K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nữ nhà giáo – liệt sĩ Lê Thị Thiên sinh năm 1945, tại ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Chị Thiên là con thứ 6 trong gia đình nông dân nghèo nhưng giàu truyền thống cách mạng, cha là ông Lê Văn Như và mẹ là bà Nguyễn Thị Hò, cả hai ông bà đều nhận được huân chương chiến công trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

61images647982_kyvat3

Sống trong cảnh loạn lạc của đất nước, tận mắt chứng kiến sự tàn ác của kẻ thù, cũng như bao thanh niên cùng trang lứa thời bấy giờ chị mang lòng căm thù giặc sâu sắc mong chờ có ngày được diệt giặc cứu nước.

Bà Nguyễn Thị Sáu, bạn thân của liệt sĩ Thiên nhớ rất rõ: Một lần liệt sĩ Thiên chứng kiến cảnh cha mẹ bị giặc đánh dã man vì nghi tiếp tế cho cách mạng, chị đã thề trả thù bọn cướp nước. “Thiên nói với tôi hoài, lớn lên Thiên sẽ cầm súng giết giặc, giải phóng quê hương.”

Năm 17 tuổi ở độ tuổi trăng tròn, chị nổi tiếng xinh đẹp thông minh trong vùng lại được bà con bạn bè yêu thương quí mến. Đáp lời kêu gọi của non sông đất nước,  chị xung phong vào bộ đội. Sau đó được cử đi học tiếp và điều động về một đơn vị ở miền Đông. Tại đây cuốn nhật ký “thế hệ Hồ Chí Minh” được ra đời.

Quyển nhật ký được viết từ 12/1962 đến 10/1966 trước lúc chị hy sinh, 4 năm hoạt động cách mạng của chị là 4 năm đầy khói lửa, gian khổ. Nhưng cũng tại đây đã trui rèn nên một nhân cách lớn, nhân cách của thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Chuyển lòng căm thù thành sức mạnh, chiến đấu học tập phấn đấu nỗ lực không ngừng. Cuốn nhật ký tràn ngập những suy nghĩ về lý tưởng sống của một thanh niên, một thế hệ trẻ đã sống, chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của quê hương đất nước.

Tại đầu nhật ký chị viết:

– Tháng 12-1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương.

– Tháng 2-1964: Trường xã không có người, M. được bố trí về đây.

– Tháng 5-1964: Được tin chuẩn bị đi dự lớp sư phạm ở R (họp ngày 30-5), rất phấn khởi về tư tưởng. Vì đi học sẽ có kiến thức, phục vụ cách mạng nhiều hơn.

Chị luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, cả trong học tập, công tác, chiến đấu mà không hề từ chối hay đắn đo dù bất kể đó là ở đâu. Luôn phấn khởi vững niềm tin và ý chí khát khao cống hiến cho cách mạng, quê hương đất nước.

– Ngày 4-6-1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. cố khắc sâu vào tư tưởng, cố gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con ngoan của ba má, đứa con ưu tú của Đảng.

– Ngày 22-6-1964: Rời gia đình lên đường học tập, M. có cảm nghĩ mới lạ. Khi học tập phải cố gắng với bổn phận của mình để xứng đáng là đứa con yêu của ba má, đứa em của các chị, đứa con của cách mạng, của Đảng.

– Ngày 26-7-1964: Được tin giặc càn bố xã nhà, M. cảm thấy buồn và lo lắng nhiều. Không biết bà con ở đây ra sao? Gia đình M. thế nào? Sốt ruột mong biết tin.

Dù rằng tham gia cách mạng, nhưng chị vẫn không quên bổn phận của người con trong gia đình, luôn hướng về gia đình và người thân như chỗ dựa tinh thần vững chắc, khắc sâu vào tâm khảm, cố gắng phấn đấu  học tập để xứng đáng là đứa con thân yêu của gia đình, người con ưu tú của Cách Mạng, của Đảng. Chị lo lắng cho gia đình, bà con trong xóm như thể bản thân mình đang đối mặt với những trận càn của giặc, bồn chồn, lo lắng, sốt ruột và buồn đó đều là những cảm xúc nêu bật lên con người giàu tình cảm ở chị.

– Ngày 13-9-1964: M. đã đỡ bệnh nhưng chưa được khỏe lắm, cần đấu tranh với bệnh hoạn để vươn lên. Học tập đem lại những kết quả, đó là điều không thể thiếu được ở bản thân. Cố gắng và cố gắng nhiều hơn nữa.

– Ngày 20-11-1964: Hôm nay là ngày lễ Nhà giáo yêu nước. M. được nghe kể lại nghề giáo. M. cần học tập nhiều hơn nữa. Trau dồi bản thân để trở thành một người giáo viên toàn diện, yêu nghề, yêu trẻ đúng mức.

