K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 10 2018

Mk kb r.

 Tk mk đi 

14 tháng 12 2018

Cảnh sát giao thông chặn một chiếc xe bé nhỏ, kiểm tra kỹ lưỡng từ bình cứu hoả đến hộp cứu thương, bảo hiểm đường bộ… mọi thứ đều không bắt bẻ vào đâu được.

- Thôi được, anh thật là một tài xế gương mẫu. Nào, ta làm 100 gr vodka nhân ngày lễ!

- Ồ không, để anh lại phạt tôi ư?

- Yên tâm uống đi, hôm nay là ngày lễ mà! Cụng ly xong, người đàn ông chui vào xe đi tiếp. Tay cảnh sát móc máy bộ đàm ra gọi:

- Alô! Số 3 gọi số 5… Xécgây à, Ivan đây, tớ còn nợ cậu 100 rúp phải không? Hãy lấy số tiền ấy từ chiếc Lada trắng sắp chạy qua nhé! Thằng cha lái xe vừa uống rượu đấy!

Đc ko bạn 

30 tháng 12 2018

Cảnh sát giao thông chặn một chiếc xe bé nhỏ, kiểm tra kỹ lưỡng từ bình cứu hoả đến hộp cứu thương, bảo hiểm đường bộ… mọi thứ đều không bắt bẻ vào đâu được.

- Thôi được, anh thật là một tài xế gương mẫu. Nào, ta làm 100 gr vodka nhân ngày lễ!

- Ồ không, để anh lại phạt tôi ư?

- Yên tâm uống đi, hôm nay là ngày lễ mà! Cụng ly xong, người đàn ông chui vào xe đi tiếp. Tay cảnh sát móc máy bộ đàm ra gọi:

- Alô! Số 3 gọi số 5… Xécgây à, Ivan đây, tớ còn nợ cậu 100 rúp phải không? Hãy lấy số tiền ấy từ chiếc Lada trắng sắp chạy qua nhé! Thằng cha lái xe vừa uống rượu đấy!

14 tháng 12 2017

chat đi có tui

28 tháng 12 2017

ban vui long ko dang cau hoi linh tinh nhe 

ban vui long ko dang cau hoi linh tinh nhe 

ban vui long ko dang cau hoi linh tinh nhe 

ban vui long ko dang cau hoi linh tinh nhe 

ban vui long ko dang cau hoi linh tinh nhe 

7 tháng 9 2018

1. I. Mở bài

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta, không ai là không đến trường. mỗi ngày đến trường là một niềm vui, một kỉ niệm đẹp của thời học sinh. Thời đi học trong mỗi ai cũng có những ấn tượng đẹp, những kỉ niệm đẹp. Và đối với học sinh thì không thể bỏ qua một loài hoa rất thân thuộc với mỗi người, đó là hoa phượng. Bài viết này chúng ta đi tìm hiểu về cây phượng.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc

- Có tên là Phượng vĩ, hay phượng vỹ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng.

- Họ Fabaceae

- Sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới

- Tên theo tiếng anh Flamboyant, Royal poinciana và Mohur tree

- Tên theo tiếng trung là phượng hoàng mộc, kim hoàng

2. Đặc điểm

a. Thân cây

- Thuộc thân gỗ

- Có lớp vỏ xù xì

- Có màu nâu sẫm

b. Lá

- Nhỏ

- Lá mọc đối xứng qua một xương lá

- Thuộc họ lá kép lông chim

- Màu xanh lục

c. Tán lá

- Rộng

- Dài, vươn xa

- Nhỏ chi chít

- Tạo bóng mát

d. Rễ

- Cắm sâu xuống đất

- Có phần nổi trên mặt đất dài ngoằng ngèo

e. Hoa

- Màu đỏ

- 5 cánh

- Có lốm đốm màu vàng

f. Quả

- Dẹp

- Chứa nhiều hạt

- Có vị ngọt

3. Sinh trưởng

- Cây tái sinh bằng chồi và hạt rất mạnh

- Phát triển tốt trên mọi loại địa hình: Ven biển, đồi núi, trung du.

- Mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ trồng

- Tuổi đời không cao, khoảng 30 tuổi

4. Khu vực nhiều phượng

- Hoa kì

- Khu vực Caribe

- Nó là loài cây biểu tượng chính thức của quần đảo Bắc Mariana (CNMI).

5. Ý nghĩa của cây phượng

- Che mát, tạo không gian mát mẻ

- Làm đẹp tường học, phố phường

- Làm thơ ca, cảm hứng sáng tác

- Là kỉ niệm tuổi thơ, một thời đẹp đẽ của học sinh

2 . I. Mở Bài

Giới thiệu: Nơi làng quê, nông thôn Việt Nam ta thường hay có một câu nói: "Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Hình ảnh con trâu là một trong nhừng hình ảnh thân thương, mộc mạc và có sự gắn bó sâu sắc với những người nông dân.

II. THÂN BÀI

1. Nguồn gốc, xuất xứ

Trâu có nguồn gốc từ loài trâu rừng, đã được con người thuần hóa từ rất lâu.

2. Cấu tạo

- Trâu thuộc nhóm trâu đầm lầy. Giống trâu rất dễ nhận dạng, chúng ta có thể dựa vào đặc điểm bên ngoài của chúng:

+ Thân hình: vạm vỡ, thấp, bụng to, mông dốc.

