K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 11 2018

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/qua-hai-van-ban-tuc-nuoc-vo-bo-va-lao-hac-hay-viet-doan-van-neu-cam-nghi-cua-minh-ve-nguoi-nong-dan-viet-nam-truoc-cach-mang-thang-tam-1945-c35a1575.html#ixzz5V07LdjMt

5 tháng 11 2018

Nhà văn Nam Cao và Ngô Tất Tố là những nhà văn xuất sắc chuyên viết về những
người nông dân nghèo khổ trong thời thực dân nửa phong kiến. Tiêu biểu nhất là ở tác
phẩm Lão Hạc và đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ được trích trong tiểu thuyết Tắt Đèn. Có
tác phẩm thì viết về một lão nông nghèo khổ, có tác phẩm viết về người phụ nữ nông dân.
Song ở họ đều có những điểm chung, đó là ở cuộc sống nghèo khổ của người nông dân
và tính cách với vẻ đẹp cao quý của họ.
Với Tắt Đèn, Tắt Đèn là một tiểu thuyết được ra đời trong sự mong mỏi của nhiểu
bạn đọc. Dưới chế độ cai trị thực dân nửa phong kiến, dưới sự áp bức cường quyền,
người đọc có thể hình dung ra được một bức tranh sầu thảm của người nông dân xã hội
cũ trong tác phẩm. Chỉ trong đoạn trích Tức Nước Vỡ Bờ được trích trong chương IV
tiểu thuyết Tắt Đèn, bức tranh đã hiện lên gần như rõ nét về số phận cay đắng của chị
Dậu. Gia đình chị Dậu thuộc hạng nghèo nhất nhì rong làng. Một ngày lo ba bữa cơm đã
khó, bữa đói bữa no, lại phải chạy vạy khắp nơi lo suất thuế thuân cho chồng. Thuế người
sống đã đành bây giờ lại phải thêm suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái.
Chỉ là cái sự nhập nhằng giữa lịch Tây lịch Ta, chị Dậu đã phải chịu oan ức mà không thể
nào bày giải được. Nhà chẳng còn gì, chị đành phải bán đi giọt máu của mình - cái Tý,
chẳng có người mẹ nào lại chịu rời xa đứa con mà mình đứt ruột đẻ ra....nhưng chị Dậu lạ
phải chịu cảnh đắng cay ấy. Và rồi, chị đã bị dồn vào đường cùng, con đường hi sinh để
bảo vệ tính mạng gia đình.
Nghèo khổ cũng là một cái tội, nó đeo bám chị Dậu dai dẳng mà còn đeo bám cả
Lão Hạc - một lão nông nghèo goá vợ. Lão Hạc chỉ có một đứa con trai là độc nhất.
Nhưng rồi cái nghèo, cái khổ đã đem nó rời xa Lão. Sau khi vợ chết, hai cha con lão sống
lay lắt, bữa cơm, bữa cháo. Rồi khi cậu con trai đến tuổi lập gia đình, tưởng mọi chuyện
sẽ êm xui nhưng nào ngờ nhà gái thách cưới cao quá, mà Lão Hạc không thể lo nổi một
số tiền lớn để con cưới vợ. Phẫn chí, anh ta bỏ nhà đi đồn điền cao su xa, bỏ người cha
già cô độc ở nhà với "cậu Vàng". Lời của anh trước lúc đi làm xa đã nói lên suy nghĩ của
biết bao con người nghèo khổ "Không có tiền, sống khổ, sống sở trong cái làng này, nhục
lắm". Vì thế, anh ta quyết tâm "kiếm bạc trăm" mới trở về. Vẫn không tha, cái nghèo đã
cướp đi luôn nguồn an ủi, người bạn động viên cuối cùng của lão - cậu Vàng. Đó là kỉ vật
