K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nữ nhà giáo – liệt sĩ Lê Thị Thiên sinh năm 1945, tại ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Chị Thiên là con thứ 6 trong gia đình nông dân nghèo nhưng giàu truyền thống cách mạng, cha là ông Lê Văn Như và mẹ là bà Nguyễn Thị Hò, cả hai ông bà đều nhận được huân chương chiến công trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

61images647982_kyvat3

Sống trong cảnh loạn lạc của đất nước, tận mắt chứng kiến sự tàn ác của kẻ thù, cũng như bao thanh niên cùng trang lứa thời bấy giờ chị mang lòng căm thù giặc sâu sắc mong chờ có ngày được diệt giặc cứu nước.

Bà Nguyễn Thị Sáu, bạn thân của liệt sĩ Thiên nhớ rất rõ: Một lần liệt sĩ Thiên chứng kiến cảnh cha mẹ bị giặc đánh dã man vì nghi tiếp tế cho cách mạng, chị đã thề trả thù bọn cướp nước. “Thiên nói với tôi hoài, lớn lên Thiên sẽ cầm súng giết giặc, giải phóng quê hương.”

Năm 17 tuổi ở độ tuổi trăng tròn, chị nổi tiếng xinh đẹp thông minh trong vùng lại được bà con bạn bè yêu thương quí mến. Đáp lời kêu gọi của non sông đất nước,  chị xung phong vào bộ đội. Sau đó được cử đi học tiếp và điều động về một đơn vị ở miền Đông. Tại đây cuốn nhật ký “thế hệ Hồ Chí Minh” được ra đời.

Quyển nhật ký được viết từ 12/1962 đến 10/1966 trước lúc chị hy sinh, 4 năm hoạt động cách mạng của chị là 4 năm đầy khói lửa, gian khổ. Nhưng cũng tại đây đã trui rèn nên một nhân cách lớn, nhân cách của thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Chuyển lòng căm thù thành sức mạnh, chiến đấu học tập phấn đấu nỗ lực không ngừng. Cuốn nhật ký tràn ngập những suy nghĩ về lý tưởng sống của một thanh niên, một thế hệ trẻ đã sống, chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của quê hương đất nước.

Tại đầu nhật ký chị viết:

– Tháng 12-1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương.

– Tháng 2-1964: Trường xã không có người, M. được bố trí về đây.

– Tháng 5-1964: Được tin chuẩn bị đi dự lớp sư phạm ở R (họp ngày 30-5), rất phấn khởi về tư tưởng. Vì đi học sẽ có kiến thức, phục vụ cách mạng nhiều hơn.

Chị luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, cả trong học tập, công tác, chiến đấu mà không hề từ chối hay đắn đo dù bất kể đó là ở đâu. Luôn phấn khởi vững niềm tin và ý chí khát khao cống hiến cho cách mạng, quê hương đất nước.

– Ngày 4-6-1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. cố khắc sâu vào tư tưởng, cố gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con ngoan của ba má, đứa con ưu tú của Đảng.

– Ngày 22-6-1964: Rời gia đình lên đường học tập, M. có cảm nghĩ mới lạ. Khi học tập phải cố gắng với bổn phận của mình để xứng đáng là đứa con yêu của ba má, đứa em của các chị, đứa con của cách mạng, của Đảng.

– Ngày 26-7-1964: Được tin giặc càn bố xã nhà, M. cảm thấy buồn và lo lắng nhiều. Không biết bà con ở đây ra sao? Gia đình M. thế nào? Sốt ruột mong biết tin.

Dù rằng tham gia cách mạng, nhưng chị vẫn không quên bổn phận của người con trong gia đình, luôn hướng về gia đình và người thân như chỗ dựa tinh thần vững chắc, khắc sâu vào tâm khảm, cố gắng phấn đấu  học tập để xứng đáng là đứa con thân yêu của gia đình, người con ưu tú của Cách Mạng, của Đảng. Chị lo lắng cho gia đình, bà con trong xóm như thể bản thân mình đang đối mặt với những trận càn của giặc, bồn chồn, lo lắng, sốt ruột và buồn đó đều là những cảm xúc nêu bật lên con người giàu tình cảm ở chị.

– Ngày 13-9-1964: M. đã đỡ bệnh nhưng chưa được khỏe lắm, cần đấu tranh với bệnh hoạn để vươn lên. Học tập đem lại những kết quả, đó là điều không thể thiếu được ở bản thân. Cố gắng và cố gắng nhiều hơn nữa.

– Ngày 20-11-1964: Hôm nay là ngày lễ Nhà giáo yêu nước. M. được nghe kể lại nghề giáo. M. cần học tập nhiều hơn nữa. Trau dồi bản thân để trở thành một người giáo viên toàn diện, yêu nghề, yêu trẻ đúng mức.

Trong đoạn nhật ký chị viết Lời nói của Lênin “Học, học nữa, học mãi”, cuộc đời là pho sách không có trang cuối, phải thực hiện cho được. Học để hiểu tri thức khoa học, có văn hóa làm cơ sở, để nâng cao khả năng chất lượng công tác, học để xứng đáng là con người mới. Chị cảm thấy ân hận vì trong thời gian qua đã vì đôi khi tư tưởng thiếu tập trung. Do đó, trong học tập chưa đạt được yêu cầu như mong muốn. Chị tự trách bản thân mình như một cách răn đe “Thanh niên là lực lượng đóng góp cho sự nghiệp cách mạng nhiều nhất và cũng là thế hệ xây dựng xã hội mai sau. M. phải suy nghĩ và thực hiện cho được như vậy. Mọi ý nghĩ riêng tư, vì cá nhân phải gạt bỏ, để xứng đáng là người cộng sản”.

Biết nhìn nhận ưu điểm để từ đó rút ra những bài học nhằm rèn luyện bản thân, nâng cao tri thức, lý tưởng, văn hóa, đạo đức cách mạng. Biết nhìn nhân những thiếu sót, khuyết điểm của bản thân để thay đổi, khắc phục. Là một thanh niên cách mạng chị luôn nghĩ mình phải xứng đáng với những gì Đảng và đất nước tin yêu giao phó, sống vì tập thể, giúp đỡ đồng chí, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân như chị đã viết: “Thi hành tốt trách nhiệm, bồi dưỡng giúp đỡ đồng chí tiến bộ qua sự phân công của tổ Đoàn”, “Luôn nhớ đạo đức người cộng sản “Vì mọi người, vô tư mà học tập, công tác”, “Nhớ lại quá khứ, thời gian công tác giảng dạy, hiện rõ mồn một nhiều sai lầm, thiếu sót mà trước đây mình vấp phải. Bổ túc đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, chống giặc dốt là rất quan trọng mà M. chưa làm hết được. Nói  chung về mọi mặt, M. còn phải học tập nhiều hơn mới xứng đáng là một thanh niên cách mạng, thanh niên cộng sản”

Chị nhìn nhận bản thân mình vẫn chưa hoàn thiện, cần phải tham gia nhiều hơn về công tác xã hội, văn nghệ, thể thao. “Phải trở nên toàn diện, tiến bộ không ngừng, luôn hướng đến lý tưởng cộng sản, chân lý của cách mạng” đó cũng là ý nghĩ xuyên suốt trong suốt quá trình học tập công tác chiến đấu của chị. Luôn nghĩ đến tổ quốc, nghĩ nhiều hơn, tất cả vì tổ quốc thân yêu.