+ Ở dưới cổ chỗ hai xương ức có hai dải lông màu trắng.

+ Loài trâu luôn khoác lên mình bộ áo màu xám đen.

+ Cân nặng thì trâu đực nặng từ 400-500 kg.

- Đặc điểm sinh sản: Thời gian mang thai cùa trâu nội là 320-325 ngày. Theo sự phát triển của thai việc nuôi dưỡng cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:

- Thời kỳ bắt đầu mang thai đến 7-8 tháng, nuôi trâu chủ yếu là thức ăn xanh. Trước khi đó 2-3 tháng, ngoài thức ăn thô xanh cần cho trâu ăn thức ăn tinh (cám, bắp, lúa nghiền ...) từ 0,5 - 1,5 kg/con/ngày.

- Ở tháng tháng thứ nhất và tháng cuối của thai kỳ, không sử dụng trâu để làm những việc nặng nhọc như cày, kéo, không xua đuổi nhiều... tránh ảnh hưởng đến thai. Giai đoạn gần đẻ, nên chăn thả gần và nuôi riêng trâu mang thai để tiện chăm sóc.

- Trước khi trâu đẻ 1-2 ngày, nhốt trâu tại chuồng, tắm rửa sạch sẽ, dọn chuồng, chuẩn bị dụng cụ và trực trâu đẻ. Nghé vừa sinh phải được móc sạch nhớt ở miệng, mũi và lau khô sạch toàn thân, cắt rốn để dài khoáng 10cm và dùng cồn I-ốt sát trùng vết cắt, xong cho bú ngay. Sau khi trâu đẻ, cHo trâu uống nước ấm có pha ít muối, tránh để trâu mẹ ăn nhau thai.

- Giai đoạn nuôi con: Trong giai đoạn này cần cho trâu cái ăn nhiều để phục hồi cơ thể và sản xuất sữa đê nuôi con. Ngoài chăn thả phải bổ sung thêm thức ăn xanh và thức ăn tinh tại chuồng. Chăn thả trâu mẹ từ gần tới xa để nghé con quen dần, luôn để nghé con được bú sữa mẹ. Mùa mưa cần chú ý việc che chắn chuồng nuôi không bị mưa tạt gió lùa, giữ cho nghé khói bị lạnh. Hàng ngày dạ chuồng sạch sẽ, khô ráo; đảm bảo có nước sạch thường xuyên tại chuồng.

3. Lợi ích

- Ở trâu, ta còn có thể thấy được sức mạnh dẻo dai, bền bỉ. Nhờ vào sức mạnh ấy trâu có thể giúp con người kéo cày, kéo bừa trên ruộng đồng hay kéo xe, kéo gỗ. Tuy trâu kéo cà rền cà rịch, chậm chạp nhung bù lại trâu có thể kéo nặng.

- Khi gặp ổ gà trâu cũng có thể vượt qua.

- Bên cạnh việc cày bừa, trâu cũng cho sữa và thịt trong sản xuất, nhưng sữa trâu không béo và tươi như bò nên không tiêu thụ nhiều trên thị trường.

- Thịt trâu cũng được bán rộng rãi bởi nó có chứa nhiều chất bổ dưỡng và thịt rất ngon.

- Chúng ta có thể dùng phân trâu đế bón ruộng, vườn cây ăn trái sẽ góp phần giúp cây tươi tốt.

- Ớ Tây Nguyên, người ta thường dùng da trâu làm căng mặt trống. Ngoài ra­, da trâu cũng có thể làm ra một liều thuốc trị bệnh bao tử.

4. Cách chăm sóc

- Phải tắm cho trâu mỗi ngày, cho ăn uống dầy đủ chất dinh dưỡng.

- Hàng ngày vệ sinh chuồng trại, máng ăn uống sạch sẽ; định kỳ tiêu độc, khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và thu gom phân để ủ.

- Sử dụng tlìức ăn, nước uống không bị nhiễm độc, nhiễm bần và mùa nắng thường xuyên tắm chải cho trâu, nghé.

- Cách ly trâu bệnh với trâu khỏe, những trâu mua về nên nuôi cách ly ít nhất 2 tuần để theo dõi.

- Bố trí chuồng nuôi trâu không quá gần nhà ở, nguồn nước sinh hoạt và không nuôi chung với các loại vật nuôi khác.

- Tẩy nội, ngoại ký sinh trùng cho nghé lúc 1- 3 và 6 tháng tuổi. Tẩy sán lá gan lúc trâu 12 tháng tuổi và sau đó định kỳ 6 tháng tẩy lại 1 lần (cần chủ động tẩy sán trước khi phổi giống).

- Định kỳ tiêm phòng các loại vắc xin Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng... theo lịch của thú y.

5. Ý nghĩa

- Trâu luôn được mọi người ví như sự hiện diện của con người Việt Nam ta bởi tính cần cù, chăm chi.

- Trâu còn được đưa vào các lề hội, điển hình như ở Đồ Sưu – Hải Phòng lãng năm đều diên ra lê hội chọi trâu. Vòng "chung kết” được diễn ra vào mồng chín tháng tám âm lịch. Quan niệm cho rằng nếu nhà nào có trâu thắng thì sẽ gặp nhiêu điều may mắn và hạnh phúc.

- Ở Tây Nguyên thì các dân làng thường hay tổ chức buổi giết trâu đem tế thần linh cầu mong cho một năm mới gặp nhiều điều an lành.