Trong đoạn nhật ký chị viết Lời nói của Lênin “Học, học nữa, học mãi”, cuộc đời là pho sách không có trang cuối, phải thực hiện cho được. Học để hiểu tri thức khoa học, có văn hóa làm cơ sở, để nâng cao khả năng chất lượng công tác, học để xứng đáng là con người mới. Chị cảm thấy ân hận vì trong thời gian qua đã vì đôi khi tư tưởng thiếu tập trung. Do đó, trong học tập chưa đạt được yêu cầu như mong muốn. Chị tự trách bản thân mình như một cách răn đe “Thanh niên là lực lượng đóng góp cho sự nghiệp cách mạng nhiều nhất và cũng là thế hệ xây dựng xã hội mai sau. M. phải suy nghĩ và thực hiện cho được như vậy. Mọi ý nghĩ riêng tư, vì cá nhân phải gạt bỏ, để xứng đáng là người cộng sản”.

Biết nhìn nhận ưu điểm để từ đó rút ra những bài học nhằm rèn luyện bản thân, nâng cao tri thức, lý tưởng, văn hóa, đạo đức cách mạng. Biết nhìn nhân những thiếu sót, khuyết điểm của bản thân để thay đổi, khắc phục. Là một thanh niên cách mạng chị luôn nghĩ mình phải xứng đáng với những gì Đảng và đất nước tin yêu giao phó, sống vì tập thể, giúp đỡ đồng chí, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân như chị đã viết: “Thi hành tốt trách nhiệm, bồi dưỡng giúp đỡ đồng chí tiến bộ qua sự phân công của tổ Đoàn”, “Luôn nhớ đạo đức người cộng sản “Vì mọi người, vô tư mà học tập, công tác”, “Nhớ lại quá khứ, thời gian công tác giảng dạy, hiện rõ mồn một nhiều sai lầm, thiếu sót mà trước đây mình vấp phải. Bổ túc đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt là rất quan trọng mà M. chưa làm hết được. Nói  chung về mọi mặt, M. còn phải học tập nhiều hơn mới xứng đáng là một thanh niên cách mạng, thanh niên cộng sản”

Chị nhìn nhận bản thân mình vẫn chưa hoàn thiện, cần phải tham gia nhiều hơn về công tác xã hội, văn nghệ, thể thao. “Phải trở nên toàn diện, tiến bộ không ngừng, luôn hướng đến lý tưởng cộng sản, chân lý của cách mạng” đó cũng là ý nghĩ xuyên suốt trong suốt quá trình học tập công tác chiến đấu của chị. Luôn nghĩ đến tổ quốc, nghĩ nhiều hơn, tất cả vì tổ quốc thân yêu.

Chị luôn tìm cách rút ra những sai lầm, bài học của mình sau mỗi lần kiểm tra, trong thời gian học tập, chị luôn tự nhắc mình phải tập trung thật cao, phải đào sâu suy nghĩ, không được mang bệnh chủ quan, duy ý chí, chỉ tập trung vào một vấn đề to lón nào đó mà bỏ qua những việc nhỏ nhặt. “thành công thường đến từ những gì bình dị, nhỏ nhặt nhất”.

– Ngày 11-2-1965: 2 ngày qua, M. bị đau, không học hành được gì. Uống thuốc đã đỡ nhưng vẫn mệt nhiều. Cố đấu tranh tư tưởng để vượt qua cơn bệnh, học tập tích cực hơn. Vì không còn bao lâu nữa M. sẽ về địa phương công tác, va chạm vào thực tế. Trong thời gian ở đây, M. cần trui rèn tư tưởng chuẩn bị sẵn sàng để trở về tiếp nhận môi trường mới.

Đối với người con gái trẻ như chị, lại sống xa nhà trong điều kiện thiếu thốn dù bị ốm đau nhưng chị không nề hà mà vẫn một lòng lạc quan, cố gắng phấn đấu cho công tác sắp tới.

– Ngày 12-3-1965: Về tới gia đình và chuẩn bị đi công tác. Bước đầu với trách nhiệm nặng nề mà bản thân chưa từng làm.

Đã 3 năm kể từ ngày xa gia đình, đan xen giữa những cảm xúc vui mừng là  sự thấu hiểu về những trọng trách sắp tới. Tham gia vào các hoạt động của tổ chức tranh thủ trao dồi lý luận, tư tưởng chị luôn lạc quan, phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng thân yêu.

– Ngày 14-9-1965: Có người đến tìm hiểu và hỏi ý kiến muốn xây dựng cùng M., nhưng ý nghĩ, tư tưởng chưa nghĩ tới. Cho nên M. không thể nhận lời, không thể vừa lòng người được.