Chị luôn tìm cách rút ra những sai lầm, bài học của mình sau mỗi lần kiểm tra, trong thời gian học tập, chị luôn tự nhắc mình phải tập trung thật cao, phải đào sâu suy nghĩ, không được mang bệnh chủ quan, duy ý chí, chỉ tập trung vào một vấn đề to lón nào đó mà bỏ qua những việc nhỏ nhặt. “thành công thường đến từ những gì bình dị, nhỏ nhặt nhất”.

– Ngày 11-2-1965: 2 ngày qua, M. bị đau, không học hành được gì. Uống thuốc đã đỡ nhưng vẫn mệt nhiều. Cố đấu tranh tư tưởng để vượt qua cơn bệnh, học tập tích cực hơn. Vì không còn bao lâu nữa M. sẽ về địa phương công tác, va chạm vào thực tế. Trong thời gian ở đây, M. cần trui rèn tư tưởng chuẩn bị sẵn sàng để trở về tiếp nhận môi trường mới.

Đối với người con gái trẻ như chị, lại sống xa nhà trong điều kiện thiếu thốn dù bị ốm đau nhưng chị không nề hà mà vẫn một lòng lạc quan, cố gắng phấn đấu cho công tác sắp tới.

– Ngày 12-3-1965: Về tới gia đình và chuẩn bị đi công tác. Bước đầu với trách nhiệm nặng nề mà bản thân chưa từng làm.

Đã 3 năm kể từ ngày xa gia đình, đan xen giữa những cảm xúc vui mừng là  sự thấu hiểu về những trọng trách sắp tới. Tham gia vào các hoạt động của tổ chức tranh thủ trao dồi lý luận, tư tưởng chị luôn lạc quan, phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng thân yêu.

– Ngày 14-9-1965: Có người đến tìm hiểu và hỏi ý kiến muốn xây dựng cùng M., nhưng ý nghĩ, tư tưởng chưa nghĩ tới. Cho nên M. không thể nhận lời, không thể vừa lòng người được.

– Ngày 1-1-1966: Một năm chiến đấu lịch sử đã trôi qua. Tiễn năm 1965 ở thế kỷ 20, đến năm 1966 với nhiều nỗ lực trong công tác, với nhiều tình cảm ở lứa tuổi thanh niên. Kiên định lập trường giai cấp, chiến đấu anh hùng, đầy lòng tin sự tất thắng của cách mạng.

Hãy đón lấy những mới mẻ mà tiến lên, làm thế nào để đạt cái đỉnh cao nhất của cách mạng.

– Ngày 21-1-1966: Đến gặp anh C. để bàn công tác. Một tin làm M. xúc động vô cùng: người thân (10T) đã rơi vào tay giặc hôm 8-1 (ngày đầu địch càn vào bắc C2). M. buồn và suy nghĩ nhiều. Dù rằng đối với M. chưa có gì là kỷ niệm sâu sắc, nhưng trong lòng ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng ra, còn có tình yêu thương đồng chí, bước đầu của tình cảm riêng tư. Đó là tình đồng chí, là người bạn và coi như là người… lý tưởng của M.

Cũng như bao cô gái khác, chị cũng có những tâm tư tình cảm của riêng mình, cũng có những xúc động, nhưng trên hết vẫn là lý tưởng cách mạng tình yêu với đất nước quê hương. Với chị tình yêu thời cách mạng thật đẹp, đó là tình yêu của anh Trỗi – chị Quyên, dù chỉ bên nhau được vài ngày nhưng họ vẫn yêu thương, biến nỗi đau xa cách thành hành động cách mạng.

– Ngày 9, 10, 11-8-1966: Mấy ngày qua, M. cùng cô Bảy, chị Hải đi A.H – C.Lưu – về A. Mặc dù bị bệnh rất mệt nhưng vẫn quyết tâm đi.

Cũng qua lần đi này M. mới hiểu thêm tình đồng chí, tình bạn và có sự thương mến, gắn bó đậm đà hơn. Chị Hà ơi! M. đã thông cảm và hiểu chị nhiều hơn rồi đấy! Thương mến chị lắm mà!…

“Bước đường công tác dĩ nhiên sẽ có muôn vàn khó khăn. Hãy quyết tâm kiên trì, dũng cảm để vượt qua, để hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình”.

Ai đã từng đọc những dòng nhật ký của chị đều phải cảm phục chị, một người con gái nhỏ bé nhưng lại có một nhân cách lớn, nhân cách thế hệ Hồ Chí Minh. Dù trong gian khó, bom đạn nhưng chị vẫn quyết tâm hoàn thành tốt những gì tổ quốc, cách mạng, Đảng tin yêu giao phó. Chị là tấm gương sáng ngời cho thế hệ Hồ Chí Minh hôm nay noi theo học tập: không ngừng phấn đấu, cố gắng rèn luyện, biết nhận ra ưu điểm để phát huy, nhìn nhận khuyết điểm để thay đổi; sống vì tập thể, vì tổ chức, loại bỏ ý nghĩ chủ quan cá nhân vì mục tiêu cao cả tốt đẹp hơn.

Tôi xin trích lời nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nói “Tôi thực sự xúc động, tự hào và khâm phục khi đọc những dòng nhật ký này. Nhớ lại Nguyễn Văn Trỗi, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc… cũng lứa tuổi đôi mươi tràn đầy nhiệt huyết, họ đã sống, chiến đấu xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân. Tôi học tập nhiều ở những con người bình dị mà cao cả; tâm hồn của họ luôn trẻ trung trong sáng; lý tưởng cách mạng như ngọn đuốc rực cháy trong tim gan…”. “Tôi mong muốn và tin tưởng thế hệ trẻ hôm nay sẽ học tập và tiếp nối lý tưởng của thế hệ đi trước một cách xuất sắc…”.

Một chút cảm xúc:

Chị ra đi nhưng chị vẫn sống mãi

Nơi trái tim những người trẻ ở lại

Chúng tôi nợ chị một lời cảm ơn

Vì Tổ quốc quê hương đất nước

Chị quên đi tuổi trẻ của mình

 

Tôi nghe vang vọng  đâu đây

Hào kiệt anh hùng một thời chiến đấu

“Ngục tối trái tim càng cháy lửa

Xích xiềng không khóa nồi lời ca”

Không khóa nổi trái tim tuổi trẻ

 

Ôi, người con của Tiền Giang yêu dấu

Chúng tôi mãi khắc ghi tên M.