mà con trai lão đã để lại cho lão. Nhưng trớ trêu thay, sau một trận ốm dữ dội, lão mất đi
tất cả, từ sức khoẻ đến của cải. Cuộc đới của Lão Hạc bắt đầu khốn khổ dần từ đây.
Như vậy, chỉ với vài chục trang văn mà ta có thể hình dung khá rõ sự bần cùng,
khốn nạn về cuộc đời của người nông dân trước Cách Mạng tháng Tám. Tuy cuộc sống
khốn khổ đó đè lên đôi vai gầy guộc của họ nhưng ánh sáng le lói vẫn chiếu sáng tâm hồn
của họ, một tâm hồn cao quý, sự lạc quan và lòng tự trọng của chị Dậu và Lão Hạc luôn
toả sáng.
Tuy nhiên, dù rất đau xót và thương cảm với những mảnh đời cay đắng, căm ghét
tận xương tuỷ bọn lệ nhưng Nam Cao và Ngô Tất Tố vẫn không quên xâu dựng hình ảnh
nhân vật bằng cả trái tim yêu thương của chính mình. Cả chị Dậu và Lão Hạc đề là nhân
vật điển hình cho những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam. Chị Dậu tần
tảo, chu đáo lo cho cả gia đình mà chồng thì luôn đau ốm nên mọi việc trong nhà đều do
một tay chị quán xuyến. Trong khi Lão Hạc cố gắng kím thêm việc làm để có cái ăn, sẵn
sàng ăn củ chuối hoặc bất kì thứ gì mà lão có thể "chế biến". Miễn là không đụng vào tiền
của con. Sự hi sinh cao cả, chịu thương chịu khó đó là phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân.
Như nhữn người nông dân khác, cả Lão Hạc và chị Dậu đều có lòng vị tha, trong
khi chị Dậu sẵn sàng hi sinh tấm thân để bảo vệ chồng trước sự nguy hiểm thì Lão Hạc
dành trọn cả một cuộc đời để lo cho đứa con trai mà mình hết mực yêu quý. Thậm chí,
nếu lão chết thì lão vẫn cam lòng miễn là con trai lão không phải cực khổ.
Ở Lão Hạc và chị Dậu đều ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đấu
tranh bảo vệ gia đình của mình. Chị Dậu dám đứng lên chống lại bọn cai lệ hách dịch vì
hắn quá nhẫn tâm và có ý định hãm hại chồng mình. Bằng nững hành động, cử chỉ ấy, chị
quyết tâm bảo vệ mái ấm bé nhỏ, hạnh phúc nhỏ nhoi ấy bằng cả tính mạng mình. Thế
nhưng, Lão Hạc không giống như thế. Nếu người phụ nữ làng Đông Xã vùng lên để được
sống thì Lão Hạc lại chấp nhận sự đấu tranh, sự vùng lên có thể cướp mất cả cuộc đời của
Lão để rồi lão chết - một cái chết đau thương và thật dữ dội. Một cái chết chỉ để giữ lấy
mảnh vườn cho con để khỏi phải làm phiền hà hàng xóm.
Nói tóm lại, số phận của người nông dân được tác giả Nam Cao và Ngô Tất Tố
miêu tả vô cùng sâu sắc. Mặc dù cả hai tác phẩm đều chưa được ánh sáng của Cách Mạng
chiếu rọi nhưng chúng vẫn sáng ngời, hình ảnh của chị Dậu và Lão Hạc luôn chói loá trên
cái tối trời tối đất. Lật từng trang giấy, đọc từng câu văn, người đọc có thể cảm nhận
được cuộc dời khốn khổ và phẩm chất của Lão Hạc và chị Dậu một cách chân thực nhất.

