Lão Hạc qua truyện ngắn "Lão Hạc":

+ là một người cha vô cùng yêu thương con qua chi tiết không muốn sống vì sợ là gánh nặng cho con.

+ là người vô cùng yêu thương động vật qua chi tiết Lão rất cưng cậu Vàng.

=> Từ hai nhân vạt trên, ta thấy được cuộc đời của nông dân trong xã hội cũ vô cùng túng quẫn, nghèo khó, khốn khổ rất đáng thương.

=> Mặc dù họ có phẩm chất vô cùng đẹp đẽ, nhưng những người nông dân vẫn không có cuộc sống tốt đẹp.

Kết đoạn:

- Tổng kết lại vấn đề

Ví dụ: Dưới ngòi bút của các tác giả, phẩm chất và của người nông dân được hiện lên vô cùng thực tế, mang giá trị hiện thực rất cao. ngoài ra các tác phẩm còn có tính chiến đấu thắng đậm cảm hứng nhân đạo, nhân văn.