Nhật ký một thời mãi mãi còn lưu

Lý tưởng cách mạng đời đời soi sáng

Thanh niên hôm nay quyết noi gương chị

Viết thêm lời ca cho non sông Việt Nam.

14 tháng 4 2018

bác hồ là 1 vị lãnh tụ cao quý là một vĩ nhân của nhân loại . Bác đã tìm ra đường cứu nước và đã giúp nước Việt Nam rất nhiều

14 tháng 4 2018

Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ bởi Bác chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam – Hồ Chí Minh.
 
Với vai trò của một lãnh tụ cách mạng, Bác đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình đối với dân, với nước. Bác là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, cùng Đảng dẫn đường chỉ lối cho dân tộc vùng lên phá bỏ xích xiềng nô lệ thực dân, phong kiến, giành quyền sống tự do. Người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chủ quyền độc lập thiêng liêng. Nếu so sánh sự nghiệp đấu tranh chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc ta là một con tàu giữa đại dương đầy bão tố thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thuyền trưởng tài ba, sáng suốt, đã đưa con tàu vượt qua trùng trùng sóng gió, cập bến vinh quang.

Bài văn cảm nghĩ của em về Bác Hồ

Bài văn cảm nghĩ của em về Bác Hồ - Ảnh minh họa

Chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954 và chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã tôn vinh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất, tuy nhỏ bé mà đã đánh gục hai tên thực dân, đế quốc “khổng lồ” là Pháp và Mĩ. Việt Nam đã trở thành gương sáng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới noi theo.
 
Sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ vĩ đại như non cao, biển rộng nhưng Bác lại sống một cuộc sống vô cùng giản dị và tuyệt vời trong sáng. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Người dành hết cho nhân dân, cho Tổ quốc. Câu nói tâm huyết nếu rõ mục đích phấn đấu và lí tưởng cao cả của Bác Hồ đã làm rung động trái tim bao người: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành… Mục đích ấy, lí tưởng ấy là nguồn sức mạnh vô biên, thôi thúc Bác suy nghĩ, hành động và cống hiến cuộc đời mình cho dân, cho nước.
 
Nếp sống giản dị của Bác rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân. Bữa ăn chỉ vài món cá kho, rau luộc, cà muối… Chỗ ở là căn nhà sàn bằng gỗ đơn sơ, xung quanh là vườn cây, ao cá. Quan niệm sống của Bác là: Mình vì mọi người, cho nên Bác lấy cống hiến làm niềm vui, làm hạnh phúc của bản thân. Kính phục và yêu mến Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi: .
 
Bác sống như trời đất của ta,
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa.
Tự do cho mỗi đời nô lệ,
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Như đỉnh non cao tự giấu hình,
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh.
Bác mong con cháu mau khôn lớn,
Tiếp bước cha anh, tiến kịp mình.
(Theo chân Bác)
 
Đức tính khiêm tốn, giản dị của Bác đã trở thành huyền thoại. Sau khi Bác mất, căn nhà sàn Bác ở mở rộng cửa đón đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế đến thăm. Không ai là không xúc động trước những vật dụng gắn bó với Bác gần như suốt cuộc đời: chiếc máy chữ và chiếc đồng hồ cũ kĩ trên bàn làm việc, đôi dép lốp cao su mòn gót…
 
Giường mây, chiếu cói đơn chăn gối.
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn…
 
Bác không bao giờ đòi hỏi điều kiện vật chất tối đa cho riêng mình. Ngược lại, Bác thanh thản, lạc quan trong cuộc sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư nhưng những gì Người để lại cho nhân dân, cho đất nước có thể sánh ngang với núi cao, biển rộng.
 
Nhận xét về Bác Hồ, nhà phê bình nghiên cứu văn học Quách Mạt Nhược của Trung Quốc viết: Hồ Chí Minh là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Với trí tuệ kiệt xuất, Bác đã: Hai tay xây dựng một cơ đồ. Đó là sự nghiệp cách mạng vẻ vang, ghi dấu son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vì yêu nước, thương dân cơ cực, lầm than trong vòng nô lệ của thực dân, phong kiến nên Bác đã rời Tổ quốc, ra đi tìm đường cứu nước.
Tình nhân ái bao la là cội nguồn tư tưởng, là sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Bác trên con đường cách mạng:
 
Bác ơi tim Bác mênh mông thế,
Ôm cả non sông, mọi kiếp người
(Theo chân Bác – Tố Hữu).
 
Từ trong sâu thẳm tâm hồn, mỗi công dân Việt Nam đều nhận thấy rằng:
 
Người là Cha, là Bác, là Anh.
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
(Tố Hữu).
 
Trước lúc đi xa vào cõi vĩnh hằng, Bác viết trong Di chúc: Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng… Sự ra đi của Bác là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Bác đã hóa thân vào sông núi, biển trời… của đất nước Việt Nam mà Người hằng yêu dấu.
 
Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân thế giới yêu mến và khâm phục, còn kẻ thù cũng phải nghiêng mình kính nể bởi Bác Hồ là hiện thân sinh động nhất của truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm. Căm thù chiến tranh, yêu mến hòa bình, nỗ lực cống hiến cho một nền hòa bình, thịnh vượng của toàn nhân loại, những điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, thuyết phục lớn lao của Bác. Bác Hồ đã được Hội đồng hòa bình thế giới phong cho danh hiệu cao quý là Chiến sĩ hòa bình, là Danh nhân văn hóa của nhân loại.   
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại vinh quang cho đất nước Việt Nam dân tộc Việt Nam. Các thế hệ tiếp nối đã đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Bác đã dẫn đường chỉ lối, biến khát khao cháy bỏng của Người thành hiện thực: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh để sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.

26 tháng 9 2021

Trả lời :

Là học sinh, ta đã quá quen thuộc với những chiếc bút màu giúp những bức tranh chúng ta thêm sống động. Mà ta còn thấy được qua bài thơ Sắc màu em yêu được liệt kê với đủ loại màu sắc như những mảng màu không thể thiếu trong cuộc sống được tả dưới con mắt chân thật của một bạn nhỏ có thể thấy được trong những vần thơ vô tư của tác giả Phạm Đình Ân.

