K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 11 2021

- Tình cảm nhân đạo là một nét truyền thống sâu đậm của văn học Việt Nam.
- Tình cảm nhân đạo trong văn học đã phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn mà chế độ
phong kiến bộc lộ sự khủng hoảng trầm trọng như ở thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX.
Văn học giai đoạn này đã thể hiện nỗi thống khổ và số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp
người trong xã hội đầy rối ren, li loạn. Nhiều tác phẩm đã lên tiếng mạnh mẽ bênh vực
cho quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về
hạnh phúc, mơ ước tự do và ý thức về cá tính nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của
tư tưởng và lễ giáo phong kiến.
- Tiêu biểu cho tư tưởng, tình cảm này có thể kể đến các tác giả với những tác
phẩm kiệt xuất là kết tinh của nhiều thế kỉ văn học dân tộc: Nguyễn Du với Truyện Kiều,
Hồ Xuân Hương với thơ Nôm, Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần
Côn– Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc…
II/ Phân tích, chứng minh qua các văn bản “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương; “Sau
phút chia li” của Đặng Trần Côn– Đoàn Thị Điểm…
- Ca ngợi phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống của con người, đặc biệt là
người phụ nữ.
+ Vẻ đẹp hình thể đầy đặn duyên dáng, tâm hồn trong sáng của người phụ nữ
thôn quê (Dẫn chứng).
- Phản ánh với nỗi thống khổ, số phận chìm nổi của nhiều tầng lớp người trong xã
hội đầy rối ren, li loạn.
+ Số phận “bảy nổi ba chìm”, long đong, lận đận như thân cò tội nghiệp. (Dẫn
chứng)
+ Cảnh ngộ đôi lứa chia li đầy bi kịch vì chiến tranh loạn lạc, người vợ thương
chồng phải dấn thân vào “cõi xa mưa gió”, và tủi phận cho mình phải sống lẻ loi, cô đơn
một mình một bóng suốt năm canh . (Dẫn chứng).
4 - Tố cáo sâu sắc, đanh thép xã hội phong kiến bất công tàn bạo, đặc biệt là lễ giáo
phong kiến.
- Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, dù cao sang hay thấp hèn đều phụ
thuộc vào quyền định đoạt lễ giáo “tam tòng” hà khắc. ( Dẫn chứng).
- Những cuộc chiến tranh phi nghĩa của các tập đoàn phong kiến đương thời đã đẩy
đất nước vào “cơn gió bụi”, khiến đôi lứa phải chia lìa. (Dẫn chứng).
- Lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người, đặc biệt là người
phụ nữ, đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước tự do và ý thức về cá tính
nhiều lúc đã vượt ra ngoài khuôn phép của tư tưởng và lễ giáo phong kiến.
+ Ca ngợi phẩm chất thủy chung, son sắt, chịu thương chịu khó của người phụ nữ.
(Dẫn chứng).
+ Trân trọng khát vọng được sống trong tình yêu hạnh phúc, trong hòa bình yên vui. (Dẫn chứng).

26 tháng 11 2021

Thank you

18 tháng 10 2021

Em tham khảo:

Sông núi nước Nam

I. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược tác phẩm Sông núi nước Nam và tác giả Lí Thường Kiệt.

II. Thân bài: nêu cảm nghĩ về tác phẩm Sông núi nước Nam


 
1. Cảm nghĩ về câu thứ nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”

- Tác giả khẳng định người Nam phải ở nước Nam.

- Vua Nam thì phải ở nước Nam.

- Đã phân định rõ ràng vêc chủ quyền và lãnh thổ.

2. Cảm nghĩ về câu thứ hai: “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

- Tác giả khẳng định rằng chủ quyền này đã được định rõ ở sách trời.

- Tác giả thể hiện được chân lí sống, chân lí lẽ thường tình.

- Sự xâm lược của các nước khác là sai lầm.

3. Cảm nghĩ về câu thứ ba: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”

- Tác giả giận dữ và có thái độ khinh bỉ đối với kẻ thù.

- Tác giả cho rằng địa phận nước ta tại sao dám xâm lăng.

- Thể hiện sự căm thù giặc sâu sắc của tác giả.