III. KẾT BÀI

- Hình ảnh “Con trâu đ trước, cái cày đi sau” đã in sâu trong tâm trí mỗi con người Việt Nam.

- Trâu được mọi người xem là thành viên thân thiết trong gia đình.

3. I. MỞ BÀI

Giới thiệu:

- Chùa Thiên Mụ là một trong những ngôi chùa khá nổi tiếng của Huế.

- Là ngôi chùa cổ nhất ở Huế.

II.THÂN BÀI

1. Nguồn gốc, xuất xứ

- Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây.

- Chùa Thiên Mụ chính thức khởi xây năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

- Có thể nói Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất của 1 Huế.

2. Kết cấu

- Chùa được bao quanh bằng khuôn tường xây đá hai vòng trong, ngoài.

- Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực. Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trinh kiến trúc: Bến thuyền đúc bê tông có 24 bậc tam cấp lên vuông, cống tam quan là bốn trụ biêu xây sát đường cái, từ công tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền đất và bộ móng xây bảng đá thanh), sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vòi vọi, hai bên Hương Nguyện có hai lầu hình tứ giác (dựng từ thời Triệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác - một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời Nguyễn Phúc Chu).

- Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp).

- Khu vực phía trong của Nghi Môn gồm các điện: Đại Hùng, Địa Tạng, Quan Âm, nhà trai, nhà khách, vườn hoa, sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.

3. Ý nghĩa

- Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cùng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế.

- Vua Thiệu Trị Liệt cảnh chùa Thiên Mụ vào một trong 20 thắng cảnh thể hiện trong bài thơ Thiên Mụ chung Thanh.

- Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở đại giới đàn rất long trọng chùa và mời ngài Thích Đại Sán - một vị cao tăng người Trung Ọuốc tới Phú Xuân.

III. KẾT BÀI

- Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa cổ và đẹp của Việt Nam.

- Chúng ta cần phải trân trọng và giữ gìn nó trường tồn cùng thời gian.

7 tháng 9 2018

tham khảo tạm ( vì bận học ko có t/g )

I. Mở bài: Giới thiệu về con chó

Một trong những con vật thân thiết và trở thành người bạn trung thành của con người là con chó. Chó là loài vật thông minh và sống tình cảm và có ích với con người.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc

- Tổ tiên của chó là cáo và sói

- Vì thế mà chó được con người thuần hóa và tồn tại đến bây giờ

- Qua nhiều lần lai tạo thì ngày nay chó có rất nhiều loại

2. Phân loại

Chó ta, chó tây, chó béc, Chihuahua v.v…

3. Đặc điểm

+ Đặc điểm ngoại hình:

- Là động vật thuộc bộ thú

- Có bộ lông rậm rạp

- Thị thính và thính giác rất phát triển

- Có bốn chi, rất linh hoạt và nhanh nhẹn

- Mắt chó 3 mí

+ Đặc điểm sống

- Đặc điểm sinh sản: Chó sinh sản theo lứa, tùy vào mỗi con mà mỗi lứa có số con khác nhau.

- Đặc điểm sinh sống: Chó thường sống theo bầy đàn, nhưng chó nhà thì tùy vào chủ nhà

- Đặc điểm sống: Chúng rất biết nghe lời và trung thành

4. Vai trò của con chó

- Là vật nuôi: Do chó dễ gần, thân thiện với con người nên nó được làm vật nuôi trong mỗi gia đình

- Là người bạn: Chó trở thành người bạn thân thiết đối với con người

- Chó đặc vụ, chó cảnh-sát: Chính vì sự nhanh nhẹn, trung thành mà chó rất hữu ích trong những công việc này.

5. Quan hệ với con người

Chó luôn là người bạn, thân thiết, trung thành với con người.

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về con chó

Con chó luôn ở bên cạnh con người trong những lúc khó khăn cũng như giàu có, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Dù có thế nào chó vẫn luôn bên cạnh con người, là người bạn thân thiết và trung thành của con người.

24 tháng 9 2021

Tham khảo:

Kiến vốn được xem là một xã hội loài người thu nhỏ. Một chiếc tổ có thể là nơi trú ẩn của hàng triệu cá thể kiến. Mỗi tập đoàn kiến thường làm chủ cả một khu vực đất rộng lớn. Tuy có hàng triệu cá thể nhưng tổ kiến giống như một tổ chức cá nhân với nhiều cơ chế vận hành riêng biệt. Tất cả hợp thành một thể thống nhất.

24 tháng 9 2021

đù cái này trên mạng đúng ko bạn hihi

30 tháng 10 2016

Các bạn! Hòa bình đất nước được lặp lại, tôi là người may mắn trong số những người lính được trở về quê hương, sau những ngày kháng chiến gian lao, đứng giữa sự sống và cái chết. Đến bây giờ được sống trong hòa bình, độc lập, trong lòng tôi vẫn luôn khao khát được một lần về thăm quê của bạn, quê người đồng chí của tôi.

Cuộc gặp gỡ trò chuyện của những người lính.

