K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 4 2019

b)Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.

10 tháng 10 2018

Nguyễn Du và Truyện Kiều
Trải qua một cuộc bể đâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều

Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, còn có biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ (phường săn núi Hồng) và Nam Hải điếu đồ (dân chài biển Nam). Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (1765), nhằm niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông, tại kinh thành Thăng Long, trong một gia đình đại quý tộc có thế lực bậc nhất thời bấy giờ.
Nguyễn Du vốn quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là Nguyễn Nghiễm, mẹ là Trần Thị Tần.
Dòng họ Nguyễn của Nguyễn Du không chỉ thành đạt về đường hoạn lộ mà còn rất có truyền thống về văn học. Khi Nguyễn Du lên 10 tuổi thì thân phụ mất, hai năm sau ông lại mồ côi mẹ. Bốn anh em cùng cha mẹ chưa có ai trưởng thành. Nguyễn Du lớn lên trong một giai đoạn lịch sử vô cùng rối ren và phức tạp. Đất nước chia đôi, các thế lực phong kiến cầm quyền bị phân hóa, không còn đủ sức ổn định tình hình và lãnh đạo đất nước.hỉ trong vòng chưa đầy 30 năm mà mấy lần chuyển giao triều đại, mấy lần thay thời đổi thế.
Năm 1873, Nguyễn Du 18 tuổi đi thi Hương ở Nam Sơn và đậu tam trường.
Tháng 8 năm 1802, nhà thơ xứ Tiên Điền chính thức đi vào đường hoạn lộ. Nguyễn Du mất vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820 tại Kinh thành Phú Xuân, an táng tại xã An Ninh, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Bốn năm sau cải táng về làng Tiên Điền, quê hương của nhà thơ.
Sự nghiệp lớn nhất, có ý nghĩa nhất mà nhà thơ núi Hồng Lĩnh để lại cho đời là sự nghiệp văn chương của ông. Đỉnh cao thể hiện biệt tài ấy là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ của dân tộc ta đã được nâng lên một tầm cao mới với sự súc tích, đẹp đẽ đến không ngờ và trở thành linh hồn văn học của Việt Nam.
Truyện Kiều được Nguyễn Du viết ra theo thể văn thuần túy Việt Nam (thơ lục bát), phóng tác theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, một truyện viết bằng văn xuôi kể lại cuộc đời của một cô gái đời Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.
Truyện Kiều qua cái nhìn Phật học
Nội dung Truyện Kiều là một chuỗi những đau khổ tận cùng Thúy Kiều gặp phải và chịu đựng suốt 15 năm của đời mình mà khởi nguyên của đoạn trường đau đớn ấy là bắt nguồn từ lòng hiếu thảo của nàng.Trước cảnh hoạn nạn của gia đình, nàng phải đối trước một sự lựa chọn quá khắc nghiệp giữa “Tình” và “Hiếu” để rồi trong khoảng khoắc phải quyết định:
Để lời thề hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình,
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Hành động bán mình chuộc cha là đỉnh điểm của lòng hiếu thảo, và rồi trong những tháng ngày nơi chốn thanh lâu, cha mẹ vẫn là điểm tựa, là nỗi nhớ thương trong lòng nàng hiếu nữ họ Vương bạc mệnh. Nàng luôn nghĩ về cha mẹ, thương cha mẹ giờ đã già yếu đi nhiều vì từ ngày cách biệt đến giờ đã mười mấy năm có lẻ.
Khi nghĩ đến “bán mình” hẳn Thúy Kiều đã đoán trước được con đường phía trước cuộc đời nàng sẽ ra sao. 15 năm lưu lạc trải qua biết bao nhiêu là biến động theo chiều hướng khổ đau, bất hạnh. Cuộc đời bể đâu ấy đã hiện ra bóng dáng của cuộc thế tang thương, biến hoại, mang đậm nét giáo lý vô thường của đạo Phật.
Câu chuyện về cuộc đời nàng kỹ nữ Đạm Tiên là hình ảnh đầu tiên về lẽ vô thường và rõ nét nhất:
Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Trong Truyện Kiều, mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh tập trung ở nàng Kiều - con người và số phận. Với Nguyễn Du, triết luận là suy nghĩ về cuộc đời, về “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Đây là bi kịch trong tâm hồn ông và cũng là sự tốt cáo sâu sắc của ông với xã hội đương thời. Số mệnh ấy chẳng qua là quy luật thép của xã hội, nó không những giáng lên đầu Kiều mà còn bắt Kiều phải thừa nhận. Thế nên không lạ gì khi ông viết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Băn khoăn và không tin chắc lắm cho một “ông trời” bất công như thế, Nguyễn Du đã đi tìm một sự giải thích khác và ông đã tìm thấy triết lý nhân quả của Đạo phật ở cuộc đời nàng Kiều “thân yêu, tri kỷ” của ông.
Cuộc đời Thúy Kiều, nhân vật chính của câu chuyện là cuộc đời với tất cả khổ đau tận cùng, là hình ảnh minh họa rõ nét nhất của một kiếp nhân sinh. Nguyên nhân của việc phải chịu khổ đau ấy là do nghiệp lực của chính mình tạo ra, do những nhân ái, vô minh đã gieo trồng trong nhiều kiếp chứ không phải do một đấng tối cao nào đó áp đặt, mặc dù đấng tối cao ấy vẫn hiện diện trong câu chuyện của nhà thơ.

