K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

17 tháng 7 2017

Với sự quan sát tinh tế, chắt lọc những hình ảnh đặc sắc, Vũ Bằng đã tái hiện một mùa xuân đặc trưng xứ Bắc. Ở đó có vẻ đẹp của thiên nhiên căng tràn nhựa sống, có niềm vui của con người trong không khí nô nức đón xuân về, đoàn tụ gia đình ấm áp. Đó là những nỗi nhớ niềm thương với những đứa con xa quê trong ngày xuân sang.

27 tháng 3 2018

Nỗi nhớ da diết của con người xứ Bắc xa quê, tác giả đã thể hiện chân thực cảnh mùa xuân miền Bắc với những ấn tượng chân thật, êm đềm, ngọt ngào.

     + Những cảm nhận tha thiết, tinh tế chỉ có được ở những người yêu quê hương tha thiết

     + Cảnh mùa xuân trên đất Bắc là sự giao hòa trọn vẹn của trời đất, con người.

13 tháng 12 2021

`text{Nỗi nhớ da diết của con người xứ Bắc xa quê, tác giả đã thể hiện chân thực cảnh mùa xuân miền Bắc với những ấn tượng chân thật, êm đềm, ngọt ngào.}`

`text{+ Những cảm nhận tha thiết, tinh tế chỉ có được ở những người yêu quê hương tha thiết}`

`text{+ Cảnh mùa xuân trên đất Bắc là sự giao hòa trọn vẹn của trời đất, con người.}`

1 tháng 12 2017

ũ Bằng (1913-1984) là một nhà văn có cuộc đời đặc biệt. Sinh trưởng ở Hà Nội, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông lên chiến khu, ít lâu sau lại về sống ở Hà Nội, vùng địch tạm chiếm, chịu tiếng là "dinh tê". Năm 1954, để lại người vợ xinh đẹp nết na, ông di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn cho đến lúc mất (1984). Vào thời ấy, ông làm sao tránh được dị nghị nặng nề. Mãi sau khi mất, ông mới được chiêu tuyết: Các nhân chứng xác nhận ông là một cơ sở trong tổ chức tình báo cách mạng. Thầm lặng hy sinh cuộc sống riêng tư, danh dự, thậm chí cả mạng sống vì sự nghiệp giải phóng dân tộc là con đường chung của các nhà tình báo cách mạng, trong đó có Vũ Bằng. Và phải chăng, cho tới tận bây giờ còn có bao điều bí ẩn về ông mà ta không thể nào biết được. Trong các nhà văn hiện đại ViệtNam, liệu còn ai có cuộc đời giống Vũ Bằng không?

Văn của Vũ Bằng cũng thật độc đáo, thật ám ảnh. Hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống con người Hà Nội, miền Bắc trong 12 tháng của một năm, được tái hiện vô cùng sống động với nỗi nhớ thương da diết và tấm lòng trìu mến vô hạn của tác giả qua tập tùy bút "Thương nhớ mười hai". "Mùa xuân của tôi" (sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1) là đoạn mở đầu chương một: "Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt" của thiên tùy bút đó. Chứa chan cảm xúc trữ tình xen yếu tố chính luận và chất suy tưởng, kết cấu tương đối hoàn chỉnh, đây có thể coi là một bài văn mẫu mực cho thể loại tùy bút.

Ba câu văn mở đầu, người đọc đã bị "thôi miên" bởi giọng văn chính luận - trữ tình của tác giả: "Tự nhiên là thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân".

"Chuộng", "trìu mến", "mê luyến", trình tự xuất hiện của ba từ theo cấp độ tăng dần đã nói lên cung bậc tình cảm của con người đối với mùa xuân. Đó là thứ tình cảm "tự nhiên như thế", "không có gì lạ hết". Sau hai câu văn khẳng định là câu văn giả định để khẳng định với những cụm từ hô ứng mà vế đầu được điệp lại tới bốn lần: "Ai bảo được, ai cấm được", "thì mới hết được"... Cùng sự chắc nịch của lý trí tỉnh táo là độ mê say của tình cảm qua những hình ảnh đời sống trong mối tương quan gắn bó: non thương nước, bướm thương hoa, trăng thương gió, trai thương gái, mẹ yêu con, cô gái còn son nhớ chồng. Hơi văn liền mạch, lời văn dồn dập... Tất cả những yếu tố ngôn từ đó đã khẳng định tình cảm của con người đối với mùa xuân là một quy luật tự nhiên, tất yếu.

Một nét xuân xứ Bắc (ảnh chụp tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội). Ảnh: Minh Thăng.

Phần tiếp theo là cảnh sắc, không khí mùa xuân đất trời và lòng người được tái hiện qua những hình ảnh và cảm xúc thương yêu vô hạn của tác giả. Đây là "mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội" trong ký ức của một người xa xứ - thân ở phương Nam mà tâm hồn vẫn tìm về xứ Bắc, nên nó thiêng liêng như chính tác giả gọi tên: "Mùa xuân thần thánh". Chỉ với hai câu văn tả ít, gợi nhiều, nhà văn đã thu hết cả hồn vía của cảnh vật mùa xuân: "Sông xanh, núi tím; mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..." và đặc biệt là hình ảnh "trời đất mang mang" được gợi ra từ cảm nhận tinh tế. Có hình ảnh ngày nay đã không còn nữa, nhưng đa phần thuộc về cảnh của mùa xuân muôn thuở, trong kí ức mà cũng là hiện tại, tương lai... Gần gũi thân thuộc mà sao bây giờ ta mới cảm nhận hết chất thơ mộng, huyền ảo của nó qua lời văn dịu ngọt của ông.

Gợi cảnh đã khó, gợi tình còn khó hơn; bởi cảm xúc thường vụt đến, rồi đi và dễ bị những từ ngữ chung chung làm sáo mòn, đơn điệu. Vũ Bằng đã vượt qua cửa ải của sự tầm thường bằng việc cụ thể hóa cảm xúc của con người trước mùa xuân qua những phép so sánh: "Ngồi yên không chịu được", "đi ra ngoài vào những lúc đất trời mang mang", "tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rưọu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống", "nhựa sống trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh". Và đây là một so sánh rất bạo - so sánh tình người với hành vi của động vật: "Y như những con vật nằm thu mình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng "sống" lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời ai cũng muốn yêu thương..."

Mùa xuân thường đến vào dịp Tết. Cái Tết của xứ Bắc có nét khác mọi miền, nó được chuẩn bị kỹ càng hơn, được "bầy biện" cầu kì hơn. Cái tài của nhà văn là ông không hề nhắc đến một chữ "Tết" nào mà ta vẫn hình dung ra cảnh đón Tết trong mỗi gia đình. Không phải mâm cao cỗ đầy, mà là cái không khí bao trùm. Đó  là ánh sáng của đèn nến, hương thơm của nhang trầm, bầu không khí đoàn tụ êm đềm trên kính dưới nhường, là tình cảm tín ngưỡng, tâm linh... Tất cả khiến cho lòng người cảm thấy "ấm lạ lùng", "như có không biết bao nhiêu là hoa nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan".

Phần cuối của bài văn, tác giả tập trung miêu tả nét riêng của thiên nhiên và không khí mùa xuân từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch. Ngòi bút đặc biệt tinh tế đã phát hiện và miêu tả sự thay đổi, chuyển biến của màu sắc và không khí đất trời, cây cỏ: "Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác...", "trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn thiên lí, vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột". Màu sắc, hương thơm và ánh sáng của mùa xuân ở trong khoảng thời gian ngắn ngủi ngay sau rằm tháng giêng - giống như thời gian bản lề giữa đầu xuân và cuối xuân - đã cho ta cái cảm giác mùa xuân đang chín. Đoạn văn miêu tả chứa đựng những hình ảnh chọn lọc của không gian trong những thời điểm thời gian cụ thể và thấm đượm tâm tình tác giả. Có lúc, không kìm nổi lòng mình, ông đã thốt lên tiếng gọi mùa xuân như tiếng xuýt xoa khen tặng người thân: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi!".

Những dòng cuối cùng của đoạn văn giống như cánh màn khép lại sau khi tác giả đã cho ta chu du trong tâm hồn cùng cảnh sắc mùa xuân. Cuộc sống êm đềm thường nhật sau khi Tết đã hết, xuân đã tàn qua ngòi bút của ông không phải là không thi vị khiến cho người đọc không cảm thấy hẫng hụt:

"Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm hóa vàng và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật".

Cảnh sống đơn sơ mà thanh cao, êm đềm mà hạnh phúc của người Hà Nội, của xứ Bắc vừa "niêm phong" lại mùa xuân tươi đẹp, vừa mở ra một trạng thái mới của đời sống, như một sự tiếp nối trong vòng tuần hoàn của thời gian.

Văn Vũ Bằng thật sinh động, cuốn hút. Cảnh và tình hòa quyện, khơi gợi. Những câu văn dài, có nhịp điệu và chứa đầy hình ảnh so sánh mới lạ để làm nổi bật lên không khí, cảnh vật và nỗi lòng quen thuộc. Là cảm nhận của riêng ông, nhưng lay động tiềm thức, tư duy, tình cảm của tất cả chúng ta. Không có tình cảm tha thiết nồng nàn với quê hương đất nước, với cuộc sống dân tộc, không có cảm nhận tinh tế, sâu sắc và tài năng ngôn ngữ, không thể nào có được những trang văn về mùa xuân đẹp và xúc động lòng người đến thế! Chao ôi! Người như thế, văn như thế, không đáng để ta ngưỡng mộ lắm sao?

1 tháng 12 2017

Bằng ngòi bút tài hoa, tinh tế, nhà văn Vũ Bằng đã mang lại cho người đọc một bức tranh thiên nhiên với những cảnh sắc rất đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Ở đó có vẻ đẹp của thiên nhiên tràn đầy sức sống và hương sắc mùa xuân tràn ngập khắp cả không gian đất trời; có niềm vui của con người khi được sống trong bầu không khí đoàn tụ ấm áp của gia đình vào những giờ phút vô cùng ý nghĩa: khép lại một năm cũ và đón chào một năm mới.

27 tháng 7 2017

- Bài tuỳ bút này tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân trong tháng giêng ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người con xa quê.

- Khi viết tác phẩm này, tác giả đang sống ở miền Nam, vì điều kiện công tác phải xa Hà Nội, xa miền Bắc.

6 tháng 7 2019

- Qua việc tái hiện những cảnh sắc và không khí ấy đã thể hiện tác giả là một người am tường những phong tuc tập quán, những nét văn hóa trong tâm hồn người xứ Bắc. Đồng thời thể hiện sự quan sát tinh tế những thay đổi của thiên nhiên.

30 tháng 11 2021

Cho mình xin tên văn bản nha

6 tháng 4 2019

- tác giả tuy ở xa nhưng vẫn còn nhớ về những phong tục, thời tiết... của mùa xuân nơi đất Bắc

=> yêu quê hương tha thiết và muốn trở lại quê hương

- miêu tả chi tiết cảnh vật quê hương

=> hình ảnh quê khắc sâu trong tâm trí

- nhớ rõ phong tục tốt đẹp

=> quan sát tỉ mỉ, chi tiết

Sự cảm nhận tinh tế trong từng chi tiết miêu tả ngoại cảnh cho thấy tác giả ko chỉ là ngươi am hiểu thiên nhiên mà còn rất yêu thiên nhiên, biết trân trọng cuộc sống và tận hưởng những vẻ đẹp cuộc sống đơi thường rất đỗi than thương của miền Bắc.