Tôi là anh cả trong một gia đình có sáu anh em, cha mẹ tôi là những người nông dân vất vả, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, sống trên một vùng quê khó khăn ” đất cày lên sỏi đá”, tôi luôn mong muốn quê mình giàu có, đẹp hơn nữa. Cuộc kháng chiến vừa bắt đầu, tôi lại xin nhập ngũ. Rời quê hương lên đường, tôi nghĩ trong thời gian tới nhất định tôi sẽ lập được nhiều công lớn giúp ích cho nhân dân? tôi bây giờ đã trở thành một người lính ư? tôi có thể cầm súng chiến đấu ư? thật hạnh phúc biết bao.

Vào quân đội tôi được cử lên Việt Bắc – nơi chiến trường khốc liệt nhất của chiến tranh. Ngày ra quân, hành quân trên đường đi đến Việt Bắc tôi mới thấy sự cực nhọc, vất vả của những người kính cụ hồ, đến nơi, nhũng người lính đi trước chúng tôi hai ngàu đã nghĩ sẵn ở đó. Nổi bật trong số đó, người có thiện cảm với tôi từ lần đầu tiên là một anh lính trạc bằng tuổi tôi, dáng người cao cao, trông thật nhanh nhẹn, như một phản xạ, tôi nhanh chóng đến bắt chuyện với anh.

– Chào cậu!

– Ừ! chào bạn!

Anh ấy có vẻ hơn ngại ngùng, chỉ cười gượng. Như đã được định sẵn tôi với anh cùng chung một tiểu đội mang tên BK107. Đêm về tôi không sao ngủ được lại càng nôn nao muốn kết bạn với anh lính trẻ. Tôi sát lại gần anh, thở một hơi thật mạnh, nói thủ thỉ:

– Chiến tranh ác liệt nhỉ?

Người con trai ấy hơi sững sờ, chắc là tại vì tôi quá tự tin. Không sao, tôi là người như vậy mà, tôi cười một mình. Mở tròn mắt nhìn anh với vẻ mặt y như một đứa trẻ đòi quà, tôi mong nhận được câu trả lời. Có vẻ lần này anh ấy đỡ ngại hơn.

– Cậu ở đâu lên vậy? chắc ngoài Bắc hả?

– Vâng, tớ ở xuôi lên, tớ muốn nước mình độc lập lắm! còn cậu, cậu ở đâu?

Câu chuyện dần cởi mở và tự nhiên hơn.

Mình ở Nam Định, vùng ” nước năm đồng chua”, khổ lắm! Con người chân lấm tay bùn.

Vậy là từ hai người xa lại chũng tôi đã trò chuyện và quen nhau, ngày cùng nhau làm nhiệm vụ, tối đắp chung chăn. Đứng cạnh bên nhau, nhìn về phía xa xa, tôi và người lính ấy mong sao hòa bình được lặp lại, chiến tranh kết thúc. Nếu không có chiến tranh thì chắc chắn sẽ không có những giọt máu rơi xuống, sẽ không có những giọt nước mắt rơi xuống, tiếng khóc chờ chồng, chờ cha.

Cuộc gặp gỡ lần đầu của chúng tôi tuyệt biết bao! Ngày hôm nay gặp lại người anh em ấy, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỉ niệm xưa, ngồi bên nhau ôn lại kỉ niệm, sao ngày ấy dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh mà chúng tôi vẫn luôn nở nụ cười trên môi, kết thúc tuổi thanh xuân trong chiến tranh, chúng tôi ngày càng già đi, tóc bạc phơ mái đầu, nhưng sự hi sinh của chúng tôi thật là đáng. Tôi giở cuốn ảnh lưu giữ tình bạn ra xem, cùng hàn huyên đủ chuyện trên đời, tình đồng chí

Được gặp lại nhau trong hòa bình, tình bạn xưa dâng trào trong trái tim mỗi chúng tôi, chiến tranh đi qua nhưng mọi thứ ngày ấy vẫn còn diễn ra trước mắt chúng tôi. Làm sao chúng tôi quên được nhau, quên được tình bạn ấy, thật tuyệt vời!

1 tháng 11 2016

Gợi ý làm bài:

I. Mở bài: Giới thiệu tình huống gặp gỡ và câu chuyện kể (tham khảo đề Tưởng tượng gặp người lính lái xe trong bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính").