Một bảng màu sắc hiện ra mỗi màu đều mang ý nghĩa riêng đều tượng trưng cho hình ảnh riêng, bạn nhỏ nhanh chóng chọn được màu đỏ với suy nghĩ khá hồn nhiên mà thực tế là màu máu con tim, màu cờ tổ quốc,khăn quàng đỏ đeo trên cổ. Tiếp theo,màu xanh của đồng bằng bao la, của biển xanh, bầu trời quê hương thân thương. Và màu vàng được quan sát tỉ mỉ là nắng vàng rực rỡ, của màu hoa cúc, của đồng lúa chín dưới sự chăm sóc của người lao động. màu không thể thiếu màu trắng liên tưởng là trang giấy vật quen thuộc,là màu của những bông hồng bạch, và đặc biệt được chìm trong làn tóc trắng mượt mà của người bà minh chứng rõ ràng của thời gian.Một tông màu trầm gần gũi từ hòn than đen, của đôi mắt của màn đêm cao vợi. Là màu tím của sự thủy chung của hoa cà, hoa sim, đến chiếc khăn, và màu mực. Và màu cuối cùng được cất lên là màu nâu của áo mẹ, của đất đai, màu của gỗ. Kết thúc bảng màu vô số màu sắc dưới sự thích thú của bạn nhỏ, ta thấy nó gắn với những thứ quá đỗi thường xuyên và khắc sâu trong tâm trí mỗi con người rồi. Dường như không thể thiếu một màu nào để làm nên bức tranh hoàn hảo ấy, cũng như những vần thơ đẹp đẽ ấy. Qua cách diễn tả ta có thể cảm thấy tình yêu tuy nhỏ bé nhưng rất tinh tế với từng thứ trong cuộc sống của người bạn nhỏ. Cũng là thông điệp ngợi ca lên tình yêu với đất nước từ thế hệ trẻ thấy rõ trong đoạn văn cuối “Trăm nghìn cảnh đẹp” và thấy được ý thức từ hành động nhỏ nhất có thể làm được của bạn nhỏ rất “Ngoan” và sự tự nhắc nhở nhẹ nhàng phải tích cực và nâng cao ý thức vừa chăm học vừa phải biết nghe lời và hoạt động tích cực tuổi nhỏ làm việc nhỏ để giúp đỡ người xung quanh.

Qua bài thơ, tác giả mượn lời bạn nhỏ đem đến cho người đọc một sự đồng cảm về suy nghĩ qua những sắc màu liên tưởng rộng ra là tình cảm về con người và sự vật xung quanh, thể hiện tình yêu rất cao quý của thế hệ trẻ dành cho đất nước và phấn đấu thực hiện thể hiện tình yêu ấy rõ nét hơn bằng những hành động thực tế.

~ HT ~

24 tháng 12 2020

nụ cười của mẹ đẹp và dịu dàng như mùa xuân , mỗi khi nhớ về nụ cười ấy làm cho lòng em trở nên ấm áp. Mẹ cười rất nhiều ,nụ cười như mang đi hết muộn phiền , khổ đau trong lòng em . Em đã thấy rất nhiều nụ cười , nhưng đẹp nhất vẫn là nụ cười của mẹ

nhớ chọn mik nha

25 tháng 5 2017

Yêu mến cảnh rừng và mong muốn tất cả mọi người hãy bảo vệ vẽ đẹp tự nhiên của rừng.

6 tháng 1 2022

Núi non Cao Bằng mênh mông, hùng vĩ, điệp trùng “đo làm sao cho hết” cũng như chí khí, lòng yêu nước của con người Cao Bằng. Trúc Thông có một cách nói, một cách viết rất gợi cảm:

“Còn núi non Cao Bằng
Đo làm sao cho hết
Như lòng yêu đất nước
Sâu sắc người Cao Bằng”

Như nước đầu nguồn có bao giờ vơi cạn; nước suối vẫn trong suốt, vẫn rì rào quanh năm cũng như tình yêu quê hương đất nước của con người Cao Bằng vừa “lặng thầm”, tiềm tàng, vừa bao la.

Khổ cuối khẳng định tầm vóc lịch sử lớn lao của Cao Bằng, đó là phên giậu của đất nước, là dải biên cương của Tổ quốc thân yêu mà dân tộc ta, đồng bào Cao Bằng “phải giữ lấy”. Giọng thơ cất lên thiết tha, tự hào:

“Bạn ơi có thấy đâu
Cao Bằng xa xa ấy
Vì ta mà giữ lấy
Một dải dài biên cương...”

Đọc bài thơ ngũ ngôn của Trúc Thông, ta tưởng như được thăm thú “nước non Cao Bằng”. Cao Bằng trong ca dao có “gạo trắng nước trong” còn Cao Bằng trong thơ Trúc Thông có mận ngọt, có cảnh quan hùng vĩ, là dải dài biên cương của Tổ quốc. Con người Cao Bằng tốt đẹp, giàu lòng yêu nước được Trúc Thông dành những lời thơ đẹp nhất ngợi ca.

Cao Bằng tuy ở xa, đường đến Cao Bằng tuy hiểm trở, nhưng Cao Bằng rất gần chúng ta, gắn bó yêu thương với tâm hồn chúng ta. Ý vị của bài thơ “Cao Bằng” là ở sự khơi gợi ấy.