Khơi dậy tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cuộc sống tinh hồn tinh tế nhạy cảm của một cây bút tài hoa truyềng cho chúng ta.

21 tháng 1 2022

ình ngu văn huhuhu

 

21 tháng 1 2022

8 đến 10 câu nhé

 

23 tháng 12 2016

“Mùa xuân của tôi” trích từ đầu thiên tùy bút "Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt” – một bài tùy bút hay trong tập tùy bút – bút ký nổi tiếng "Thương nhớ mười hai" của Võ Bằng. Nó là niềm thương nỗi nhớ mà nhà văn gửi về Bắc Việt, gửi về quê hương, gia đình yêu dấu của mình.

Thiên tùy bút được viết trong hoàn cảnh đất nước bị cắt chia, tác giả lại đang sống xa quê hương Bắc Việt. Vì thế mà dường như tháng giêng, mùa xuân Hà Nội và mùa xuân Bắc Việt luôn cồn lên trong niềm thương nhớ của Vũ bằng.

“Mùa xuân của tôi" mở đầu bằng những dòng, văn so sánh đầy trìu mến. Ai cũng chuộng mùa xuân. Vũ Bằng cắt nghĩa đó là một tình cảm rất nhân tình "không có gì lạ hết" và không ai có thể ngăn cản được. Đoạn văn ngắn mà có tới bốn chữ thương gắn với chữ yêu và chữ nhớ đủ mới lên sự ngọt ngào và cuốn hút của mùa xuân.

Người ta yêu xuân theo nhiều cách, riêng Vũ Bằng yêu mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân Hà Nội theo những cảm nhận rất riêng. Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ, nơi ấy có vợ con, có gia đình ông, nơi ông có nhiều năm xa cách là mùa xuân có mưa rêu rêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng.,.”. Tình thương và nỗi nhớ của Vũ Bằng quả là tinh tế nồng nàn và cháy bỏng. Nó trải ra khắp cảnh sắc, con người, từ thôn xóm đến bầu trời, từ tiếng trống trèo đến những câu hát mê đắm lòng người của những cô thôn nữ.

Mùa xuân không chỉ được nhìn, được nghe mà mùa xuân còn hiện vẻ rõ rệt trong tâm hồn của Vũ Bằng thông qua cảm nhận. Nó là nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai". Trong "cái rét ngọt ngào" của mùa xuân, "tim người ta dường như trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn. Và hình như nó khiến người ta "thèm khát yêu thương thực sự". Trong không khí ấy, người ta mơ về ngoài đoàn tụ êm đềm cùng gia đình giữa ngày xuân. Chỉ cần nghĩ đến như thế, nghĩ đến lúc đứng trước bàn thờ của ông bà thắp nén nhang trầm và cây đèn nến mà "lòng anh ấm lạ ấm lùng”. Nó mở ra bao nhiêu vui sướng, hạnh phúc và say mê. Ôi! Cái tình đối với mùa xuân, đối với gia đình sao mà da diết.

Yêu mùa xuân quê hương, nhưng tác giả yêu nhất mùa xuân "là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng. Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong…". Mùa xuân quả thực rất đê mê và đầy sức sống. Lúc ấy nếu ngồi giữa trời xuân mà thưởng một món ngon rẻ tiền mà dân dã thì tuyệt diệu biết nhường nào. Lúc ấy mùa xuân còn về với hồn ta trong hương, trong vị.

Mùa xuân của tôi là một áng văn rất tài hoa. Câu chữ văn phong rất mượt mà, uyển chuyển, ngọt ngào mơn man như chính cái đẹp mùa xuân. Bài tuỳ bút là tình yêu quê hương da diết, nồng hậu và đắm say. Nó là những kỷ niệm và cũng là ước mơ non sông được thống nhất, người người được sum họp êm ấm cùng với gia đình, làng xóm, quê hương.

Chúc học tốt Trần Nga