– Ngày 1-1-1966: Một năm chiến đấu lịch sử đã trôi qua. Tiễn năm 1965 ở thế kỷ 20, đến năm 1966 với nhiều nỗ lực trong công tác, với nhiều tình cảm ở lứa tuổi thanh niên. Kiên định lập trường giai cấp, chiến đấu anh hùng, đầy lòng tin sự tất thắng của cách mạng.

Hãy đón lấy những mới mẻ mà tiến lên, làm thế nào để đạt cái đỉnh cao nhất của cách mạng.

– Ngày 21-1-1966: Đến gặp anh C. để bàn công tác. Một tin làm M. xúc động vô cùng: người thân (10T) đã rơi vào tay giặc hôm 8-1 (ngày đầu địch càn vào bắc C2). M. buồn và suy nghĩ nhiều. Dù rằng đối với M. chưa có gì là kỷ niệm sâu sắc, nhưng trong lòng ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng ra, còn có tình yêu thương đồng chí, bước đầu của tình cảm riêng tư. Đó là tình đồng chí, là người bạn và coi như là người… lý tưởng của M.

Cũng như bao cô gái khác, chị cũng có những tâm tư tình cảm của riêng mình, cũng có những xúc động, nhưng trên hết vẫn là lý tưởng cách mạng tình yêu với đất nước quê hương. Với chị tình yêu thời cách mạng thật đẹp, đó là tình yêu của anh Trỗi – chị Quyên, dù chỉ bên nhau được vài ngày nhưng họ vẫn yêu thương, biến nỗi đau xa cách thành hành động cách mạng.

– Ngày 9, 10, 11-8-1966: Mấy ngày qua, M. cùng cô Bảy, chị Hải đi A.H – C.Lưu – về A. Mặc dù bị bệnh rất mệt nhưng vẫn quyết tâm đi.

Cũng qua lần đi này M. mới hiểu thêm tình đồng chí, tình bạn và có sự thương mến, gắn bó đậm đà hơn. Chị Hà ơi! M. đã thông cảm và hiểu chị nhiều hơn rồi đấy! Thương mến chị lắm mà!…

“Bước đường công tác dĩ nhiên sẽ có muôn vàn khó khăn. Hãy quyết tâm kiên trì, dũng cảm để vượt qua, để hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình”.

Ai đã từng đọc những dòng nhật ký của chị đều phải cảm phục chị, một người con gái nhỏ bé nhưng lại có một nhân cách lớn, nhân cách thế hệ Hồ Chí Minh. Dù trong gian khó, bom đạn nhưng chị vẫn quyết tâm hoàn thành tốt những gì tổ quốc, cách mạng, Đảng tin yêu giao phó. Chị là tấm gương sáng ngời cho thế hệ Hồ Chí Minh hôm nay noi theo học tập: không ngừng phấn đấu, cố gắng rèn luyện, biết nhận ra ưu điểm để phát huy, nhìn nhận khuyết điểm để thay đổi; sống vì tập thể, vì tổ chức, loại bỏ ý nghĩ chủ quan cá nhân vì mục tiêu cao cả tốt đẹp hơn.

Tôi xin trích lời nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nói “Tôi thực sự xúc động, tự hào và khâm phục khi đọc những dòng nhật ký này. Nhớ lại Nguyễn Văn Trỗi, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc… cũng lứa tuổi đôi mươi tràn đầy nhiệt huyết, họ đã sống, chiến đấu xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Tôi học tập nhiều ở những con người bình dị mà cao cả; tâm hồn của họ luôn trẻ trung trong sáng; lý tưởng cách mạng như ngọn đuốc rực cháy trong tim gan…”. “Tôi mong muốn và tin tưởng thế hệ trẻ hôm nay sẽ học tập và tiếp nối lý tưởng của thế hệ đi trước một cách xuất sắc…”.

Một chút cảm xúc:

Chị ra đi nhưng chị vẫn sống mãi

Nơi trái tim những người trẻ ở lại

Chúng tôi nợ chị một lời cảm ơn

Vì Tổ quốc quê hương đất nước

Chị quên đi tuổi trẻ của mình

 

Tôi nghe vang vọng  đâu đây

Hào kiệt anh hùng một thời chiến đấu

“Ngục tối trái tim càng cháy lửa

Xích xiềng không khóa nồi lời ca”

Không khóa nổi trái tim tuổi trẻ

 

Ôi, người con của Tiền Giang yêu dấu

Chúng tôi mãi khắc ghi tên M.

Nhật ký một thời mãi mãi còn lưu

Lý tưởng cách mạng đời đời soi sáng

Thanh niên hôm nay quyết noi gương chị

Viết thêm lời ca cho non sông Việt Nam.