6 tháng 1 2022

 Cảm ơn bạn nhìu :3

22 tháng 4 2018

1. Nhắc tới Nguyễn Đình Thi chúng ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ đa tài, có đóng góp lớn cho văn học nghê thuật nước nhà trên nhiểu lĩnh vực. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác nghê thuật của ông có thể khái quát rằng, ngợi ca đất nước đẹp giàu, bất khuất, nhân dân cần cù, anh dùng chính là cảm hứng nồng đậm nhất. Hiện lên từ những trang văn, bài thơ, bài hát của Nguyễn Đình Thi là hình tượng một đất nước từ trong gông xiềng áp bức vùng dậy tự giải phóng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới. Đất nước là một trường hợp tiêu biểu như thế, một trong những đỉnh cao của thơ trữ tình cách mạng Việt Nam. Đất nước có ý nghĩa khá đặc biệt. Nó là sản phẩm của một quá trình nung nấu, một sáng tác mang tính chất tổng hợp. Hãy để ý đến thời gian tác giả sáng tác bài thơ: 1948 - 1955. Đây là một dấu hiệu lạ chứng tỏ điểm độc đáo của Đất nước và là căn cứ quan trọng để hiểu đúng bài thơ. Thông thường, một bài thơ trữ tình với dung lượng ấy được sáng tác chỉ trong một ngày, một buổi, thậm chí chỉ trong dăm ba tiếng đồng hồ (Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng là thế). Vậy tại sao Đất nước được hình thành, được khởi bút từ thời kì đầu dân tộc bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp mà đến tận ngày kháng chiến trường kì thắng lợi, hoà bình lập lại mới hoàn thành ? Điều đó phản ánh ý đồ của Nguyễn Đình Thi như ông đã có dịp tâm sự. Viết Đất nước, nhà thơ muốn tạo dựng một tượng đài Tổ quốc Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, trong chín năm kháng chiến anh hùng phần nào tương xứng với tầm vóc cao đẹp của đất nước ta trong lịch sử. Với mong muốn này, dễ hiểu vì sao nhà thơ phải đầu tư thời gian, cần tập trung tâm trí và đưa vào đây (tất nhiên có sửa chữa) một số đoạn vốn ở các bài thơ khác. Lẽ thường, khi vượt qua một chặng đường lịch sử, nhìn lại để tổng kết, để tự hào, mới có thể hoàn thiện bức tượng đài. Đất nước trở thành một sáng tác mang tính chất tổng hợp, hài hoà giữa cảm hứng sử thi hùng tráng với rung cảm trữ tình thiết tha khi ca ngợi một đất nước từ trong gông xiềng áp bức, từ trong lam lũ đói nghèo vùng dậy tự giải phóng, anh dũng chiến đấu bảo vộ quyền độc lập tự do thiêng liêng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới. 2. Thời gian sáng tác, ý đồ nghệ thuật nêu trên chính là cơ sở để chúng ta phân tích vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ này. Đất nước trở thành hình tượng trung tâm trong bài thơ. Nếu cần chọn một từ, chỉ một từ thôi, nói trúng vẻ đẹp cơ bản nhất của hình tượng này, hẳn đó là từ vận động. Một đất nước trường chinh trên dặm dài lịch sử, một đất nước có truyền thống bất khuất, bền bỉ đang ngời lên trong hiện tại đau thương, khói lửa và đang vững bước đi tới tương lai tươi sáng - đó là cảm nhận rõ rột nhất khi đọc bài thơ này. Cả bài thơ toát lên sự vận động. Từng khổ thơ cũng thể hiện sự vận động trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai. Đây là đất nước có lịch sử dài lâu, đất nước của những người chưa bao giờ khuất: Nước chúng ta  Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về.  Đất nước của bao thế hộ chưa bao giờ khuất ấy đang vươn mình lớn dậy trong hiện tại gian khổ, đau thương: Từ những năm dau thương chiến đấu  Đã ngời lên nét mặt quê hương  Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu  Đã bật lên những tiếng căm hờn.  Chính từ trong hiện tại chiến đấu anh dũng, lao động cần cù ấy gương mặt đất nước ngày một ngời sáng. Dường như càng về cuối bài thơ, cảm hứng tương lai càng nồng đậm: Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội  Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới  Lòng ta bát ngát ánh bình minh.  Trong cuộc trường chinh vạn dặm, đất nước mình ngày càng vững bước tới tương lai, trong "vất vả đau thương" đất nước mình càng "tươi thắm vô ngần" - đó là cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Đinh Thi về sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là hình tượng đất nước trong bài thơ này mang vẻ đẹp bình dị mà cao cả trong ánh sáng thời đại mới. Hãy chú ý hệ thống hình ảnh về đất nước trong bài thơ. Xây dựng tượng đài phải có chất liệu. Để làm việc đó, có tác giả lấy chất liệu chủ yếu từ lịch sử, có tác giả tìm chất liệu chủ yếu từ văn hoá dân gian... Hình tượng đất nước được Nguyễn Đình Thi xây dựng bằng những vẻ đẹp của thiên nhiên xanh tươi, dạt dào sức sống, bằng những hành động chiến đấu anh dũng, lao động cần cù của nhãn dân. Nhà thơ đã ngắm nhìn, cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, bằng tấm lòng của "chúng ta" - những con người vừa được cách mạng giải phóng khỏi thân phận nô lệ khổ nhục đang đứng lên làm chủ non sông đất nước minh. Bởi thế, đất nước này rất đỗi binh dị, thân thương mà cao cả, kì vĩ trong ánh sáng thời dại mới. Đất nước, đó là mùa thu hương cốm mới, núi đồi, rừng tre phấp phới. Đất nước, đó là những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa, gốc lúa bờ tre hồn hậu. Đất nước, đó là "Trời đầy chim và đất đầy hoa", "Khói nhà máy cuộn trong sương núi - Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng"... Binh dị, thân thương là thế nhưng đất nước ấy mang tầm vóc mới bởi đang do những con người lão động làm chủ - đất nước của thời đại dân chủ nhân dân:  Ôm đất nước những người áo vải  Đã đứng lên thành những anh hùng.  Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi gắn liến với niểm tự hào mang tính dân chủ của thời đại mới. "Trời xanh đây là của chúng ta - Núi rừng đây là của chúng ta" - chỉ đến thơ ca sau Cách mạng tháng Tám mới xuất hiộn đại từ "chúng ta" với tư thế ấy, tầm vóc ấy. 3. Có thể tìm thấy nhiểu đoạn, nhiều khổ thơ đặc sắc trong Đất nước để chứng minh cho các đặc điểm trên của hình tượng trung tâm trong bài thơ. Lịch sử dài lâu của đất nước, sức sống bền bỉ của bao thế hệ ông cha được Nguyễn Đình Thi cảm nhận sâu sắc : Nước chúng ta Nước những người chưa hao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về. Về ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, đoạn thơ này chứng tỏ cảm xúc thiết tha, lắng đọng của Nguyễn Đình Thi. Dù ngắn nhưng đoạn thơ bố cục có tầng lớp theo lối diễn dịch sau khi xướng lên đối tượng để nhìn ngắm, chiêm nghiêm. "Nước chúng ta" là nước như thế nào ? Đây là "Nước những người chưa bao giờ khuất". Điều đó thể hiện ở đâu ? Hai dòng tiếp sau lại là sự diễn giải, chứng minh cụ thể. Đất nước là bài thơ được viết theo thể tự do, câu dài, câu ngắn xen kẽ. Rõ ràng, "Nước chúng ta" là dòng thơ ngắn nhất trong bài. Nó cất lên lời xưng danh dõng dạc, đàng hoàng. Đã xưng danh thì phải ngắn, phải cất cao đĩnh đạc. Nó toát lên niềm tự hào về đất nước, về quyền làm chủ đất nước ấy. Nguyễn Đình Thi không phải là người đầu tiên, người duy nhất khẳng định sức sống bền bỉ của truyền thống dân tộc nhưng ông đã có cảm nhận, cách thể hiện của riêng mình. Nhiều người thường nói truyền thống đất nước, sức sống cha ông qua những tấm gương, câu chuyện lịch sử, qua những danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông, nghĩa là qua những hình ảnh mang tính thị giác. Ở đây, Nguyễn Đình Thi lại nói qua hình tượng âm thanh. Một âm thanh gần gũi mà thiêng liêng đặc biệt. Cứ đêm đêm vọng lên từ lòng đất tiếng nói của những người chưa