4. Câu cuối cùng: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

- Tác giả cảnh cáo rằng làm trái sách trời sẽ bị quả báo.

- Khẳng định lại một lần nữa chủ quyền của mình.

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước Nam

Phò giá về Kinh:

1. Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả Trần Quang Khải: Là người "văn võ song toàn", không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông - Nguyên mà còn là nhà thơ với những bài thơ đặc sắc
- Giới thiệu vài nét về Phò giá về kinh (Tụng giá hòa kinh sư) và nêu vấn đề cần nghị luận: Tinh thần yêu nước

2. Thân bài

a. Hai câu thơ đầu
* Tinh thần yêu nước thể hiện trong niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi tác giả cất lên bài ca chiến thắng: "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" (Chương Dương... quân thù)
- "đoạt sáo", "cầm Hồ": Hai cụm động từ mạnh mẽ, dứt khoát thể hiện hào khí nhà Trần và chiến thắng như chẻ tre của quân ta
- Nhịp điệu câu thơ nhanh, dồn dập như mệnh lệnh trong quân đội
- Phép liệt kê hai trận thắng, hai địa danh vinh quang
=> Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranh

 

b. Hai câu thơ sau
* Tinh thần yêu nước biểu hiện qua khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lai: "Thái bình... giang san" (Thái bình... ngàn thu)
- Nhịp thơ khoan thai như lời nhắn nhủ: Cần bắt tay vào xây dựng cơ đồ, bồi đắp non sông để mãi vững bền đến nghìn thu
- "thái bình" vốn là mơ ước của bao người khi kẻ thù xâm lược chiếm đoạt đất đai quê nhà, nay mơ ước thái bình đã thành hiện thực, ta cần "tu trí lực" để làm cho "Vạn cổ thử giang san"
=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba
=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng

3. Kết bài

- Khẳng định lại nội dung tư tưởng tác phẩm.
- Nêu suy nghĩ, đánh giá của bản thân.

18 tháng 10 2021

Tham khảo:

1. Mở bài

- Khái quát về chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học trung đại nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung.
- Giới thiệu khái quát về hai bài thơ Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh
- Nêu vấn đề cần bàn luận: Lòng yêu nước qua hai bài thơ Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh.

2. Thân bài

* Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc và khẳng định về chủ quyền lãnh thổ của đất nước
- Sông núi nước Nam
+ Câu 1: Nam đế cư", điều đó khẳng định nước Nam là của vua Nam, của toàn thể nhân dân nước Đại Việt, không bất cứ kẻ thủ nào có thể xâm hại được.
+ Câu 2: "Thiên thư", nó chính là chân lí, là niềm tin bất diệt của con người và rõ ràng rằng, sách trời đã phân định lãnh thổ cho nước Nam một cách rõ ràng,...(Còn tiếp)

8 tháng 2 2021

Nói chung đề là gì ạ?

8 tháng 2 2021

Bạn có thể nói ngắn gọn và dễ hiểu hơn nữa không?

29 tháng 1 2021

Văn chương chính là những kiệt tác nghệ thuật độc đáo. Văn chương giúp con người cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp cuộc sống xung quanh nghĩa là văn chương sẽ trao dồi cho ta thêm về những vẻ đẹp mà thường ngày ta không thể thấy được. Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng có nghĩa là văn chương vẽ lên những hình ảnh mà chúng ta không thể thấy trong đời thường. Văn chương còn sáng tạo ra sự sống: tạo ra một sự sống, ý chí nghị lực cho những mãnh đời nghèo khổ. Ngoài ra, theo quan điểm của tác giả Hoài Thanh: '' Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có'', một quan điểm khá ý nghĩa và rộng về nội dung. Văn chương gây cho ta những tình cảm không có nghĩa là văn chương bổ sung cho ta thêm những tình cảm mà trước đó ta không có. Văn chương luyện cho ta những tình cảm sẵn có nghĩa là văn chương sẽ bồi đắp thêm về cái ấn tượng, cảm xúc mà ta từng có, làm cho thứ tình cảm ấy trở nên độc đáo, ý nghĩa hơn.

   Văn chương chính là những kiệt tác nghệ thuật độc đáo. Văn chương giúp con người cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp cuộc sống xung quanh nghĩa là văn chương sẽ trao dồi cho ta thêm về những vẻ đẹp mà thường ngày ta không thể thấy được. Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng có nghĩa là văn chương vẽ lên những hình ảnh mà chúng ta không thể thấy trong đời thường. Văn chương còn sáng tạo ra sự sống: tạo ra một sự sống, ý chí nghị lực cho những mãnh đời nghèo khổ. Ngoài ra, theo quan điểm của tác giả Hoài Thanh: '' Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có'', một quan điểm khá ý nghĩa và rộng về nội dung. Văn chương gây cho ta những tình cảm không có nghĩa là văn chương bổ sung cho ta thêm những tình cảm mà trước đó ta không có. Văn chương luyện cho ta những tình cảm sẵn có nghĩa là văn chương sẽ bồi đắp thêm về cái ấn tượng, cảm xúc mà ta từng có, làm cho thứ tình cảm ấy trở nên độc đáo, ý nghĩa hơn.

      nguồn là ở trên mạng,bn có thể tra mạng để tham khảo nhé!!!

Câu 1: Trong văn bản ''Ý nghĩa văn chương'', Hoài Thanh khẳng định: ''Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muông hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống...'' Em hiểu ý kiến trên ntn? Câu 2: Cảm nhận về vẻ đẹp của bài ca dao sau: '' Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.'' Câu 3: Các...
Đọc tiếp

Câu 1: Trong văn bản ''Ý nghĩa văn chương'', Hoài Thanh khẳng định:

''Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muông hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống...''

Em hiểu ý kiến trên ntn?

Câu 2: Cảm nhận về vẻ đẹp của bài ca dao sau:

'' Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Nhớ ai dãi nắng dầm sương,

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.''

Câu 3: Các bài thơ trữ tình trung đại Việt Nam có nội dung rất phong phú nhưng vẫn tập trung vào 2 chủ đề lớn là tinh thần yêu nước và tình cảm nhân đạo.

Qua các bài thơ'' Sông núi nước Nam'', '' Phò giá về kinh'', '' Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra'', em hãy làm sáng tỏ nội dung tinh thần yêu nước của thơ trữ tình trung đại Việt Nam.

Giúp mk vs, mai pải nộp r!khocroi

2
7 tháng 3 2017

Câu 1: Trước tiên ta phải hiểu câu trên có ý nghĩa như thế nào? văn chương là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng tức là văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống của con người vô cùng phong phú, phức tạp. Cuộc sống của chúng ta vốn muôn màu, muôn vẻ và cũng vì thế mà văn chương rất đỗi phong phú, đa dạng. Điều này ta có thể dễ dàng nhận thấy được. Trong văn bản ” Sông nước Cà Mau” Đoàn Giỏi đã tái hiện một cách chân thực, sống động cảnh sông ngòi chằng chịt như mạng nhện với thiên nhiên hoang sơ, những địa danh đặc biệt của vùng đất mũi với những cái tên theo đúng đặc trưng riêng của chúng và cảnh buôn bán nhộn nhịp, tấp nập trên khu chợ nổi. Tìm hiểu văn bản ta có thể hình dung rõ nét cảnh thiên nhiên và con người ở vùng đất cực nam của Tổ Quốc. Hay trong tác phẩm “Tắt đèn” nhà văn Ngô Tất Tố đã khắc họa chân thực xã hội phong kiến thối nát, đời sống cực khổ của nhân dân mà cụ thể là nhân vật chị Dậu. Vì sưu cao thuế nặng, chị đã phải bán chó, bán con để chuộc chồng. Tuy nghèo khó, bần hàn song chị vẫn dũng cảm ném nắm tiền vào mặt tên quan phủ để bảo vệ sự trong sạch của mình. Nỗi đau, sự uất ức, tủi nhục, cảnh nghèo đói, cực khổ bị vắt kiệt sức lực của người dân dưới chế độ phong kiến đã khiến người đọc vô cùng thông cảm, tiếc thương cho số phận của những “con cò” khốn khổ. Như vậy, văn chương đã thực sự làm tốt công việc của mình, nó còn chạm đến trái tim người đọc, khiến họ vui, buồn, thương xót, căm phẫn theo nhịp điệu của bài văn. Không chỉ có chức năng tái hiện mà văn chương còn ” sáng tạo ra sự sống”. Tức là nó giúp con người biết ước mơ về những gì chưa có để biến chúng thành hiện thực trong tương lai. Trong tác phẩm” dế mèn phiêu liêu ký” của Tô Hoài, kết thúc câu chuyện Mèn đã kêu gọi bạn bè sống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Đó chính là ước mơ, là hòa bình, hữu nghị về một thế giới không còn chiến tranh, hoàn toàn tươi đẹp, tràn ngập tiếng cười mà tác giả muốn gửi gắm qua thế giới loài vật sinh động. Hay trong truyền thuyết ” Sơn Tinh Thủy Tinh”, khi hai thần giao chiến với nhau, trước cơn thịnh nộ long trời nở đất của Thủy Tinh, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh ” bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi” bảo vệ nhân dân. Đó là ước mơ từ xa xưa của nhân dân ta, muốn chống chọi được với thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc của mình. Ngày nay, không phải là sức mạnh kì diệu của thần thánh mà chính là bàn tay, ý chí của con người chứ không gì khác đắp lên những con đê vững chắc như bước tường thành để chống chọi với lũ lụt, giông bão và sự giận dữ của thiên nhiên. Vậy là từ những ước mơ cao đẹp trong văn chương, con người đã có động lực, niềm tin và hiện thực hóa chúng trong tương lai, càng ngày càng xây dựng một xã hội văn minh, tươi đẹp.

7 tháng 3 2017

Câu 2:

"Anh đi anh nhớ quê nhà

.......................................

Nhớ ai tát nước bên đg hôm nao"

Canh rau muống,cà dầm tương- ôi cái hình ảnh sao đơn sơ giản dị và ấm áp thế!
bà tôi bảo ngày ấy,cái thời bà còn chân lấm tay bùn, quê hương còn nghèo lắm,cũng như quê ương của người xa xứ trong bài ca dao,mọi thứ quá đơn giản,chỉ có vậy,chỉ canh rau cầ dầm nhưng nó đi cùng với tuỏi thơ những chiều cắt cỏ chăn trâu,đi cùng người quê nhưng đêm hè sáng sao hay sớm đông lạnh giá,có thể nhỏ bé giản dị nhưng là kí ước mộng mơ,là kỉ niệm một thời nông nổi.Đi xa xứ,người nhớ về quê hương là nhớ ngay cái hình ảnh chân chất của người nông dân dãi nắng dầm sương,nhớ ngay,thương ngay cái hình ảnh cô gái tát nước bên đồng những đêm mơ đổ cả ánh trăng vàng ... bài ca dao thấm đẫm tình quê,cái tình cảm vô hình đeo bám người ta đến nơi chân trời,như một mối duyên nợ khó dứt.chẳng ai là khôgn có quê hương.người xa quê trong bài ca dao trên đã gửi vào trong những câu thơ thật thà chân chất một nỗi nhớ đơn sơ mà sâu sắc,một nỗi nhớ khắc khoải về miền quê xa.......

28 tháng 1 2021

các bn giúp vs mk cần gấp lắmkhocroi

Dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên chống giặc, sẵn sàng hi sinh vì đất nước. Vì thế lịch sử nước ta thấm đẫm những cuộc chiến tranh đau thương, tàn khốc nhưng cũng đầy hào hùng, vẻ vang với những chiến thắng vinh quang in đậm dấu vết của biết bao anh hùng dân tộc trên từng trang lịch sử vàng. Một trong những vị anh hùng đó là Trần Quang Khải, một vị tướng tài ba dưới thời nhà Trần, là con trai thứ ba của vua Trần Nhân Tông, lập công lớn tại Chương Dương Độ, lừng danh muôn đời. Ông không chỉ là một vị tướng kiệt xuất mà còn là một văn nhân có những vần thơ sâu xa, lý thú. Bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” (Phò giá về kinh)) là một bài thơ do Trần Quang Khải viết sau khi quân dân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai. Bài thơ nói về cảm xúc người tướng khi theo xa giá vua trở về kinh đô khải hoàn được thể hiện qua những câu thơ như sau:

  “Đoạt sáo Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực,

Vạn cổ thử giang san.”

(Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy ngàn thu. )

Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt hàm súc đã vẽ lên một khung cảnh hoành tráng với khí thế chiến đấu và thắng lợi vẻ vang của quân ta. Lúc bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, thuộc địa phận huyện Thượng Phúc. Trần Quang Khải được lệnh vua, cùng Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão dem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường biển ra đến bến Chương Dương tấn công chiến thuyền của quân Nguyên. Quân giặc địch không nổi phải bỏ thuyền lên bờ chạy.

 

Còn Hàm Tử hay Hàm Tử quan là địa danh nổi tiếng, nơi xảy ra trận Hàm Tử trong cuộc Kháng chiến chống quân Nguyên 1285 của quân dân Đại Việt. Cửa Hàm Tử xưa thuộc xã Hàm Tử bên tả ngạn sông Hồng, gần bãi Màn Trù. Trận quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5 năm 1285, 5 vạn quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy, đã nhanh chóng giành thắng lợi. Cùng với các trận Tây Kết, Chương Dương, Vạn Kiếp, chiến thắng Hàm Tử dã góp phần tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt.

 

Nghệ thuật đảo ngữ đưa hai cụm từ “đoạt sáo”, “cầm Hồ” lên trên đầu câu đã thể hiện được khí thế dũng mãnh của quân ta, đồng thời cũng diễn tả được sự thất bại nhục nhã của quân giặc. Nhịp điệu bài thơ nhanh, gấp kết hợp với các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát tạo nên nhịp dộ dồn dập, sôi động, quyết liệt của không khí chiến trận. Nhà thơ không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ toát lên từ âm hưởng của bài thơ.

Hơn nữa, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và phép đối để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Hai chiến công oanh liệt này dã làm ‘thay đổi thế trận của quân ta: mở đầu và tiếp thêm sức mạnh, niềm tin đến quân và dân ta đập tan âm mưu xâm lược, đánh bại được kẻ thù hung bạo nhất thế giới thời bấy giờ, giành lại kinh thành Thăng Long. Ở đây có một điểm nổi bật là Trần Quang Khải là nhà thơ dầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt vào thơ ca.

 

Đất nước sạch bóng quân thù, được hưởng thái bình yên ổn là một điều rất khó nhưng để giữ gìn non nước mãi hoà bình, thịnh trị lại là điều càng khó hơn. Phải chăng vì thế mà Trần Quang Khải đã nhắn nhủ:

“Thái hình tu trí lực,

Vạn cổ thủ giang san.”

(Thải bình nên gắng sức,

Non nước ấy ngàn thu. )

Nếu muốn đất nước không bị hoạ xâm lược thì dân phải giàu, nước phải mạnh. Cho nên Trần quang Khải đã khuyên nhủ mọi người không nên ngủ trên chiến thắng mà phải bắt tay ngay vào xây dựng đất nước, củng cố lực lượng cả về kinh tế và chính trị thì mới có thể giữ vững nền độc lập, dập tắt mọi tham vọng ngông cuồng của bọn ngoại xâm. Chỉ hai câu thơ ngắn gọn mà đã thể hiện dược tấm lòng và tài trí của một danh tướng với tầm nhìn xa, hiểu biết rộng, suy xét sự việc một cách sâu sắc kết hợp với lòng yêu nước thương dân, có trách nhiệm với Tổ quốc luôn đặt Đất nước lên hàng đầu.

Bằng thể thơ ngữ ngôn tứ tuyệt, lời thơ cô đọng, ý thơ hàm súc, Trần Quang Khải đã dựng lên trước mắt người dọc bức tranh sinh động về khí thế chiến đấu hào hùng của quân dân ta, về quyết tâm hoà bình, độc lập, giữ vững chủ quyền, nhất là khẳng định nước Nam là của người dân Đại Việt, đó là định luật muôn đời không thể thay đổi.

 

Dầu đã trải qua bao thế hệ, với bao lớp bụi thời gian nhưng bài thơ vần còn mang ý nghĩa lớn lao, không chỉ vào thời xưa mà cả ở thời nay. Lớp trẻ chúng ta muốn dất nước hùng mạnh, độc lập chủ quyền thì phải mở mang kiến thức, rèn luyện phẩm chất xứng đáng với những người làm chủ tương lai của đất nước.