II. Thân bài:
- Ấn tượng của em về người lính mà em gặp.
- Câu chuyện của người lính:
+ Cơ sở hình thành tình đồng chí: Bước vào đời lính là những chàng trai áo vải chân đất, xuất thân từ những vùng quê nghèo đồng chua nước mặn, đất cày lên sỏi đá. Từ những con người xa lạ không hẹn mà quen nhau. Đất nước mất chủ quyền, nhiệm vụ chung cao cả đó là đánh giặc, giải phóng quê hương nên rất nhanh chóng những anh lính trẻ gần gũi, sát cánh bên nhau, cùng chịu đựng, chia sẻ những khó khăn gian khổ. Tình đồng chí thiêng liêng được hình thành từ đó.
+ Những biểu hiện của tình đồng chí: Người lính hiểu tâm tư, tình cảm của nhau. Tài sản lớn nhất của người nông dân là ruộng nương, nhà cửa nhưng mặc kệ, ra đi đầu không ngoảnh lại, dù không hẹn ngày về cũng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Xa nhà, nỗi nhớ nhà, nhớ quê, nhớ mẹ già, nhớ vợ con, nhớ người yêu ... tất cả phải gác lại. Ra đi là để giành đất nước, ra đi là để giải phóng quê nhà. (Có thể dẫn chứng: ... Đã là lính cụ Hồ thì người lính nào cũng thế. Như đại tướng Võ Nguyên Giáp, làm cách mạng từ những ngày đầu chống Pháp. Cha bị Pháp tra tấn, chém đầu, vợ bị bắt vào nhà tù Hỏa Lò phải chịu cực hình dã man đến chết. Nén đau thương, đại tướng đã chỉ huy làm nên kì tích cho dân tộc. Đó là tấm gương anh hùng của người lính cụ Hồ mà ai cũng biết. Còn bao nhiêu người vô danh như thế!). Vào quân ngũ, thiếu thốn, gian khổ, hi sinh nhưng lính luôn trẻ trung, yêu đời. Người áo rách, người quần vá chằng chịt. Thời tiết giá lạnh, rừng sâu, nước độc. Những cơn sốt rét hoành hành, trụi cả tóc... Không hề chi. Có tình đồng chí, đồng đội sưởi ấm làm nên sức mạnh để chiến đấu. Chỉ một cái "nắm tay", không cần lời hoa mĩ đã là sức mạnh ghê gớm, đạp bằng mọi gian khổ hi sinh.
- Suy nghĩ của em khi nghe câu chuyện:
+ Họ là những người lính anh hùng trong chiến đấu và chất phác, hiền lành, thắm thiết, nghĩa tình trong cuộc sống hàng ngày.
+ Họ là những thanh niên có lí tưởng cao cả và lạc quan, tin tưởng vào lí tưởng.
+ Nhờ họ, chúng ta mới có đất nước hôm nay.

III. Kết bài: Cảm nghĩ của em khi được gặp gỡ người lính, rút ra bài học cho thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước.

5 tháng 12 2017

1. Phương châm về lượng:

1. Phương châm về lượng: Khi giao tiếp, cần nói có nội dung; nội dung của lời nói phải đúng với yêu cầu của giao tiếp. không thừa, không thiếu.

Ví dụ: An: Học bơi ở đâu? Câu trả lời không đủ nội dung, vừa thừa lại vừa thiếu
Ba: ở dưới nước không đúng với yêu cầu giao tiếp, vì ngay trong từ bơi đã

2. Phương châm về chất:

Trong giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin à đúng hay không có bằng chứng xá thực.

Trong truyện dân gian anh chàng khoe cái nồi để chế nhạo anh khoe quả bí khoác lác
a. Các thành ngữ phê phán về việc giao tiếp không tuân thủ phương châm về chất.
-“ Ăn đơm, nói đặt”: Vu khống, đặt điều, bịa chuyện.
- “ Ăn ốc nói mò”: Nói không có căn cứ
- “ Ăn không nói có”: Vu khống, bịa đặt
- “ Cãi chày cãi cối” Tran cãi không có lý lẽ.
- “ Khua môi múa mép”: Ba hoa, khoác lác
- “ Nói dơi nói chuột”: Nói lăng nhăng, không xác thực.
- “ Hứa hươu hứa vượn”: Hứa để được lòng ngưiơì khác mà không thực hiện.

3.Phương châm quan hệ:

Trong giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
“ Ông nói gà bà nói vịt” (nói không đúng đề tài giao tiếp, mỗi người nói một nẻo)
( Nếu muốn nói sang đề tài khác, người nói thường hay nói “ Nhân tiện đây xin hỏi”

4. Phương châm về cách thức:

Khi giao tiếp cần nói ngắn gọn, rành mạch; tránh cách nói mơ hồ.
Ví dụ: Ăn nên đọi nói nên lời (Khuyên- nói năng rành mạch, rõ ràng).
- Dây cà ra dây muống: Nói năng dài dòng, rườm rà.
- Lúng búng như ngậm hạt thị: Nói ấp úng không thành lời.
- “Tôi đồng ý với những nhận định về truyện ngắn của ông ấy”
Cách hiểu1: Tôi đồng ý với những nhận định của ông ấy về một truyện ngắn nào đó.(ông ấy bổ nghĩa cho “ nhận định”
Cách hiểu2: Tôi đồng ý với những nhận định của ai đó về truyện ngắn của ông ấy. (ông ấy bổ nghĩa cho truyện ngắn).
- Đêm hôm qua cầu gãy (Cách hiểu1:đêm hôm qua đi qua một chiếc cầu gãy.
Cách hiểu2: Đêm hôm qua có 1 chiếc cầu gãy).
5.Phương châm lịch sự: Khi giao tiếp cần chú ý đến sự tế nhị, khiêm tốn và tôn trọng người khác.
Ví dụ: Hỏi tên răng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê răng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
( Vi phạm phương châm: Lịch sự.
Một số câu ca dao, tục ngữ VN khuyên người ta dùng lời lẽ lịch sự, nhã nhặn....
-Tiếng chào cao hơn mâm cỗ - Kim vàng ai nở uốn câu
- Lời nói chẳng mất tiền mua Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lờ
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
- Trong giao tiếp, người nói phải đụng chạm đến thể diện của người đối thoại, để giảm nhẹ sự đụng chạm và để tuân thủ phương châm lịch sự người nói thường dùng cách diễn đạt như: Xin lỗi, có thể anh không hài lòng, nhưng tôi cũng phải thành thực mà nói; tôi nói điều này có gì không phải mong anh bỏ qua cho...
-Nếu người đối thoại không tuân thủ phương châm hội thoại, người kia thường yêu cầu người đối thoại chấm dứt cách nói đó bằng cách nói như: đừng nói leo; đừng ngắt lời như thế...
6.Tình huống vi phạm pcht
(1) Khách: Nóng quá!
- Chủ nhà: - Mất điện rồi.
(2) - Cô gái: Anh ơi! Quả khế chín rồi kìa
Chàng trai: Cành cây cao quá.
- Xét về mặt câu chữ (nghĩa tường minh) thì nó vi phạm phương châm quan hệ. Nhưng trên thực tế đó là cách giao tiếp bình thường được thể hiện ró qua câu trả lời. Nên tình huống này được xem là vẫn tuân thủ phương châm quan hệ.