bao giờ khuất. Hình bóng và tâm linh của bao thế hộ ông cha vẫn còn thức động giữa hôm nay. Chữ rì rầm gợi lên thứ âm thanh không lớn nhưng không bao giờ dứt. Đã là tiếng trong lòng đất thì phải rì rầm. Hãy chú ý những từ ngữ của đoạn thơ : khuất, rì rầm, ngày xưa, vọng - chúng tạo nên một không khí cổ kính, trầm lắng đặc biệt. "Đêm đêm" là hiện tại, "những buổi ngày xưa" là quá khứ xa xưa. Hai chiểu thời gian tưởng chừng rất xa nhau được kéo nhập làm một qua tiếng rì rầm ấy, trong không khí ấy. "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" - tại sao viết tiếng đất chứ không phải lòng đất ? Hình như ở đây có hai thứ tiếng. "Rì rầm" là tiếng của con người, của nhân sinh. "Tiếng đất" là tiếng của núi non, của vũ trụ. Tiếng của ông cha, của lịch sử đã hoà trong tiếng của đất đai, của vũ trụ mà vọng mãi muôn đời. Nhằm ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân ta, sự vùng dậy quật cường của đất nước, nhằm tố cáo tội ác của kẻ thù, Nguyễn Đình Thi đã dựng tả gương mặt quê hương, đất nước đau thương trong lửa khói chiến tranh. Nhiều người cho rằng khổ thơ dưới đây thuộc loại hay nhất của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp: Ôi những cánh đồng quê chảy máu  Dây thép gai đâm nát trời chiều  Những đêm dài hành quân nung nấu  Bỗng hồn chồn nhớ mắt người yêu. Nhận xét ấy có căn cứ bởi đây là những câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu cảm xúc. Nguyễn Đình Thi từng tâm sự rằng đây là những câu thơ được viết từ kỉ niệm trong cuộc đời kháng chiến, từ những buổi chiều cùng bộ đội hành quân qua các vùng quê hoang vu. Một hoạ sĩ dựa vào hai câu thơ này hoàn toàn có thể vẽ nên một bức tranh có hình khối, đường nét, sắc màu, có không khí và linh hồn. Những cánh đồng quê trống vắng, xác xơ vì bị lũ giặc tàn phá. Bầu trời chiều trên những cánh đồng ấy càng mờ xám, ảm đạm. Nối giữa mặt đất cánh dồng với bầu trời chỉ là những hàng dây thép gai của đồn giặc như tua tủa xỉa cắt. Nhìn về phía tây, ánh hoàng hôn đỏ lựng đang hắt ngược một khoảng lên nén trời. Bức tranh này không có cây cối, cửa nhà mà toát lên vẻ lạnh lẽo, tang thương. Hình ảnh thơ lạnh, vắng mà thấm đẫm cảm xúc thương đau, uất hận. Chính từ màu đỏ của hoàng hôn, từ máu của bao con người đã đổ trên quê hương mà Nguyễn Đình Thi liên tưởng đến cánh đổng đang chảy máu. Cũng bởi lòng xót xa đau đớn mà nhà thơ tưởng như dây thép gai đâm nát cả bầu trời đất nước. Trong các từ chảy máu, đâm nát có cả cõi lòng tan nát của nhà thơ. Thương đau, uất hận không nén nổi khiến lời thơ cất lên thành giọng điêu cảm thán. Như thế, từ một hình ảnh, một ấn tượng thực, với hai câu thơ này Nguyễn Đình Thi đã vẽ nên một bức tranh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị kẻ thù giày xéo. "Nói về tội ác kẻ thù có thể có nhiều cách nói khác nhau, tôi không miêu tả cụ thể mà từ chất liêu cụ thể khái quát lên một điều gì sâu xa hơn". Chính từ trong đau thương chiến đấu, gương mặt đất nước ngày càng ngời sáng. Các động từ ngời lên, bật lên đã diễn tả sự vùng dậy quật cường của dân tộc : Từ những nâm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương  Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu  Đã bật lên những tiếng căm hờn. Càng về cuối bài Đất nước, cảm hứng lạc quan càng nồng đượm. Đứng ở hiện tại chiến thắng vinh quang nhìn lại con đường lịch sử vừa qua của dân tộc, Nguyễn Đình Thi tỉnh táo và tự hào khẳng định : Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội  Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh. Bởi ý đồ tổng kết lịch sử, hệ thống hình ảnh trong khổ thơ trên kết hợp hài hoà mặt cụ thể, gợi cảm với tính khái quát, biểu tượng (ngày nắng đốt, đêm mưa giội, trán, lòng, trời đất mới, ánh bình minh). Con đường vừa qua của đất nước đâu bằng phẳng thênh thang. Trên con đường ấy, chúng ta vừa trải qua bao khó khăn, thử thách này lại tiếp ngay thử thách khác, mỗi bước đường phải trả bằng bao giá máu. Sức mạnh nào đã đưa dân tộc vượt qua con đường gian khổ, vinh quang ấy và bước tiếp tới tương lai tươi sáng ? Đó chính là lí trí tỉnh táo, tư tưởng cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng khoa học, là tình cảm lạc quan phơi phới. Khi một cá nhân, một cộng đồng kết hợp được hai mặt này thì sẽ mang sức mạnh vô địch. Khổ thơ chứng tỏ sự tổng kết lịch sử sâu sắc của Nguyễn Đình Thi theo cách một nhà thơ ưữ tình. Mọi vẻ đẹp của hình tượng đất nước, những cảm hứng chính của Nguyễn Đình Thi dược kết tinh khá trọn vẹn ở khổ cuối bài thơ. Đây là đỉnh điểm của cảm hứng sử thi khi ngợi ca tầm vóc đất nước, khi dựng tả bức tượng đài : Súng nổ rung trời giận dữ  Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa  Rũ bùn đứng dậy sáng loà. Khổ thơ xây dựng hình ảnh theo tầng lớp. Từ hình ảnh những lớp người cụ thể, Nguyễn Đình Thi liên tưởng, khái quát thành hình ảnh đất nước trong thời đại mới, nghĩa là khổ thơ kết hợp hài hoà tính tả thực, gợi cảm với tính biểu tượng. Trong một bài viết kể vé việc sáng tác Đất nước, Nguyễn Đình Thi có giải thích rằng khổ thơ kết này được hình thành từ một hình ảnh thực chính mắt nhà thơ được chứng kiến. Đó là từ trong chiến hào đầy bùn đất, các chiến sĩ ta dũng mãnh xông lên tấn công vào đồn giặc Pháp. Quân phục các anh lấm lem nhưng lưỡi lê tuốt trần, bóng người lấp lánh trong lửa đạn. Chính từ đây, nhà thơ xây dựng một cảnh tượng thật giàu chất điện ảnh. Dưới bầu trời ầm vang tiếng súng, dọc ngang chớp đạn, những lớp người ồ ạt xông lên với khí thế không gì ngăn cản nổi. Lớp này ngã, những lớp sau tiến bước, cứ ào ào như sóng cuộn. Sự đè nén, áp bức tàn bạo của kẻ thù khiến lòng hờn căm, giận dữ của dân ta càng nóng bỏng để vùng lên mạnh mẽ. Hình ảnh này gợi ta liên tưởng đến câu tục ngữ “Tức nước vỡ bờ”. Từ hình ảnh cụ thể trên, Nguyễn Đình Thi đã khái quát, đúc kết nên hình tượng đất nước. Đó là một đất nước từ trong máu lửa đau thương của chiến tranh, từ trong bùn lầy của lam lũ, đói nghèo mà vươn mình đứng dậy. Hình tượng đất nước này khiến ta nhớ lại cái vươn vai kì diệu của chú bé làng Gióng thuở nào. Tầm vóc đất nước vụt trở nên kì vĩ lạ thường. Đúng là trong vất vả đau thương đất nước càng "tươi thắm vô ngần" như Nguyễn Đình Thi từng viết: Anh yêu em như yêu đất nước  Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần. Kiểu liên tưởng khái quát này ta sẽ còn bắt gặp khá nhiều trong thơ ca Việt Nam về sau. Chẳng hạn, từ tư thế hi sinh hiên ngang của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất (ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968) nhà thơ - liệt sĩ Lê Anh Xuân liên tưởng đến "Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ". Từ dáng đứng này, Lê Anh Xuân cảm nhận "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" (Dáng đứng Việt Nam). Hay ở Việt Nam, máu và hoa, trong không khí hào hùng của thời đại dân tộc đánh đế quốc Mĩ và chiến thắng, Tố Hữu ca ngợi: "Ôi Việt Nam ! Từ trong biển máu - Người vươn lên, như một thiên thần !". Khổ thơ của Nguyễn Đình Thi còn hay ở thể sáu chữ, ở nhịp điệu vừa nhịp nhàng vừa ngày một đẩy tới, dâng cao (nhất là ở dòng thứ hai và dòng cuối). Nhịp điệu ấy cũng tương ứng với sự vươn lên mạnh mẽ, với tầm vóc kì vĩ của hình tượng đất nước. Đỉnh điểm của nhịp thơ chính ở chữ "sáng loà" cuối cùng. Từ đây, hiện lên hình tượng đất nước Việt Nam rực rỡ, chói ngời trong ánh hào quang chiến thắng

