K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

23 tháng 6 2018

Có bao giờ ta tự hỏi điều gì làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn học trước dòng chảy miên viễn của thời gian? Phải chăng chính nhờ vào sự độc đáo của các hình thức nghệ thuật mà người nghệ sĩ đã sang tạo ra? Hay nhờ vào ý nghĩa tôn vinh con người mà tác phẩm đó đem đến? Có lẽ, sức sống ấy có được là vì một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng “ tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.

Một tác phẩm văn học chân chính luôn luôn chứa đựng trong nó những giá trị cơ bản như: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo….được biểu hiện thông qua sự phản ánh, phát hiện, khám phá cuộc sống và con người của nhà văn. Bằng cách này, hay cách khác, ngòi bút của những người nghệ sĩ chân chính luôn hướng về con người với những phát hiện rất riêng về vẻ đẹp nhân phẩm của họ. Và suy cho cùng, đó chính là sự “tôn vinh con người” một cách rất chân thực và trân trọng của nhà văn.

Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là cuộc đời, nghệ thuật còn là nghệ thuật nữa. Vì vậy một tác phẩm văn học chỉ thực sự hay, được bạn đọc đón nhận và có sức sống trong lòng bạn đọc khi nó biểu hiện giá trị nội dung thông qua “những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Hình thức ấy có được là nhờ vào biệt tài, cá tính sang tạo của người cầm bút. Và một tác phẩm văn học muốn được chú ý, trước hết cần có những giá trị nghệ thuật nổi bật. Bởi lẽ, văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, điều làm nên sự khác biệt của văn học so với các bộ môn khoa học khác chính là sự độc đáo của hình thức nghệ thuật. Sự độc đáo ấy gây chú ý đối với công chúng, để họ đón nhận tác phẩm ấy và từ đó mới khám phá ra những giá trị nội dung mà tác phẩm đó chứa đựng. Như vây, sức sống lâu bền mà một tác phẩm văn học có được chính là nhờ vào giá trị nội dung với ý nghĩa tôn vinh con người và giá trị nghệ thuật độc đáo mà nhà văn đã sáng tạo ra. Có thể thấy, hai phạm trù này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ không thể tách rời, nếu thiếu một trong hai phạm trù đó thì sẽ không có được tác phẩm văn học đích thực.

Có một nhà lí luận phê bình đã từng nói rằng: “Văn học là nhân học”. Đó là một nhận định cho thấy được vai trò của một tác phẩm văn học đối với con người. Văn học luôn hướng tới con người và giúp con người hướng tới vẻ đẹp của CHÂN – THIỆN – MĨ và ý nghĩa hướng thiện ấy được biểu hiện nhờ vào hình thức nghệ thuật độc đáo. Từ cổ chí kim, văn học thế giới đã cho thấy biết rõ điều đó. Những nhà văn lớn trên thế giới bao giờ cũng mang trong mình tình yêu thương nhân loại vô cùng, luôn nhìn thấy vẻ đẹp tâm hồn con người và cũng luôn có niềm tin vào khả năng vươn dậy của nhân phẩm con người. Khi đến với truyện ngắn “Số phận con người” của nhà văn Nga Sô-lô-khốp là khi ta đến với một áng văn phản ánh rất chân thực lịch sử oai hùng của nước Nga Xô Viết với những trang viết đậm chất hiện thực và tinh thần nhân đạo cao cả. Bằng tài năng và tâm huyết của mình Sô-lô-khốp đã khắc hoạ rất thành công hình tượng nhân vật Xô-cô-lốp thông qua nghệ thuật trần thuật độc đáo. Để từ đó tôn vinh, ca ngợi vẻ đẹp tính cách Nga, con người Nga. Đó là vẻ đẹp của con người cách mạng phải chịu bao đau thương, mất mát vì chiến tranh mà vẫn sống đầy nghị lực và nhân ái vô cùng. Con người đó không bị quật ngã bởi hoàn cảnh mà luôn biết đứng lên, sống một cuộc đời có ý nghĩa, có niềm tin vào tương lai.