30 tháng 6 2018

Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám

BÀI LÀM

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt sử kí, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau - năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học cao cấp nhât hồi bây giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự lựa chọn đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kì thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính Bình thứ 16 (tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám - được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỉ XIX. Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu - Quôc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phô" Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có trường vây bôn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Vàn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có 3 cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào năm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Tòa Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ Ư cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho. Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài “nguyên khí của nước nhà” đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh. Điều đáng mừng là trong năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng Thái học đường với giá trị 22 tỉ đồng. Công trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là công trình mới nhằm tôn vinh nền văn hóa của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được những giây phút tưởng niệm những người đã có công sáng lập và xây dựng nền giáo dục Viêt Nam. Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích văn hóa hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Nguon : Thuyết minh về một di tích lịch sử (Văn Miếu Quốc Tử Giám)

1 tháng 7 2018

Chùa Thầy là một cổ tự rất nổi tiếng trên miền Bắc Việt Nam thuộc Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Chùa Thầy được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) gắn liền với huyền tích và công đức của Thiền sư Từ Đạo Hành.

Thời gian đầu chỉ là cái am nhỏ ẩn mình bên hang núi. Sau nhiều lần tu tạo, chùa Thầy ngày một thêm kì vĩ. Khu chính điện của chùa tọa lạc trên một khuôn viên hình chữ nhật, dài 60m, rộng 40m, gồm ba toàn nhà to, dài xây song song hình chữ tam. Hai bên tòa chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao.

Chùa Thầy có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Chùa Thượng có tượng Di Đà Tam Tôn, Bách hoa Đài (bệ đá trăm hoa), ngjt oàn thân Thiền sư Từ Đạo Hạnh nhập định trên toàn sen vàng.

Chùa Trung thờ Tam Bảo. Chùa Hạ chỉ để niệm Phật, lễ bái, cầu siêu, giảng đạo.

Rời chùa Cả, du khách, Phật tư đi qua Nguyệt Tiên Kiều và cổng Bất nhi Pháp môn để lên núi Sài Sơn. Du khách leo qua nhiều bậc đá, đi vào chùa Cao thắp hương, đến hang Thánh Hóa, nơi Từ Đạo Hạnh hóa Phật. Đến thăm hang Các Cớ:

" Ở chùa Thầy có hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy." (Ca dao)

Dân gian tin rằng trai tơ, gái tơ có vào thăm hang Cắc Cớ một lần thì mới có thể tìm được tình duyên đẹp, hạnh phúc ấm êm.

Đứng trên đỉnh núi Sài Sơn nhìn ra bốn phía là thôn xóm lớp lớp gần xa, là màu xanh bát ngát của đồng lúa, là màu trắng lấp lánh của sông Đáy hiền hòa uốn khúc... Cảnh vật sầm uất, dạt dào sức sống của một miền quê thanh bình.

Chùa Thầy còn có Chợ Trời (chợ cõi âm) , nơi cầu may, cầu lộc cho người trần. Bài thơ " Chợ Trời Sài Sơn" được nhiều người truyền tụng:

Hóa công xây đắp đã bao đời, Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời. Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng, Ban chiều mây họp, tối trăng chơi. Bày hàng hoa quả, tư mùa sẵn, Mở phố giang sơn, bốn mặt ngồi. Bán lợi mua danh nào những kẻ, Chẳng lên mặc cả một đôi lời. Hồ Xuân Hương.

Phong cảnh chùa Thầy rất đẹp, có sơn thủy hữu tình, gắn liền với nhiều huyền tích, huyền thoại. Lễ hội chùa Thầy là một lễ hội dân gian lớn nhất, đông vui nhất trong mùa xuân trên miền Bắc nước ta. Dân gian vẫn lưu luyến câu ca, câu hát :

" Nhớ ngày mùng Bảy tháng Ba, Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy"