26 tháng 12 2021

Tham khảo:

Sau bao năm bôn ba nước ngoài, Người được trở về với dân tộc Việt Nam. Bác chọn quê hương Cao Bằng, nơi rừng núi hoang vu để làm nơi sống và hoạt động cách mạng. Bài thơ đã khắc họa cuộc sống của người nơi đây với nhịp sống đều đặn (sáng ra – tối vào) và chan hòa với thiên nhiên: bờ suối, hang đá, bẹ, rau măng, bàn đá. Cuộc sống của Người nơi núi rừng khó khăn, thiếu thốn trăm bề, Bác chỉ ăn những thức sẵn từ núi rừng và ngủ trong hang đá lạnh tối. Nhưng Người không cảm nhận đó là sự thiếu thốn, gian truân, câu thơ với nhịp thơ nhịp nhàng gợi ra một tâm thế ung dung, Người hài lòng với cuộc sống hiện tại. Đằng sau cuộc sống mộc mạc, giản dị ấy là công việc lớn lao mà Bác đang theo đuổi, là phong trào cách mạng đang cần sự chỉ đạo sáng suốt của Người. Bên bờ suối Lê- nin nước chảy róc rách, cạnh đó là chiếc bàn đá và quyển sách, hình ảnh Bác Hồ hiện lên như một yếu tố quan trọng đưa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy từ tĩnh sang động. Và với người chiến sĩ cách mạng, cuộc đời ấy “thật là sang”, đó là cái sang về mặt tinh thần. Được hoạt động cách mạng, được phấn đấu cho lí tưởng độc lập cho dân tộc là con đường mà cả cuộc đời Người theo đuổi. Niềm vui lớn của Người không phải "thú lâm tuyền" đơn điệu mà trước hết là niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại sau 30 năm xa tổ quốc được trở về sống giữa lòng đất nước yêu dấu, trực tiếp lãnh đạo phong trào. Qua Tức cảnh Pác Bó, ta thấy được một nếp sống giản dị, thanh cao và phong thái ung dung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng của Bác.

26 tháng 12 2021

Bạn ơi viết một đoạn văn ngắn

1 tháng 2 2016

Thiên nhiên là đề tài mà hầu như nhà thơ nào cũng nói đến đặc biệt là Hồ Chí Minh. Bác chẳng bao giờ nhận mình là nhà thơ cả thế nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng Người lại dùng chính văn chương thơ ca của mình để phục vụ cách mạng. Thiên nhiên trong thơ Bác rất phong phú và đa dạn, không những thế nó còn thể hiện được những niềm tin, những quan điểm sống và tâm hồn thi sĩ của Hồ Chí Minh. Những thiên nhiên ấy được thể hiện rõ nhất trong tập thơ Nhật Kí Trong tù.

Thiên nhiên trong nhật kí trong tù là một thiên nhiên đẹp, hùng vĩ và thơ mộng:

“Núi ấp ôm mây mây ấp núi 
Lòng sông gương sáng bụi không mờ. ”

Thiên nhiên hiện lên với núi với mây, thiên nhiên ấy thật hữu tình biết mấy. Hình ảnh ấy cũng khiến cho ta thấy được những áng mây đang bao phủ như ôm lấy cái từng dãy núi trùng trùng điệp điệp kia. Dưới lại là một dòng sông hiền hòa mềm mại mang cái sáng như gương không chút bụi mờ. Cái sáng ấy nó giống như tâm hồn sáng ngời của Bác vậy. Dù mới ra tù và chân đi còn không vững, Bác vẫn đặt cho mình một niềm tin để vượt lên những đỉnh núi cao kia.

Hay là sự hùng vĩ của thiên nhiên cũng được thể hiện trong bài thơ Giai đi sớm:

“Gà gáy một lần đêm chửa tan, 
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn”

Chòm sao kia nâng ánh trăng cao lên như thể hiện được cái rộng lớn bao la của vũ trụ.

Không những thế thiên nhiên của ban ngày cũng đẹp chẳng khác nào ban đêm. Đó là khoảnh khắc thiên nhiên cảnh vật đang bắt đầu một sự sống. Trong cảnh áp giải đi trên con đường xa mịt mờ mà Bác vẫn bắt được cảnh tượng đẹp ấy. Đó là sự khai sinh, là khởi nguồn cho một sự sống, một ngày mới:

“Phương đông màu trắng chuyển sang hồng, 
Bóng tối đến tàn, quét sạch không”

Trên bầu trời đã in hình những sắc màu hồng nơi phía Đông. Đó là sự báo hiệu của mặt trời sắp nhô lên soi sáng mang đến sự sống cho tất cả vạn vật nơi trái đất hiền hòa này.