7 tháng 10 2017

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

7 tháng 10 2017

đúng nhưng hơi ngắn bạn à

12 tháng 9 2019

Tham khảo:

Việt Nam, đất nước nông nghiệp, cái nôi của nền văn minh lúa nước. Trước cách mạng tháng Tám hơn 90% dân số sống bằng nghề nông. Và từ buổi đầu khi văn học ra đời và phát triển, đề tài người nông dân đã trở thành mảnh đất tốt để ươm lên những mầm cây văn học với những tác phẩm đặc sắc. "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố và "Lão Hạc" của Nam Cao là hai tác phẩm như vậy. Đọc những sáng tác này ta thấy vẻ đẹp toả sáng trong tâm hồn của tầng lớp lao động: "Mặc dù gặp nhiều đau khổ bất hạnh nhưng người nông dân trước cách mạng tháng Tám vẫn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình".

Trước hết đọc hai văn bản điều làm ta ấn tượng về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám chính là cuộc sống đau khổ, bất hạnh với cảnh lầm than khổ cực.

Chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn "cơm không đủ no, áo không đủ mặc". Gia đình chị đã "lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh". Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ... Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh "nửa đêm thuế thúc trống dồn" không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại "người nhà nước". Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

Nếu đọc "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, ta cảm thương cho thân phận của người phụ nữ nông dân dưới chế độ phong kiến thực dân bao nhiêu thì khi đọc "Lão Hạc" của Nam Cao ta lại càng thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có "cậu Vàng" làm bạn. "Vàng" là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít...". Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xong. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão "vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra...". Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra.

Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.

Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản "Tức nước vỡ bờ" hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt..." đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.

Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng suy nghĩ đầy ý thức "Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được". Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang "xui người nông dân nổi loạn" (theo nhận xét của Nguyễn Tuân) để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, "Tức nước vỡ bờ".

Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào "luồng chưa ai khơi" trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.

Lão Hạc còn là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.

Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.

Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cảo quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.

12 tháng 9 2019

Tham khảo:

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc được sáng tác theo phong cách hiện thực, phản ánh cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ. Họ là người sống khổ cực vì bị áp bức bóc lột nặng nề, phải chịu sưu cao thuế nặng. Cuộc sống của họ lâm vào cảnh bần cùng, bế tắc. Tuy vậy, họ có những phẩm chất đáng quý là trong sạch, lương thiện, giàu tình thương yêu. Họ quyết liệt phản kháng hoặc thậm chí dám chọn cái chết để giữ gìn phẩm chất trong sạch của mình. Điều đó cho thấy: người nông dân trong xã hội cũ tiềm tàng một sức mạnh của tình cảm, một sức mạnh phản kháng chống lại áp bức, bất công.

26 tháng 11 2019

ko bieets

26 tháng 11 2019

trong tay lão hac có câu vàng thì chả phải lo .  Còn chị Dậu cháu chịu

nỗi đau đớn và vẻ đẹp của người nông dân trước cách mang tháng 8 qua hình tượng nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn"(Ngô Tất Tố) và lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.hướng dẫn làm bài:A. Mở bài:Gới thiệu nhân vật chị Dậu với tác phẩm tắt đèn của Ngô Tất Tố và nhân vật lão Hạc với tác phẩm lão Hạc của Nam CaoB. Thân bài:- phân tích số phận của chị Dậu và...
Đọc tiếp

nỗi đau đớn và vẻ đẹp của người nông dân trước cách mang tháng 8 qua hình tượng nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn"(Ngô Tất Tố) và lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.

hướng dẫn làm bài:

A. Mở bài:

Gới thiệu nhân vật chị Dậu với tác phẩm tắt đèn của Ngô Tất Tố và nhân vật lão Hạc với tác phẩm lão Hạc của Nam Cao

B. Thân bài:

- phân tích số phận của chị Dậu và lão Hạc để thấy được nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần của họ (nêu dẫn chứng)

- phân tích những phẩm chất làm nên vẻ đẹp của người nông dân: lão Hạc đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con. Chị Dậu thông minh, đảm đang, tháo vát, yêu thương chồng con,...(nêu dẫn chứng)

- khái quát: về chị dậu và lão Hạc chính là hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng tám, họ bị xã hội phong kiến bần cùng hóa, đau đớn về thể xác lẫn tinh thần... nhưng tâm hồn họ vẫn trong sáng, thủy chung, giàu lòng tự trọng,....Đoa là nét đẹp ngàn đời của người nông dân Việt Nam...

C. Kết bài:

- suy nghĩ về ssoa phận người nông dân trước cách mạng tháng 8.

-liên hệ hình ảnh người nông dân ngày nay

 

 

 

 

 

 

0