Theo Đạo Phật, con người có tự do trong việc tạo y báo và chánh báo, tức là chuyển hóa các tâm hành để thăng hoa đời sống của mình. Vì vậy, mặc dù quá khổ đau nhưng trong Kiều vẫn tiềm tàng một khao khát được giải thoát. Kiều nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh; Kiều theo về với Từ Hải đều nằm trong ý hướng ấy. Như vậy, trong tận cùng của đau khổ, nhận diện được đau khổ, con người mới khát khao, ý thức diệt khổ. Diệt khổ có căn nguyên từ trong chân lý “đời là bể khổ”. Trong ý nghĩa ấy và trên bình diện triết lý, Truyện Kiều đã hàm chứa hai thánh đế “Khổ” và “Tập” của Đạo phật rồi.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng suốt trên quãng đường 15 năm lưu lạc của nàng Kiều, Nguyễn Du đã chọn cho nhân vật của mình giải pháp sống lại trong sự che chở dưới mái chùa - mái nhà tôn giáo đương thời. Những mái chùa hiện hữu như “giọt nước cành dương” mà không đòi hỏi “một chỗ đứng thế tục”, như một định thế thoát tục nhưng chúng nằm trong thế đối đãi với thế tục như cặp tương quan “khổ tận - cam lai”; “khổ - diệt khổ”. Với ý nghĩa đó, Nguyễn Du đã không để nàng Kiều lưu lại trong chùa trong quãng đời còn lại. Cuộc “trở về đoàn tụ” được thực hiện ngay trong “lòng đời”, sau những ngày thanh tịnh “sự đời đã tắt lửa lòng”
Giấc mộng “hương quan, đoàn viên” của nàng Kiều biến thành hiện thực. Kiều tái hợp gia đình trong niềm vui khôn tả.

Và sau hết, thông điệp về tư tưởng có ý nghĩa thâm áo nhất mà nhà thơ họ Nguyễn muốn gửi lại cho hậu thế là một chữ “Tâm” đặc sắc, một chữ “Tâm” thiên biến vạn hóa, tác nhân của hạnh phúc hay khổ đau, Niết Bàn hay địa ngục. Một chữ “Tâm làm thiện căn tăng trưởng, đưa con người đến bến bờ an lạc vĩnh hằng. Do vậy, mở đầu của Truyện Kiều là một cuộc “bể dâu” được giới hạn bởi “trăm năm trong cõi người ta” thì ở phần kết Nguyễn Du lại hạ bút:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Như vậy sự mở đầu là “Tài - Mệnh” nhưng kết thúc là “Tài - Nghiệp”. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Du đã rõ: dùng chữ “Tâm” đối lại với chữ “Tài” và bù đắp cho “Tài”. Tư tưởng này đã có dụng ý ngay từ trong toàn bộ bố cục tác phẩm. Bởi lẽ chính chữ “Tâm” là điều kiện có thể xây dựng “đoàn viên” trong “đạo làm người” theo nhà thơ họ Nguyễn. Dùng chữ “Tâm” mà Nguyễn tiên sinh đã thắm đượm, miệt mài “kinh lòng hằng đọc” để sửa chữ “Tài mệnh tương đố ” của Nho giáo. Với Nguyễn Du, mục đích sáng tác “Đoạn trường tân thanh” là để nói đến “Tâm” và “Tu”, sâu sắc như điều tâm đắc mà cả cuộc đời tu học Nguyễn Du đã thấu hiểu.

Đọc Truyện Kiều qua lăng kính Phật học, ta chợt nhận ra bao nhiêu tư tưởng Phật học ẩn chứa trong những vần thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh, âm điệu của Nguyễn tiên sinh. Nguồn tư tưởng ấy góp phần tạo nên phần hồn sâu kín cho tác phẩm. Như những hạt vàng chưa được đãi lọc, chúng ta hy vọng trong tương lai sẽ được đọc những công trình biên khảo lớn hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về tư tưởng hay của các bậc “túc Nho đạt Thích” để Truyện Kiều không chỉ là “mua vui cũng được một vài trống canh”
Như nhà thơ khiêm tốn tự nhận. Trái tim của những thế hệ khác nhau sẽ còn rung động sâu sắc với những tâm tư tình cảm của Nguyễn Du, của nàng Kiều trong câu Truyện Nguyễn Du viết lại.

30 tháng 11 2018

Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh gợi tả trong tám câu thơ:

- Phần lễ tảo mộ và du xuân

- Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân:

    + Nô nức yến anh

    + Dập dìu tài tử giai nhân

    + Ngựa xe như nước, áo quần như nêm

- Các danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân. Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức. Là động từ: sắm sửa, dập dìu

→ Hình ảnh gợi lên không khí náo nhiệt, tươi vui và không gian nhiều màu sắc, giàu sức sống của mùa xuân