Không chỉ là những bình minh ánh hồng mặt trời sắp mọc mà thiên nhiên trong thơ Bác còn đẹp khi về đêm. Mà cảnh chiều tối hiện lên vô cùng trữ tình với cánh chim ngàn mây nổi ở miền sơn cước:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”

Đó là thiên nhiên của vùng sơn cước với sự cô đơn nhỏ bé lạc lõng thế nhưng không hề chết chóc mà luôn hướng về sự sống.

Đặc biệt thiên nhiên còn đẹp bởi ánh trăng, trăng như là một người bạn tri kỉ của bác vậy. Thơ Bác lúc nào cũng đầy trăng:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ 
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. ”

Hay

“Chẳng được tự do mà hưởng nguyệt 
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu. ”

Những ánh trăng ấy đã trở thành người bạn tri kỉ cả về thơ lẫn cuộc sống của nhà thơ. Trăng sáng soi Bác, tâm hồn Bác cũng như được an ủi rất nhiều.

Đó là những thiên nhiên mang đến niềm tin, lạc quan, yêu cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng. Thế nhưng thiên nhiên là tri kỉ thật đấy nhưng có đôi khi nó lại trở thành những khó khăn mà người chiến sĩ phải trải qua:

“Người đi cất bước trên đường thẳm 
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn. ”

Thiên nhiên còn là những hình ảnh thử thách đầy gian lao:

“Đi đường mới biết gian lao 
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. ”

Dù thế nhưng những núi non trập trùng cao ngất kia không thể nào cao bằng ý chí con người Bác được. Chính vì thế mà người vẫn đi được lên đỉnh núi mà để “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Con người vĩ đại ấy không bao giờ chịu lùi bước.

Như vậy qua đây ta thấy được thiên nhiên trong thơ Bác thật vô cùng phong phú. Từ những vẻ đẹp của dãy núi cao ngất trời đến những bình minh màu hồng nhạt rồi lại là những áng chiều trôi thơ mộng trữ tình. Mỗi nét thơ là mỗi một ý nghĩa tượng trưng cho ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng.

1 tháng 2 2016

Tập thơ Nhật kí trong tù được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trong nhà tù Trung Quốc vào .những năm 1942, 1943. Người viết tập thơ này dường như không có ý làm nghệ thuật, lưu danh hậu thế mà chỉ cốt để ngâm ngợi cho khuây khỏa những tháng ngày "mất tự do". Tuy vậy, Nhật kí trong tù đã trở thành một tác phẩm lớn có giá trị về nhiều mặt trong lịch sử văn học Việt Nam cận, hiện đại. Nó có sức hấp dẫn lâu bền với nhiều thế hệ bạn đọc ở cả trong nước lẫn ngoài nước.

Mấy chục năm qua, kể từ khi tập thơ được công bố, nhiều người đã viết về tập thơ này. Họ nhấn mạnh đến giá trị phản ánh hiện thực, sức mạnh tô" cáo của Nhật kí trong tù đối với chế độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Tuy vậy, điều quan trọng nhất cần phải thấy: trước sau đây vẫn là một tập nhật kí bằng thơ, một tập nhật kí "hướng nội", tác giả chủ yếu viết cho mình. Do đó, sức hấp dẫn của tập thơ chính là hình tượng của nhân vật trữ tình – tác giả Hồ Chí Minh, một chiến sĩ  thi sĩ. Vì vậy, hoàn toàn có lí, khi sách giáo khoa Văn 12 đã khẳng định:’

"Có thể xem Nhật kí trong tà như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Đọc tác phẩm Nhật kí trong tù, chúng ta bắt gặp con người Hồ Chí Minh với tất cả vẻ đẹp, phong phú, sâu sắc trong tâm hồn, trong tính cách, trong cách nhìn, cách nghĩ suy về cuộc đời và con người. Nhật kí trong tù đúng là một "bức chân dung tự họa" bằng thơ về con người tinh thần của người sáng tạo ra nó.

Qua hơn một trăm bài thơ, ta có thể nhận thấy nỗi khắc khoải nóng lòng, sốt ruột ngóng trông tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đọc còn nhớ, mùa thu 1942, với tư cách là đại biểu cho phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh có trọng trách tìm sang Trung Hoa để bàn cách phôi hợp hành động chông bọn đế quốc, phát xít. Nhưng vô cớ, Người bị bọn mật vụ Quốc dân đảng bắt giữ và sau đó, bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, không được xét xử. Người cũng hoàn toàn không được biết đến bao giờ mình mới được trả tự do. Hồ Chí Minh đau khổ vô hạn và thấm thìa sâu sắc nỗi "mất tự do". Nỗi đau khổ này được tác giả bộc lộ trong khá nhiều bài thơ. Chẳng hạn như trong một lần chuyển đổi nhà lao có bọn "cảnh binh khiêng lợn cùng đi", Bác đã viết những câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ một qui luật trong cuộc sống, mà qui luật này Người đã rút ra một cách thấm thìa ngay trong cuộc sống đau khổ của chính mình:

Trên đời ngàn vạn điều Gay đấng
Cay đắng chi bằng mất tự do?