9 tháng 12 2017
I. MỞ BÀI
– Thanh Hải là nhà thơ miền Nam, hoạt động văn nghệ qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
– Thơ ông để lại nhiều cảm nhận sâu sắc trong lòng người đọc, đặc biệt là bài “Mùa xuân nho nhỏ”.
– Bài thơ này được sáng tác khi ông đang năm trên giường bệnh, nhưng “Mùa xuân nho nhỏ” lại tràn đầy sức sống như một bài ca thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước bước vào xuân và khát vọng sống cao đẹp của nhà thơ. II. THÂN BÀI
1. Giới thiệu chung:
Chảy giữa “Mùa xuân nho nhỏ” là dòng cảm xúc vừa trong trẻo vừa dạt dào, hối hả của nhà thơ trước mùa xuân của đất trời và sức sống của đất nước khi xuân về. Từ những cảm xúc ấy, suy tưởng về mùa xuân của Thanh Hải được đẩy tới những ước nguyện hết sức bình dị nhưng đẹp đẽ và cảm động, ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ hoà vào mùa xuân vĩnh cửu của đất trời.
2. Cảm nhận bài thơ:
KHỔ 1: “Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
– “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc”:
+ Bức tranh xuân xứ Huế đã bắt đầu được hoà phối bởi những gam màu rất đặc trưng ( xanh – tím).
+ Phép đảo trật tư giữa hai câu thơ làm cho tứ thơ động hẳn lên trong sự sinh thành, nảy nở, khởi sắc của sự sống.
+ Một bông hoa tím biếc khiêm nhường dung dị mọc giữa dòng sông xanh dịu dàng, thơ mộng. Trời xanh, nước xanh, in đậm sắc màu cây cỏ thành dòng sông xanh, vừa làm nổi bật màu tím của hoa, lại vừa tạo nên sự hài hoà sắc màu thanh khiết giữa một vũ trụ trong trẻo của đất trời xứ Huế.
( Chỉ vài nét phác hoạ, tác giả đã tái hiện trước mắt ta một bức tranh xuân tươi tắn, thoáng đãng và thoang thoảng hương vị của đất cố đô.
– “Ơi con chim chiền chiện / Hót chi mà vang trời”:
+ Trong cái rạo rực của đất trời tác giả còn nghe được khúc ca xuân vang vọng trong tiếng hót của chim chiền chiện.Tiếng hót ngân vang rót sự sống vào bức tranh xuân tươi vui sống động.
+ Nhà thơ như đang trò chuyện với mùa xuân, tha thiết, đằm thắm ơi…hót chi mà…
+ Câu thơ tràn đầy cảm xúc bởi tình yêu quê hương và thiên nhiên đất trời voà xuân.
– “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng”:
+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, cảm nhận tinh tế, nhạy cảm.
+ Nhà thơ như muốn thu cả mùa xuân vào lòng mình từ tiếng chim trong vắt và long lanh như viên ngọc mùa xuân ban tặng cho đất nước, cuộc sống, con người.
+ Nhà thơ đang trân trọng nâng niu từng nguồn sống bé nhỏ bằng một chỉ đầy khát khao “Tôi đưa tay tôi hứng”. Thanh Hải khát khao ôm lấy sự sống vào mình.
+ Từng giọt long lanh cứ thấm dần vào đôi bàn tay, rồi khẽ chạm vào tâm hồn đang say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp diệu kì của mùa xuân quê hương.
KHỔ 2: “Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
– Trong tình cảm chân thành về quê hương, Thanh Hải chuyển sang mạch xúc cảm về mùa xuân đất nước với cặp hình ảnh sáng tạo “người cầm súng”, “người ra đồng”, đẹp như hai vế đối mừng xuân để nói đến hai lực lượng chủ yếu của cách mạng, biểu trưng cho hai nhiệm vụ của đất nước: chiến đấu và lao động, bảo vệ và xây dựng đất nước.
– Điệp ngữ “lộc”: Thiên nhiên của màu xuân vẫn tươi tắn qua hình ảnh “lộc” non đang có mặt khắp nơi nơi.
– Ý tưởng thơ không mới nhưng hình ảnh thơ lại rất sáng tạo:
+ “Lộc” không nằm trên những cành non
+ “lộc” gắn với người cầm súng ra trận, “lộc” gắn với người nông dân ra đồng.
“Lộc giắt đầy quanh lưng
………………………………….
Lộc trải dài nương lúa”
+ “Lộc” được dùng với hai lớp nghĩa: nhành non và nghĩa ẩn dụ là sức sống, thế vươn lên, sức phát triển……
( Phải chăng hình ảnh mùa xuân) III. KẾT BÀI Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, sáng tạo thể hiện tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; ước nguyện chân thành của nhà thơ là muốn giúp mọi người một mùa xuân nho nhỏ của mìnhvào mùa xuân lớn của đát nước.
9 tháng 12 2017

Thanh Hải là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng nghe được nhiều âm thanh của cuộc sống, Thanh Hải đã dâng cho đời nhiều áng thơ có giá trị. Ngòi bút của ông đã góp phần xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tâm sự của ông trong những ngày cuối của cuộc đời. Tình cảm dạt dào và suy nghĩ sâu lắng trong tâm tư của ông đã gởi gắm vào bài thơ. Đó là tình yêu đất nước bao la, niềm yêu mến thiết tha đối với cuộc sống đang bước vào thời kì xây dựng.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tươi đẹp, về với đất trời đang bước vào mùa xuân mới:

Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc,
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc cùng với tiếng hót trong trẻo của chim chiền chiện. Cảnh mùa xuân ấy gợi ra một không gian tươi mát, dịu dàng và đằm thắm. Cảnh vật mùa xuân đã làm tác giả dâng lên một niềm cảm xúc. Tiếng ơi trong câu thơ là hô ngữ, là từ gợi cảm biểu lộ sự thân thiết, yêu thương. Hai tiếng hót chi là cách, nói dịu ngọt của người dân xứ Huế đã làm tăng tính biểu cảm của vần thơ. Tác giả đã mượn tiếng chim hót để biểu lộ cảm xúc của mình về bức tranh mùa xuân. Tác giả không chỉ biểu lộ sự trân trọng, nâng niu những cái đẹp trong mùa xuân ấy:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Động từ hứng đã diễn tả được tâm trạng của tác giả trước cảnh sắc mùa xuân. Có ai ngờ tiếng chim hót vang trời lại đọng thành giọt long lanh rơi xuống? Phải chăng đây không chỉ là âm thanh của tiếng chim mà là âm thanh của mùa xuân, âm thanh của cuộc sống đang khơi dậy trong lòng tác giả? Tâm hồn nhà thơ đang chan hòa cùng cuộc sống, cùng mùa xuân tươi đẹp một cách bất ngờ.
Từ mùa xuân của đất trời, cảm xúc thơ chuyển sang mùa xuân của đất nước một cách tự nhiên:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trài dài nương mạ.

Đây là hình ảnh của đất nước với hai nhiệm vụ chiến lược: chiến đấu và sản xuất. Mùa xuân của đất nước hòa cung niềm vui trong chiến đấu và niềm vui trong lao động sản xuất. Lộc là hình ảnh của mùa xuân. Đó là chồi non, cành biếc mơn mởn. Lộc là sự sinh sôi, nảy nở, là sức sống mãnh liệt đang vươn lên. Trong chiến đấu, lộc giắt đầy quanh lưng là hình ảnh người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc để che mắt quân thù và còn là biểu tượng của sức sống mùa xuân, là sức mạnh của dân tộc. Trong sản xuất, lộc trải dài nương mạ là hình ảnh của sự lao động cần cù đã làm nên một màu xanh bát ngát ruộng đồng. Người nông dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân đất nước. Hậu phương và tiền tuyến luôn song hành. Người cầm súng và người nông dân lao động, đều đem đến mùa xuân cho đất nước giữa mùa xuân của đất trời. Cả dân tộc đang bước vào mùa xuân với tâm thế khẩn trương và hào hứng:

Tất cả như hổi hả
Tất cả như xôn xao.

Hối hả, xôn xao là những từ láy diễn tả sự gấp gáp, khẩn trương, náo nhiệt. Cặp từ láy ấy cùng với điệp ngữ tất cả như… làm cho câu thơ vang lên nhịp diệu vui tươi, mạnh mẽ. Đó là hình ảnh đất nước và dân tộc đang bước vào mùa xuân của thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong mùa xuân tươi đẹp ấy tác giả không quên suy ngẫm về quá khứ của đất nước và cội nguồi dân tộc:

Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Tác giả đã bộc lộ niềm cảm thụ và tự hào về đất nước. Chặng đường lịch sử đã qua với bao gian lao, vất vả. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, sức mạnh dân tộc được khẳng định, đất nước vẫn trường tồn và đi lên. Đất nước như vì sao là sự so sánh đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng vô tận, là vẻ đẹp của vũ trụ, vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Đây là niềm tự hào về đất nước Việt Nam anh hùng, bất diệt.

Đất nước ấy luôn lớn mạnh, đi lên từng ngày. Hành trình đi tới tương lai của đất nước vẫn không ngừng, cứ đi lên là sự thể hiện chí khí, quyết tâm của dân tộc Việt Nam.

Trước mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, sự đi lên của cuộc sống, tác giả khát khao được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa .
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Điều tâm niệm của tác giả thật chân thành sâu sắc. Con chim hót, một cành hoa là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Một nốt trầm trong giàn hợp xưởng là âm thanh mà mọi người đều thích nghe. Tác giả muốn làm việc, muốn cống hiến cho cuộc đời, cống hiến cho đất nước. Điệp từ một trong đoạn thơ diễn tả sự ít ỏi, khiêm tốn nhưng hình ảnh con chim, cành hoa, nốt trầm cuối cùng dã dồn vào hình ảnh thật đặc sắc:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Khát vọng của tác giả tuy ẩn chứa sự khiêm nhường qua hình ảnh nho nhỏ, lặng lẽ nhưng thể hiện một tiếng lòng cao cả, thể hiện một nhân sinh quan cao đẹp: phải cống hiến cho đất nước, dù là nhỏ bé, và phải không ngừng cống hiến cho cuộc đời. Mỗi con người hãy là một mùa xuân nho nhỏ để làm nên mùa xuân bất diệt của đất nước. Một xã hội tốt đẹp thì mỗi con người phải tốt đẹp. Đây là điều tâm niệm và khát vọng của nhà thơ trước lúc đi xa vĩnh biệt cuộc đời.

Cảm xúc chân thành của nhà thơ không chỉ dừng lại ở khát vọng về cuộc sống, tâm niệm về cuộc đời, tình cảm đối với quê hương, đất nước mà còn thể hệ qua khúc hát yêu thương:

Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế, phách tiền là một nhạc cụ dân tộc điểm nhịp cho lời ca. Hình ảnh xin hát diễn tả tình yêu thương, gắn bó với quê hương, sự khao khát về cuộc sống mùa xuân. Tiếng hát ở đây cũng là tiếng lòng của tác giả, nó ngọt ngào sâu lắng và gây được sự đồng cảm với tất cả mọi người.

Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ đặc sắc. Với thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang, âm hưởng nhẹ nhàng xuyên khổ thơ, tác giả đã bộc lộ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muôn được dâng hiến cho cuộc đời trước lúc đi xa.