Trở lại với nền văn học Việt Nam chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều tác phẩm mang ý nghĩa “tôn vinh con người thông qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Và “Vợ nhặt” của Kim lân chính là một tác phẩm như vậy.

Ai đã từng đến với “Vợ nhặt” chắc hẳn không thể quên được hình ảnh chết chóc tang thương trong một xóm ngụ cư nghèo khổ, không thể không bị ám ảnh trước hình ảnh một đám cưới nhỏ của Tràng lọt thỏm giữa một đám ma to của cả xóm ngụ cư. Nhưng cũng sẽ còn mãi trong tâm thức độc giả niềm xúc động trước tấm lòng của những con người bé mọn với nhau, trước khát vọng sống mãnh liệt của những số phận đang chấp chới giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Bởi Kim Lân viết về cái đói nhưng là để nói đến “tình người trong cái đói”. Và nhà văn đã chọn cho mình một tình huống truyện độc đáo để làm nổi bật lên chủ đề của thiên truyện. So sánh với các tác phẩm cùng thời, ta có thể thấy được nét riêng của “Vợ nhặt”. Nam cao viết “Một bữa no” để độc giả thấy được sự khốn cùng đói khổ của nhân dân ta thông qua đó tố cáo xã hội đã đưa đẩy con người đến sự cùng cực của nghèo đói, tủi hổ. Còn Kim Lân cũng viết về cái đói nhưng ông lại tập trung làm nổi bật “tình người trong cái đói”.

Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo từ nội dung đến nghệ thuật. Nhà văn đã chọn cho tác phẩm của mình một lối kết cấu rất mơí lạ: hiện tại –quá khứ - hiện tại – tương lai. Và một tình huống truyện éo le độc đáo. Tình huống ấy xuất hiện ngay từ nhan đề “Vợ nhặt”. Một nhan đề cho thấy được hiện thực tối tăm hoàn cảnh khốn khó đến mức số phận con người bị rẻ rúng như cây rơm ngọn cỏ. Bởi thế mới có sự kiện Tràng nhặt được vợ - nhặt vợ chứ không phải cưới vợ.

Chuyện Tràng có vợ là một bất ngờ lớn với hết thảy mọi người, với bà cụ Tứ, với chính bản thân Tràng và với mọi độc giả. Có ai ngờ một anh nông dân cục mịch, có phần dở hơi lại nghèo khổ như thế lại có vợ một cách dễ dàng đến vậy! Nhưng éo le thay, Tràng lại lấy vợ vào lúc người ta không thể sống qua ngày vì đói khát. Tràng lấy vợ mà không có lễ ăn hỏi, đón dâu. Tất cả những gì đọng lại trong lòng độc giả về đám cưới đó chỉ là hình ảnh đôi bạn trẻ đi bên nhau lặng lẽ trong một buổi hoàng hôn đầy không khí chết chóc. Éo le bởi chỉ trong hoàn cảnh đó Tràng mới có được vợ. Éo le bởi đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu mà được bắt nguồn từ bản năng sống, khát vọng được sống thôi thúc con người ta phải hướng tới nhau, bấu víu vào nhau. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó cũng cho ta thấy được tình thương của con người với con người, thấy được tình yêu cuộc sống của những số phận nhỏ nhoi. “Đám cưới” ấy đã làm thay đổi những người trong gia đình Tràng và thay đổi chính Tràng. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy Tràng đã cảm nhận được tình yêu gia đình, sự gắn bó với các thành viên, niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao. Vậy đấy, trong nhiều điều mang tên Hạnh Phúc, có những điều thật bình dị nhưng đó là sự bình dị ấm áp. Không những thế, khi Tràng cho thị theo về, chấp nhận thị làm vợ tức là lúc anh đã biết dang rộng vòng tay yêu thương để đón lấy những kiếp đời khốn khổ hơn mình. Đó chẳng phải là một cách tôn vinh con người sao?