Hay, trong một bài thơ khác, bài Bị hạn chế Hồ Chí Minh cũng khẳng định Đau khổ chi bằng mất tự do.

Nỗi sốt ruột, khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển thành sự giận dữ, phẫn nộ. Người đã đặt cho bài thơ một nhan đề hết sức độc đáo là chỉ có một dấu hỏi chấm (?).

Quăng Tây đi khắp lòng oan ức

Giải đến bao giờ, giải tới đâu?

Bên cạnh con người nóng lòng, sốt ruột, đau khổ vô hạn vì mất tự do, người đọc còn bắt gặp trong Nhật kí trong tù một con người hoàn toàn tự chủ về mặt tinh thần, luôn bình thản ung dung, tự tại, tâm hồn như bay lượn trên bầu trời tự do, không sức mạnh của nhà tù nào giam hãm được. Như vậy, có thể nói chúng có thể giam cầm được thể xác Bác, nhưng không khi nào chúng có thể giam cầm được tinh thần Bác, Điều này đã được chính tác giả thể hiện qua hai câu thơ mở đầu, được xem như lời đề từ của tập Nhật kí trong tù:

Thân thể tại ngục trung

Tinh thần tại ngục ngoại.

Có nghĩa là :

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao.

Và, không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là "khách tự do", thanh thản, ung dung, tự tại như là một khách tiên. Điều này được thể hiện qua khá nhiều bài thơ như Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây, và có lẽ tiêu biểu phải kẽ đên bài Ngắm trăng sau đây:

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Trong bài thơ này hoàn toàn không thấy tác giả nói đên nỗi đau khổ, bồn chồn vì bị mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Thực ra, trong chốn lao tù, ắt hẳn người thi sĩ đâu cố được thưởng trăng một cách thoải mái. Có lẽ, song cửa nhà lao chỉ đu cho lọt qua một chút ánh trăng thấp thoáng mà thôi. Song, cho dù chỉ như thế, nhưng với sức tưởng tượng phong phú, với tâm hồn yêu mến thiên nhiên, Hồ Chí Minh cũng cảm thấy dạt dào thi hứng, cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến trước cảnh đẹp của đêm trăng. Câu thơ thứ hai nguyên văn chữ Hán là:

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Có nghĩa:   

Trước cảnh đẹp đèm nay biết thế nào?

Câu thơ dường như có một chút bối rối. Cái bối rối rất thi sĩ… Tiếc rằng câu thơ dịch "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ đã làm mất "cái bối rối" rất thi sĩ . Người xưa thưởng trăng thường hay có rượu và hoa. Ở trong tù, Hồ Chí Minh làm sao có được những thứ này? Cho dù thế, thi hứng của nhà thơ vẫn dạt dào:

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Thi nhân và ánh trăng tựa hồ như đôi bạn tri âm, tri kỉ, có sự giao hòa tuyệt diệu. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ trở thành một nhân vật đáng yêu, có tâm trạng, có linh hồn. Trên đây là những câu thơ đặc biệt ý vị. Ý vị không phải chỉ xuất phát từ kĩ thuật làm thơ mà điều quan trọng nhất vần là tâm hồn, là xúc cảm của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh…

Đúng là đọc Nhật kí trong tùy chúng ta được chứng kiến nhiều cuộc vượt ngục bằng tinh thần của người tù Hồ Chì Minh. Khi thì Người thả hồn theo một áng mây trôi, một cánh chim chiều, một vầng trăng non, lúc thì Người dối theo một vầng dương buổi sớm, một cảnh làng xóm ven sông, hay cảnh buổi tối khi cô thôn nữ vừa xay xong ngô tối thì lò than đã ửng hồng. Đặc biệt, tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về Tổ quốc, về đồng chí, đồng bào; ngay trong giấc ngủ, Người cũng luôn mơ về đất nước thân yêu. Có những đêm, Bác trằn trọc mãi không sao ngủ dược, đến "Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt – Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh".

Ngoài ra, trong "bức chân dung tự họa" của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp một trí tuệ lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện qua cái nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ những bất công vô lí trong nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung Hoa rộng lớn khi đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm thường hằng ngày, với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái quát, tìm rạ qui luật của cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của chính bản thân mình. Vì vậy, một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí thâm trầm sâu sắc. Chẳng hạn, từ việc "Học đánh cờ", Người rút ra tầm quan trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong hoạt động của con người:

Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.

Hay, nhà thơ khẳng định bản chất lương thiện của con người và sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giáo dục:

Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền.

Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Đồng thời, Hồ Chí Minh cung có những chiêm nghiệm đúng đắn về "Đường đời hiểm trở", về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội:

Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao

Tuy nhiên, những nhận xét khái quát về cuộc đời, về con người của Hồ Chí Minh không bao giờ có ý vị yếm thế hay hư vô mà Người luôn hướng con người tới những hành động thiết thực để cải tạo con người, cải tạo hoàn cảnh. Điều đó chứng tỏ lòng tin vững chắc của nhà thơ vào bản chất lương thiện, tốt đẹp của con người. Khi Bác khẳng định "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn – Phần nhiều do giáo dục mà nên" tức là Người dặt ra vấn đề giáo dục và tin tưởng ở kết quả xây dựng lực lượng cách mạng về sau. Những ai đã được sống gần Hồ Chí Minh đều nhận thấy sức mạnh cảm hóa của Bác. Niềm tin vào con người là hạt nhân quan trọng tạo nên niềm tin vào sự nghiệp cách mạng ở Hồ Chí Minh. Qua bài Đi đường, Bác thể hiện khá tập trung ý tưởng chinh phục khó khăn, hướng tới cuộc sông, hướng tới tương lai:

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng.
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Ngay trong cảnh gian khổ, khó khăn, Người vẫn nhìn thấy ánh sáng của tương lai tươi sáng!

Trong ngục giờ đây còn tối mịt Ánh hồng trước mặt đã bừng soi. Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn biện chứng về sự vận động của đời sống của tự nhiên. Bởi vậy, thơ Người viết trong tù vẫn khiến cho người đọc thêm niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Có đêm, gà vừa gáy lần đầu tiên, trời tối, gió rét, Hồ Chí Minh đã phải chuyển lao. Nhưng bỗng chốc được con mắt của người tù thi sĩ, cảnh vật liền biến đổi, ánh sáng bình minh ấm áp rực rỡ xua tan bóng tôi, người tù bỗng trở thành thi nhân nồng nàn thi hứng… như trong bài thơ Giải đi sớm. Đây là bài thơ quen thuộc với nhiều người.

Dẫu sao, vẫn sề là một thiếu sót rất lớn, nếu như viết về "bức chân dung tự họa" nói trên, ta không đề cập tới lòng nhân ái bao la, sâu sắc của Bác Hồ.

Trong bài Bác ơi! Tố Hữu đã viết được những câu thơ rất hay, rất đúng về con người Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người!

Trước hết, trái tim ấy dành cho những người lao khổ dù họ là người Trung Quốc hay người Việt Nam.

Nhà thơ dễ dàng quên những đau đớn khổ sở mà mình phải chịu, nhanh chổng đồng cảm sâu sắc và phát hiện ra những bất hạnh, đau khổ của những người xung quanh để thông cảm, chia sẻ với họ. Bác thương cảm Vợ người bạn tù đến thăm chồng, đối với Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, hay đôi với Một người tù cờ bạc vừa chết… Chỉ cần nghe "Người bạn tù thổi sáo", Bác chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ quê của anh ta, mà còn hình dung thấy ở chôn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ bước lên một tầng lầu nữa để ngóng trông chồng:

Bỗng nghe trong ngục sáo vỉ vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu.
Muôn dải quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.

Trong tù, Bác gọi những người cùng bị giam là "nạn hữu” (bạn tù) và Người cùng chia sẻ với họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh ghẻ lở khổ sở:

Mặc gấm bạn tủ đều khách quý
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm.

Nhìn bao quát, tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại rộng lớn. Điểu này tạo nên giá trị đặc biệt của tập thơ.

Ở con người tác giả, rõ ràng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Bên cạnh sự nhạy cảm tinh tế, người đọc có thể nhận thấy ý chí sắt son, nghị lực phi thường, lớn lao, bền bí. Chất "tình" và chất "thép" được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa trong tập Nhật kí trong tù. Đúng như cách đây mấy chục năm nhà thơ Hoàng Trung Thông đồ nhận xét về thơ Hồ Chí Minh: "Vần thơ của Bác vần thơ thép". "Thép" chính là tinh thần chiện đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng điều đáng quý là chất ”thép" ấy được toát ra một cách tự nhiên, bình ,dị trong tư thế ung dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển lao, Bác bị bọn lính xích chân vào thuyền, nhưng Người vẫn phát hiện cuộc sống đông đúc vui tươi của làng xóm bên sông, của những thuyền câu nhẹ lướt. Có lần, sau suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây ấn tượng đối với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sắp tới mà lại chính là cảnh "Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than đã rực hồng… Chất "thép" thể hiện đặc biệt rõ ở sự kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi gian lao thử thách khắc nghiệt. Đối với Bác, mọi gian lao đều được coi như là những sự thử thách để rèn giũa con người thèm vững vàng kiên định. "Nghe tiếng giã gạo", Hồ Chí Minh làm thơ như để tự khuyên mình:

Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.