22 tháng 4 2018

Vào một buổi sáng mát trong giữa núi đồi Việt Bắc thời kì đầu chống Pháp, Nguyễn Đình Thi nhớ những ngày thu Hà Nội đã xa.

Thu về qua hương cốm mới: đúng là hương gây mùi nhớ. Hương cốm nhắc ta cái hương vị của đồng quê nội cỏ Việt Nam. Cốm là một thứ quà quê hiếm quý mà bình dị,đơn sơ mà sang trọng. Nhà thơ gợi ra trong lòng người đọc niềm vui sướng khi nâng trên tay gói cốm trong lá sen thơm ngát lúc giao mùa hạ sang thu. Hương cốm làm ta nhớ lại những dôi trai gái nên vợ nên chồng. Phải chăng,nhớ thu Hà Nội,Nguyễn Đình Thi nhớ lại một Hà Nội ấm áp,ngọt ngào,thuần khiết và thanh lịch. Trong nỗi nhớ man mác một niềm lưu luyến.
Cái lưu luyến của người đi xa nơi mình yêu dấu sao khỏi tránh được nỗi buồn khi phải chia phôi. Tiếng lá khô xao xác vẫn âm vang trong tâm trí dù đã cách xa lâu rồi. Khi gió heo may chớm lạnh trên những dãy phố dài Hà Nội,lá rụng ,không khí hanh khô,theo gió hiu hiu,lá bay xào xạc. Và cái xào xạc ấy rất quen với người Hà Nội mỗi độ thu về. Đi xa càng nhớ,âm thanh xào xạc vẫn cứ âm vang trong trí nhớ,làm nên một âm điệu buồn khiến cái xào xạc của lá chạy trên đường thành cái xao xác trong tâm tưởng.

Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Thu Hà Nội trong Nguyễn Đình Thi chính là cái xao xác của lá khô trên những phố dài và cái ngát dịu của hương cốm mới. Hương vị,âm thanh ấy mãi mãi vẫn còn nguyên đó,trở đi trở lại với vòng quay của tháng năm. Hà Nội trong nhà thơ vẫn còn đó,gắn bó không thể sẻ chia,sự gắn bó dịu êm và sâu thẳm. Phải xa không thể không buồn song tuy buồn mà vẫn có nó ở trong lòng bởi trên đời này có những cái buồn vì mất hết,không tìm lại được cái mình vốn có.
Người Hà Nội yêu mùa thu Hà Nội. Song,một nét rất đẹp trong tâm hồn con người Hà Nội trong những trạng huống đặc biệt của lịch sử: Lúc cần phải chia tay,người Hà Nội cũng rất kiên nghị dứt áo ra đi. Người Hà Nội biết chấp nhận đầy cương quyết bởi trong lòng họ ra đi để sẽ trở về. Đẹp sao tư thế người Hà Nội ra đi,lên chiến khu,xung vào đoàn quân chiến đấu,nén lòng không do dự,cất bước lên đường,để lại sau lưng biết bao bâng khuâng lưu luyến.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Câu thoe liền một mạch. Tiếp theo là một tiết tất cắt ra từng nhịp chứa chất bao nhiêu là trầm tư suy nghĩ và phảng phất nỗi buồn cố hữu:

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Buồn mà vẫn khỏe bởi trong suy nghĩ của người Hà Nội,của nhà thơ đã ra đi không có nghĩa là rời bỏ,mà là để Hà Nội mãi mãi là của lòng: mình với cái hương cốm ấy và cái âm thanh xao xác đầu thu ấy.

Bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Đây là một đoạn thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi về thu Hà Nội và người Hà Nội gắn bó với mùa thu đất nước. Và ở đây cũng thể hiện tài hoa của Nguyễn Đình Thi trên lĩnh vực thơ trữ tình: thi trung hữu họa,thi trung hữu nhạc,với những nét rất đặc trưng cho Hà Nội ngọt ngào,thanh lịch.

Từ cảm xúc xưa đến cảm xúc thu nay giữa núi đồi Việt Bắc,tiếng thơ sôi nổi,rộn ràng,không gian mở rộng từ Hà Nội ra bao la đất nước. Nhà thơ dõng dã: Mùa thu nay khác rồi. Cái khác nổi bật lên là luồng âm thanh,màu sắc mới của đất nước,của lòng người đang reo vui, đằm thắm hơn. Trong biếc nói cười thiết tha. Tư thế của con người cảm nhận mùa thu là tư thế của người làm chủ non sông đất nước mình,đàng hoàng,phóng khoáng giữa một không gian cao rộng khoáng đạt bao la. Đó là một cảm xúc hoàn toàn mới mẻ biểu đạt trong thi ca,cảm xúc của một nhà thơ-chiến sĩ-công dân của một nước đang chiến đấu bảo vệ thành quả “độc lập” và tự do. Đứng trên tầm cao” giữa núi đồi” trào dâng một niềm tự hào lịch sử. Phóng tầm mắt ra bốn phương tám hướng đâu đâu cũng là “của chúng ta”. Niềm vui sướng,tự hào pha lẫn niềm kiêu hãnh thấm vào tất cả : từ bầu trời cao rộng đến tận đấy sông lâu,lan tỏa ra không gian bát ngát muôn phương nẻo theo những cánh đồng,những cánh rừng, những con đường,những dòng sông. Khúc giao hưởng” của chúng ta” vang lên trong trời đất và trong lòng người là một bản hòa tấu lịch sử của một dân tộc bất khuất. Cảm xúc thơ chuyển từ không gian hiện hữu đi vào chiều sâu lịch sử cha ông. Lòng tự hào dân tộc sau giây phút sôi nổi dâng tràn trở nên sâu lắng trong dòng sông lịch sử,thì thầm từ trong lòng đất mẹ vọng về.
Cảm xúc thu nay,thu kháng chiến khơi dậy trong con người Việt Nam đang chiến đấu chống kẻ thù hung hãn biết bao nhiêu là sức hiền hòa,nghèo khó làm nên kì tích vang dội toàn cầu. Có người thẩm định rằng,cái tài hoa Nguyễn Đình Thi khi diễn đạt thu xưa hay hơn cái thu này. Cảm xúc về thu nay chưa theo kịp ý thức và nhận thức, ý chưa quyện với tình. Chúng ta không nghĩ thế. Nói về mùa thu,tác giả lần đầu tiên cho một loài cây quen thuộc mà các nhà thơ trước ông không hề để ý đó là tre: Gio thổi rừng tre phấp phới. Cây tre,hơn nữa là rừng tre xứng đáng là biểu tưởng của thiên nhiên Việt Nam,cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam dẻo dai,bền bỉ,bất khuất. Một Việt Nam của hiện tại,của quá khứ và của tương lai,một Việt Nam dẻo dai,bền bỉ,bất khuất. Một Việt Nam trường tồn ẩn chứa trong hình ảnh đó. Đó là một sáng tạo độc đáo,giàu sức thể hiện đạt đến độ hàm súc,một tiêu chí quan trọng của tiếng nói nghệ thuật. Mặt khác,niềm tự hào vừa là nhận thức vừa là tình cảm,vừa là sóng lòng trào dâng vừa là trí tuệ sâu sắc,cho nên bên cái say còn có cái cứng cáp của nghĩ suy,của triết lí,đó là thứ cảm xúc của cả trái tim và khối óc. Chính sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố đó mà cảm xúc về mùa thu nay có chiều sâu,chắc nịch của nhận thức,đồng thời có cái dào dạt theo chiều mở ra với không gian đất nước và cuồn cuộn theo nhịp lòng tuôn trào của nhà thơ. Sự chuyển hóa cảm xúc từ không gian vào thời gian,từ hiện hữu vào quá khứ,làm cho nhịp cảm xúc biến hóa và hàm súc. Lẽ nào hồn thơ chưa đến độ chín đầy.

Bài tham khảo: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài tham khảo: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bút pháp của tác giả đổi khác hẳn so với phần trên khi tái hiện lại toàn bộ cuộc chiến đấu trường kì ba ngàn ngày không nghỉ. Nguyễn Đình Thi thiên về cách diễn đạt bằng những hình ảnh tượng trưng hàm chứa ý nghĩa khái quát.
Đất nước mang đầy thương tích chiến tranh,tội ác kẻ thù in dấu trên đất nước,những tổn thất hi sinh thật lớn lao,đã không bút nào tả xiết. Nhà thơ,chỉ bằng một phác họa tài tình,đã vẽ lên bức tranh đau thương của dân tộc với vài nét chấm phá: bầu trời,cánh đồng tưởng trưng cho nước,dây thép gai tượng tương cho ách chiếm đóng và tội ác của kẻ thù và máu chảy tượng trưng cho mất mát đau thương. Bằng một thủ pháp điện ảnh tài tình,hình ảnh thơ hiện ra đầy xúc động:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Ông kính nhà thơ từ mặt đất hắt chiếu lên bầu trời tạo ra mảng Dây thép gai đâm nát trời chiều và theo chiều ngược lại,ánh mặt trời đỏ ối từ trên tỏa xuống lênh láng cánh đồng quê như máu chảy đầm đìa. Đó là một hình ảnh khái quát,tượng trưng nhưng bắt nguồn từ thực tiễn khốc liệt của sự tàn phá,giết chóc mà kẻ thù gieo rắc trên đất nước ta. Trong bức tranh đầu thương tích đó,nhà thơ thốt lên nỗi đâu đớn của một trái tim rỉ máu: Ôi.
Từ đau thương,đất nước và nhân dân ta ngời lên một khuôn mặt khác thường: căm thù và chiến đấu kiên cường bất khuất. Từ anh chiến sĩ trên đường những đêm dài hành quân nung nấu- Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu đến đồng bào ở hậu phương từ gốc lúa bờ tre hồn hậu- Bỗng bật lên tiếng thét căm hờn. Cả dân tộc nhất tề đứng lên,dân tộc đó nhất định không thể bị đánh bại.
Trước hoàn cảnh cam go ấy,nhân dân ta vẫn vời vợi một niềm vui,một niềm tin của một trí tuệ nắm vững quy luật của chiến tranh chính nghĩa,của lịch sử niềm tin sắt đá chỉ có trong thời đại mới,thời đại giải phóng dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản,dưới sự lãnh đạo của Đảng tiền phong và Bác Hồ:

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Vẫn là loại hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng song vẫn truyền cho ta một cái gì thật là tươi mát,thật lạc quan ngay trong những ngày nước còn sôi,lửa còn bỏng.

Cuối cùng đất nước ta,dân tộc chiến thắng,thành quả Cách mạng tháng Tám được bảo vệ,nhà nước công nông đầu tiên ” Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa” ở Đông Nam A vẫn tồn tại và lớn mạnh. Cùng với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ,một hình ảnh nước Việt Nam với nước Việt Nam nông nghiệp-nền văn minh lúa,đã vụt dậy sáng lòa.

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Đoạn kết của bài thơ là một tượng đài đất nước nói với các thế hệ mai sau: đất nước ta,dân tộc ta đã phải xây dựng một Việt Nam khai sinh nó ra từ máu lửa cùng với khai tử chủ nghĩa thực dân trên hành tinh này,nêu một tấm gương cho toàn thể các dân tộc bị bức toàn thế giới.

14 tháng 9 2021

thánh gióng rất rất đẹp trai

6 tháng 10 2023

ủa :))) j vậy