Còn thị - một nhận vật cũng có vai trò rất quan trọng đối với thiên truyện, cũng được Kim Lân khắc hoạ bằng những hình thức nghệ thuật rất độc đáo. Thị xuất hiện trong tư thế đang “vân vê tà áo rách như tổ đỉa” với một “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt và hình dạng gầy xọp vì đói khát”. Tính cách, số phận con người ấy dần được hé lộ thông qua cái nhìn của Tràng, bà cụ Tứ, những sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Thị là một người phụ nữ vô danh, không tên tuổi, không quê hương bản quán, không gia đình…Hoàn cảnh éo le của cuộc sống đã đẩy thị đến bước đường cùng đói khát. Và vì tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản năng ham sống, thị cần tìm cho mình một chỗ dựa. Rồi thị đã bán rẻ cả chút sĩ diện của một con người để bấu víu vào Tràng, liều mình làm dâu nhà người chỉ với bốn bát bánh đúc rẻ mạt. Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người, với một người con gái thì nó càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thế nhưng, thật trớ trêu thay, đám cưới của thị được cử hành với hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa…Có lẽ đằng sau vẻ “chao chát, chỏng lỏn” kia là bao nỗi niềm xót xa tủi phận mà thị đã xót xa giấu kín. Rồi khi về nhà Tràng, thấy gia cảnh anh cũng nghèo khổ, túng quẫn, thị bỗng “nén một tiếng thở dài”. Trong căn nhà Tràng (hay nói đúng hơn, chỉ là một túp lều tranh) không khí bỗng trở nên trùng xuống. Giống như một chuyện đùa, nhưng họ đã thực sự bước vào một cuộc hôn nhân nghiêm túc. Bây giờ, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hẳn sẽ có niềm vui nhen nhóm nhưng không biết có sự nuối tiếc, ân hận nào chăng? Và thật bất ngờ sáng hôm sau, thị đã thay đổi hoàn toàn. Không còn vẻ “chao chát, chỏng lỏn” nữa thị trở về đúng nghĩa một người vợ hiền dâu thảo, thực hiện thiên chức của một người phụ nữ trong gia đình: thu vén việc nhà. Thị cũng chính là sợi dây gắn kết Tràng với bà cụ Tứ để tình cảm gia đình thêm gắn bó keo sơn. Là người nhóm lên trong hai mẹ con bà cụ Tứ niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn khi nhắc chuyện “phá kho thóc Nhật ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang”. Có thể nói thị chưa thể là hình tương tiêu biểu cho người phụ nữViệt Nam, nhưng trong con người thị có thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân đã bộc lộ rât rõ ngòi bút nhân đạo của mình khi khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp của tâm hồn con người, nâng niu, trân trọng nó,đặt niềm tin vào sự vươn dậy của ý thức nhân phẩm trong con người,Có lẽ,đó chính là một hình thức “tôn vinh con người” đơn giản,trung thực mà đáng trân trọng.

Nếu như tính cách,số phận của thị được bộc lộ thông qua tình huống truyện độc đáo và sự quan sát, đánh giá của Tràng, bà cụ Tứ; thì vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ lại hiện lên nhờ vào nghệ thuât miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân.Bà cụ Tứ xuất hiện khi đang trở về nhà với dáng đi lầm lũi âm thầm. Cái dáng đi như hằn in cả cuộc đời lam lũ tủi cực của một số phận bé mọn khi sống dưới đêm đen nô lệ. Người mẹ nghèo khổ ấy không thể đoán được có chuyện gì đang diễn ra trong nhà mà con trai hôm nay lại khác lạ thế. Rồi khi lật đật bước vào nhà, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cuối cùng bà cũng hiểu ra mọi chuyện. Khoảnh khắc ngắn ngủi ấy như kéo dài ra bởi những dông tố đang chất chứa trong lòng bà cụ, bởi sự đợichờ trong lo lắng, hồi hộp của đôi trẻ mới nên duyên mà chưa có sự đồng ý của người mẹ. Và khi “bà lão cúi đầu nín lặng” thì chính là lúc “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự”. Cái “cúi đầu” xót thương cho cả cuộc đời đầy những đắng cay mặn mòi nước mắt của chính bà, xót xa cho số phận con trai và thương xót cho cả người con gái đang ngồi trước mặt bà nữa. Bởi hơn ai hết, bà hiểu gia cảnh nhà mình khốn cùng, cả cuộc đời bà là những mất mát, đau khổ. Bà hiểu chỉ trong hoàn cảnh đói khát như thế, người ta mới đến với con mình và con mình mới có được vợ. Cuối cùng, bà lão cũng lên tiếng: “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. “Ừ”, một sự xác nhận chính thức về mối quan hệ của đôi trẻ. “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”, “U cũng mừng” chứ không phải “U mừng lắm” – một câu nói đủ thấy nỗi mặc cảm thân phận cũng như tấm lòng bao dung của người mẹ già ấy. Rồi bao nhiêu tình thương, sự lo lắng bà dồn cả vào câu nói: “ Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá!”…Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt cay đắng, mừng tủi, vui buồn lẫn lộn. Có lẽ, trước khi độc giả rỏ giấu những giọt nước mắt đồng cảm với người mẹ giàu đức hi sinh ấy thì nhà văn cũng đã bao lần khóc cùng nhân vật, mừng tủi với niềm vui và nỗi buồn của nhân vật. Phải sống rất sâu trong thế giới nội tâm nhân vật thì Kim Lân mới có thể miêu tả một cách thành công đến thế diễn biến tâm trạng phức tạp của bà cụ Tứ. Là linh hồn của thiên truyện, bà cụ Tứ chính là biểu tượng tinh thần vững chắc cho đôi trẻ mới bước vào một cuộc hôn nhân, bắt đầu cuộc sống gia đình trong đói khát. Bởi thế mà sáng hôm sau bà nói toàn chuyện tương lai tốt đẹp, “tính chuyện làm ăn” bằng cách nuôi gà và động viên đôi vợ chồng trẻ “ ai giàu ba họ ai khó ba đời hả con”. Và cũng thật cảm động trước hình ảnh người mẹ bưng nồi cháo cám đon đả: “ Chè khoán đấy…ngon đáo để”. Bà lão cười mà sao ta lại thấy có gì đó xót xa quá. Bởi có lẽ, khi càng cố tỏ ra vui vẻ, cố quên đi thực tại đắng cay thì nó càng hiện về một cách rõ rệt hơn cả. Nhưng người mẹ ấy đã cố gắng hết sức để làm cho không khí gia đình trở nên ấm cúng hơn. Ta tìm thấy trong con người cụ bao đức hạnh tốt đẹp của người mẹ Việt Nam nhân ái giàu đức hi sinh âm thầm. Bà cụ Tứ chính là một đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn phụ nữ Việt Nam đôn hậu, chân thành, đáng trân trọng biết bao.

Vối hệ thống nhân vật không nhiều một tình huống truyện éo le, cách kết cấu mới lạ, Kim Lân đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân phẩm con người. Bởi nhà văn đã cho ta thấy trong hoàn cảnh trớ trêu nhất, giữa một kiếp sống lay lắt mòn mỏi, con người vẫn không bị đánh gục bởi hoàn cảnh mà luôn khao khát vươn sống, hướng về nhau và hướng về tương lai. Trong không gian xóm ngụ cư nghèo khổ, tối tăm, câu chuyện cảm động về những con người sống dưới đáy cùng của xã hội nhưng quý trọng và tôn trọng nhau đã được bắt đầu. Câu chuyện ấy diễn ra ngày càng rõ nét cụ thể, sinh động trong căn nhà liêu xiêu của mẹ con Tràng. Không gian đã góp phần làm nổi lên hoàn cảnh để câu chuyện diễn ra một cách tự nhiên, chân thực. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chọn thời gian bắt đầu câu chuyện là một chiều hoàng hôn, tiếp diễn trong đêm đen dày đặc và kết thúc vào một buổi bình minh rực rỡ. Phải chăng dụng ý của Kim Lân là muốn thể hiện niềm tin vào tương lai, những con người sống có hi vọng sẽ vượt qua nghịch cảnh để có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra, còn một chi tiết nghệ thuật nữa cũng đã góp phần thể hiện sâu sắc ngòi bút nhân đạo của nhà văn: lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong mắt Tràng. Chi tiết nghệ thuật ấy, phải chăng, đã chỉ ra con đường giải phóng những cuộc đời bé mọn đang bị nhấn chìm trong đêm đen nô lệ? Chí Phèo muốn hoàn lương phải trả giá bằng mạng sống của mình. Chị Dậu bỏ chạy trong một “đêm đen tối như chính tiền đồ của chị” mà không thể tìm thấy lối thoát cho kiếp nô lệ bị chà đạp, đè nén đến tận cùng nỗi đau. Còn Tràng, anh được chỉ cho một lối đi là đấu tranh cách mạng để làm chủ cuộc đời mình. Kim Lân đã đi xa hơn những nhà văn trước đó trong điểm này. Chi tiết nghệ thuật ấy chính là một tín hiệu cho thấy sự phát triển của nền văn học sau Cách mạng tháng Tám 1945 so với trước đó.

Thời gian trôi đi và phủ một lớp bụi quên lãng lên vạn vật. Thế nhưng, đã gần nửa thế kỉ qua, “Vợ nhặt” và tên tuổi của “ nhà văn thuần hậu nguyên thuỷ đi về với nông thôn Việt Nam” – Kim Lân vẫn sống cùng tháng năm. Và có lẽ, mãi mai sau, người ta vẫn nhắc tên Kim Lân với “ đứa con tinh thần” của ông một cách trân trọng. Bởi nhà văn đã biết thông qua tác phẩm văn học để “tôn vinh con người bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Ấy là phẩm chất sáng tạo nghệ thuật mà bất kì người nghệ sĩ nào cũng cần có.

 
18 tháng 7 2018

Đáp án C

Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT); kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng. Trong đó, kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến côngđạt tới đỉnh cao, đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết sức chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc Tổng tiến công chiến lược. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng những trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự của địch; tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch, tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công

20 tháng 10 2018

Đáp án C

Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT); kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng. Trong đó, kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến côngđạt tới đỉnh cao, đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết sức chặt chẽ, hiệu quả trong suốt cuộc Tổng tiến công chiến lược. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng những trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự của địch; tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Sự nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch, tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công

25 tháng 2 2022

Em đồng ý với ý kiến trên vì bài thơ đã nói lên tình bạn chân thành, thắm thiết , không pha lẫn vật chất mà trần đầy niềm vui dân dã của tác giả đối với bạn .

25 tháng 2 2022

Thanks ạ

 

 

18 tháng 5 2019

Chiếc cầu: hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự nối kết khoảng cách tình cảm giữa con người với con người.

   + Chiếc cầu- dải yếm là hình tượng độc đáo, kì lạ trong ca dao, thể hiện khát vọng tình cảm mặn nồng của nam nữ

   + Chiếc cầu phản ánh ước mơ chính đáng của các cặp đôi yêu nhau, đó cũng là ý tưởng táo bạo của cô gái.

Những bài ca dao xuất hiện hình ảnh chiếc cầu cũng với ý nghĩa tương tự:

   Ước gì sông rộng một gang

Để em ngắt ngọn mồng tới bắc cầu

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
7 tháng 12 2023

- Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận đã góp phần diễn tả tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận người con gái: 

+ Biện pháp đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ thể hiện sự ngang ngạnh, bướng bỉnh của nhà thơ.

+ Hình ảnh: rêu (mềm yếu), đá (thấp bé) không cam chịu số phận, bằng mọi cách cố vươn lên những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình

→ Tạo nên những hình ảnh miêu tả sinh động, căng đầy sức sống trong những tình huống bi thảm nhất để thể hiện rõ nhất tâm trạng của nhà thơ: gắng gượng vươn lên

Tôn giáo là gì ? đất tôn giáo là gì ? Quản lý nhà nước về tôn giáoTôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những lực lượng siêu tự nhiên, về hình thức biểu hiện, tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Cùng https://vanhoa247.net/ tìm hiểu về tôn giáo...
Đọc tiếp
Tôn giáo là gì ? đất tôn giáo là gì ? Quản lý nhà nước về tôn giáo

Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những lực lượng siêu tự nhiên, về hình thức biểu hiện, tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Cùng https://vanhoa247.net/ tìm hiểu về tôn giáo là gì nhé!

Đất tôn giáo là đất được Nhà nước giao cho các cơ sở tôn giáo sử dụng dùng vào việc thờ cúng, lễ bái của các nhà thờ, nhà chùa, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở tôn giáo khác được Nhà nước cho phép hoạt động trên cơ sở đất do Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước và quỹ đất của địa phương, quyết định diện tích đất giao cho các cơ sở tôn giáo.

 

1. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

Trong Từ điển tiếng Việt, tôn giáo được định nghĩa như sau:

1. Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ;

2. Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.

Tín ngưỡng đựợc định nghĩa là “tin theo một tôn giáo nào đó”.

Xem thêm bài viết về Tôn giáo là gì: https://vanhoa247.net/ton-giao-la-gi-gia-tri-con-nguoi-den-su-thien-luong/

Về bản chất, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những lực lượng siêu nhiên, về hình thức biểu hiện, tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.

Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Vì vậy, nhiều người trong các thành phần xã hội khác nhau tin theo.

- Tính chất chính trị: Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo thuần tuý, không gắn với chính trị.

- Tính chất duy tâm: Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại bằng các lực lượng siêu nhiên vào đầu óc con người, giải thích một cách duy tâm, thần bí những hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra trong đời sống. Vì vây, tôn giáo mang tính chất duy tâm, nhiều tín điều không được giải thích trên cơ sở khoa học. Trong lịch sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn áp các nhà khoa học, phủ nhận thành tựu khoa học. Ngày nay, một mặt, một số tổ chức và chức sắc tôn giáo triệt để tận dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo; mặt khác, họ tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, gieo rắc trong các tín đồ những định mệnh không thể cưỡng lại... Tính chất duy tâm của tôn giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội trong chừng mực nhất định.

Ví dụ: Trong đạo Hồi, khó thấy ranh giới giữa đạo và đời, giữa cái thiêng và cái tục. Tin tưởng tuyệt đối, tôn sùng thánh Allah và sứ giả Muhammad là hai tín điều quan trọng vào bậc nhất của giáo lí đạo Hồi.

- Đạo Phật: Tôn giáo ra đời ở Ấn Độ thế kỉ VI trước công nguyên do Thích ca mâu ni sáng lập. Phật giáo có hệ thống triết học rất phát triển gồm cả thế giới quan và nhân sinh quan, trong đó đề cao vai trò của con người, thiên về một triết lí sống, một phương pháp rèn luyện nhân cách hướng thiện. Phật giáo không có tổ chức chặt chẽ, không có giáo quyền, không thống nhất về cách tu hành. Đạo Phật có hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa, mỗi phái lại chia làm nhiều tông. Người theo đạo Phật gồm hai loại là người xuất gia tu hành và người tu tại gia.

Việt Nam là nước đa tôn giáo, phần lớn dân cư chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao đài và Phật giáo Hoà hảo; các tôn giáo này có hơn 15 triệu tín đồ. Các tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện khác nhau và số lượng tín đồ khác nhau. Công giáo (với hơn 5 triệu tín đồ), Tin lành (với hơn 4 trăm nghìn tín đồ), Phật giáo (với hơn 7 triệu tín đồ), Hồi giáo (với hơn 90 nghìn tín đồ) được du nhập từ bên ngoài vào trong từng thời kì lịch sử và với những phương thức khác nhau. Trong khi đó, Cao đài (với hơn 1 triệu tín đồ) và Phật giáo Hoà hảo (với hơn 1 triệu tín đồ) là những tôn giáo mới xuất hiện ở Việt Nam. Các tôn giáo đều thiết lập những mối quan hệ quốc tế nhất định và chứng tác động qua lại lẫn nhau chủ yếu thông qua những mối quan hê đó.

 

2. Các nguyên tắc Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

Đây là cơ sở pháp lí quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xây dựng hệ thống các nguyên tắc và xác định nội dung Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Việc xây dựng hệ thống các nguyên tắc Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm và đấu tranh. Quá trình ấy là sự phát triển từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ, từ chưa chuẩn xác đến chuẩn xác.

Các nguyên tắc Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là:

- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lí do tín ngưỡng, tôn giáo.

Mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, có quyền từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo.

Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lí, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.

Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.

Không ai được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản cùa người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.

 

3. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

Nội dung Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được thể hiện trên những hướng cơ bản sau đây:

 

3.1 Công nhận tổ chức tôn giáo

Thủ tướng Chính phủ xét công nhận đối với tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Sau khi được cấp đăng kí, tổ chức được phép tiến hành nghi lễ tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo tại địa điểm sinh hoạt tôn giáo đã đăng kí; tổ chức đại hội thông qua hiến chương, điều lệ và các nội dung có liên quan trước khi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; bầu cử, suy cử những người lãnh đạo tổ chức, mở lớp bồi dưỡng giáo lí; sửa chữa, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tôn giáo; hoạt động từ thiện nhân đạo.

Sau thời gian 3 năm kể từ ngày được cấp đăng kí hoạt động tôn giáo, tổ chức có hoạt động tôn giáo liên tục, không vi phạm các quy định pháp luật về Quản lý hoạt động tôn giáo được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhân tổ chức tôn giáo.

Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được sự chấp thuận của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; các trường hợp khác phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.

- Thực hiện và hướng dẫn các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật; làm đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo trong nước và quốc tế.

Bộ nội vụ thực hiện Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo thông qua Ban tôn giáo Chính phủ - cơ quan ưực thuộc Bộ nội vụ, có chức năng tham mưu giúp bộ trưởng Quản lý nhà nước.

0
Mọi ng cho mình hỏi câu đặc biệt và từ ghép ở trong đoạn văn này là gì ạBài viết “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Anh Minh đã đem đến cho người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc, tinh tế về loại hình nghệ thuật độc đáo - ca Huế. Mở đầu, tác giả khẳng định Huế nổi tiếng với các điệu hò. Sau đó giới thiệu những nét đặc sắc của ca Huế được thể hiện qua dàn nhạc cụ, qua ngón đàn tuyệt kĩ...
Đọc tiếp

Mọi ng cho mình hỏi câu đặc biệt và từ ghép ở trong đoạn văn này là gì ạ

Bài viết “Ca Huế trên sông Hương” của Hà Anh Minh đã đem đến cho người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc, tinh tế về loại hình nghệ thuật độc đáo - ca Huế. Mở đầu, tác giả khẳng định Huế nổi tiếng với các điệu hò. Sau đó giới thiệu những nét đặc sắc của ca Huế được thể hiện qua dàn nhạc cụ, qua ngón đàn tuyệt kĩ của các ca công và giọng hát ngọt ngào của ca nhi. Việc sử dụng những hình ảnh chân thực, những nét chấm phá giàu khả năng gợi tả đã góp phần làm nổi bật bức tranh sinh hoạt văn hóa đặc sắc của con người xứ Huế. Tiếp đến, nhà văn đã chỉ ra nguồn gốc của ca Huế là được hình thành từ sự kết hợp giữa ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. Chính vì vậy, nó vừa mang âm hưởng sôi nổi, lạc quan vừa có sự tôn nghiêm, trang trọng và uy nghi. Cuối cùng, Hà Anh Minh đã vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh thiên nhiên trên sông Hương đầy mơ mộng và huyền ảo. Những câu văn đã gợi ra cho người đọc cảm giác mình cũng giống như người trong cuộc, đang cùng tác giả lênh đênh trên con thuyền lững lờ trôi giữa dòng Hương Giang êm đềm, thả hồn theo những lời ca mênh mang hòa trong tiếng đàn réo rắt, du dương và tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng. Khung cảnh xứ Huế mộng mơ với những nét đặc sắc về ca Huế đã được Hà Ánh Minh khắc họa vô cùng chân thực trước mắt người đọc. Bài viết khiến cho mỗi người càng yêu thêm vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ.

0