Ý thơ này, Người vẫn hằng tâm niệm. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ Bác đã khẳng định "Muôn nên sự nghiệp lớn – Tinh thần càng phải cao”. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là một tấm gương sáng về tu dưỡng và rèn luyện.

Nhật kí trong tù là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp dẫn của tập thơ này trước hết đúng là sức hấp dẫn trong bức "chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Hay nói cách khác, sức hấp dẫn của tập thơ chính là sức hấp dẫn của "chất người cộng sản Hồ Chí Minh” (Xuân Diệu)… Là những cách nói khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm khẳng định tác giả của Nhật kí trong tù là một nhân vật kiệt xuất, "đại trí", "đại nhân" và ‘đại dũng". Tập thơ thể hiện sinh động nhân vật kiệt xuất này.

25 tháng 2 2017

Bài học thấm thía và sâu sắc khi học Nhật kí trong tù:

- Vượt lên hoàn cảnh, khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp

- Tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống, ung dung tự tại

- Lòng yêu nước sâu sắc

26 tháng 9 2021

Tham khảo:

Nếp sống thanh cao và giản dị là một trong những vẻ đẹp cao cả, đáng quý trong phong cách của Hồ Chí Minh. Là lãnh tụ của cả một đất nước, một dân tộc nhưng Bác chẳng yêu cầu, ham muốn những thứ cao sang, bóng bẩy. Từ nơi ăn chốn ở, trang phục hay ăn uống, Bác đều thực hiện đơn sơ, đạm bạc và giản dị hết mức. Tuy Bác sống giản dị là vậy nhưng lại không hề kham khổ. Trái lại, cách sống giản dị, đạm bạc của Chu tịch Hồ Chí Minh lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khổ của những con người tự vui trong cảnh nghèo khó, lại càng không phải là “cách tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời, hơn đời”, mà là một cách sống có văn hóa đã trở thành một quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Phong cách sống của Bác có nét gần gũi với các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,… - thanh cao từ trong tâm hồn đến thể xác.

3 tháng 4 2021

Em cần đoạn văn hay bài văn?

Tham khảo đoạn văn nha em:

Với bài thơ Ngắm trăng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu say đắm với ánh trăng trong đêm vắng dù Người đang trong hoàn cảnh lao tù tăm tối, cực khổ Từ bao đời nay, trăng đến với nhà thơ như một người bạn tâm giao, cùng sẻ chia bao nỗi niềm khó nói của thi nhân. Bài thơ mở ra với không gian chật hẹp, tù túng là nhà tù – nơi giam cầm những chiến sĩ cách mạng yêu nước. Bằng biện pháp liệt kê, Người đã khắc họa cuộc sống thiếu thốn nơi đây: không rượu, không hoa. Hoa là biểu tượng của cái đẹp, rượu là chất men say ru hồn ta trong đêm khuya yên tĩnh. Thiếu sự góp mặt của cái đẹp kiêu sa, trang trọng ấy trong buổi ngắm trăng quả là một sự thiếu hụt lớn. Nhưng với Bác, được tận hưởng vẻ đẹp của trăng  đêm nay cũng đã là một điều quý giá. Câu thơ cho thấy tinh thần lạc quan, dù đang đối mặt với hiểm nguy nhưng tâm hồn Bác vẫn say sưa với cái đẹp, hướng thân thể ra ngoài lao với ánh trắng tự do trên bầu trời cao rộng. Vượt lên sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng một phong thái ung dung đón nhận và sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trăng và Người ở tư thế đối diện: người ngắm trăng, trăng “nhòm” khe cửa, tuy hai mà một. Ánh trăng phải “nhòm” qua song sắt chật hẹp để ngắm được rõ nét hơn khuôn mặt thi sĩ, để đồng cảm, sẻ chia với hoàn cảnh khó khăn hiện tại của người chiến sĩ. Người đã vượt lên trên bao gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên. Trăng không còn là vật vô trí mà như hóa thân, có tâm hồn và tình yêu như con người.Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lí tưởng cộng sản. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu, lòng say đắm thiên nhiên mà còn thể hiện một tinh thần “thép” trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ. Như vậy, song sắt và xiềng xích nhà tù chỉ có thể giam cầm thân thể chứ không thể ngăn cấm được tâm hồn và lí tưởng cộng sản bừng cháy trong con người ấy.

3 tháng 4 2021

Em cần bài văn cảm nhận chị à

1 tháng 12 2021

Tham khảo!

   Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc. Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc. Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Nếu giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, thì tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác.