K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 11 2019

Ý nghĩa nhan đề: Tác phẩm viết về “ Làng chợ Dầu”- một địa điểm cụ thể., nhưng tác giả lại đặt tên tác phẩm là “ Làng”

- Nhan đề ngắn gọn sẽ gây ấn tượng với người đọc hơn. Đọc nhan đề độc giả sẽ tò mò hứng thú muốn tìm hiểu xem đó là làng gì ? làng đó như thế nào? ( Trong làm văn chương nghệ thuật kị nhất là lộ ý)

- “Làng” là danh từ chung, không phải “làng chợ Dầu” -> mang đến ý nghĩa khái quát -> gợi tình cảm yêu làng của người nông dân Việt Nam trên mọi miền Tổ quốc. Ở đây, Kim Lân không đơn thuần chỉ nói về một ngôi làng, một con người riêng biệt nào cả. Làng chợ dầu là một trong rất nhiều ngôi làng như thế ở Việt Nam. Tình yêu làng của ông Hai cũng là tình cảm của rất nhiều những người nông dân khác với quê hương mình

- Từ đó, khái quát lên lòng yêu làng, rộng hơn là lòng yêu nước của con người Việt Nam.

Các tác phẩm viết về tình yêu quê hương, đất nước: Tiếng gà trưa, Lòng yêu nước, Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Hịch tướng sĩ, ...

Tham khảo:

Lòng tôi thật sự rối bời với tâm trạng đau đớn, ân hận lại trở nên vui mừng khôn xiết khi vừa gặp ba. Người mà tôi mong chờ bao nhiêu năm nhưng không nhận ra, ngày ba ra đi lòng tôi lại hụt hẫng vừa tự trách bản thân mình.

Ba tham gia chiến đấu từ khi tôi còn rất nhỏ. Tôi lớn lên cùng với mẹ với nỗi niềm mong mỏi được gặp ba. Mẹ tôi kể về ba người đàn ông điển trai, nụ cười hiền từ.

Một hôm khi tôi đang mải chơi thì bỗng nghe tiếng gọi lớn:

– Thu ! Con!

Tôi quay lại, người đàn ông vội tiến những bước dài về phía tôi. Người đàn ông vết thẹo dài bên má làm tôi hoảng sợ vội chạy vào nhà. Má tôi chạy ra báo rằng người đàn ông đó là ba tôi.

Tôi không tin đó là sự thật khi ba tôi người điển trai và nụ cười ấm áp, còn người đàn ông có khuôn mặt kinh dị không thể là ba tôi. Ông ấy ở trong nhà tôi, mặc cho má bảo tôi gọi Ba nhưng tôi nhất định không gọi.

Ông ấy càng gần gũi, quan tâm tôi càng thấy ghét. Tôi còn nói trổng khi mời ông vào ăn cơm:

– Vô ăn cơm. Cơm chín rồi.

Ông khổ tâm, mặt buồn rầu. Tôi ngồi im, ăn cho xong bữa. Tôi thắc mắc tự dưng ở đâu xuất hiện người lạ lùng, mặc thẹo vào ăn cơm cùng mình. Tôi nghĩ về ba ở phương trời nào đó với một nỗi buồn.

Tôi còn nói trổng khi nhờ ông chắt nước:

– Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái.

Ông vẫn làm theo nhưng có pha chút buồn rầu. Bữa cơm hôm đó, ông gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén tôi. Tôi hất trứng cá ra, văng tung tóe.

Ông đứng dậy đánh và nói:

– Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?

Tôi cúi mặt xuống, đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Vội chạy sang nhà ngoại khóc… Ngoại tôi kể những tôi tôi chưa từng biết.

Ngoại kể ba tôi bị bom đạn Mỹ khiến ông bị thương, khuôn mặt không nguyên vẹn như xưa. Tôi như chột dạ và cảm thấy có lỗi. Ngày mai, ba tôi lại lên đường ra chiến trường, nghĩ đến nước mắt tôi trào ra. Tôi nghĩ về ông với sự ân hận, cố gần gũi, yêu thương nhưng tôi lại hắt hủi với ông.

Ba ơi! Con yêu ba nhiều lắm! Không phải do con không muốn mà là trong nhất thời con không nhận ra ba.

Tôi căm ghét chiến tranh, chiến tranh đã khiến gia đình ly tán và khiến ba tôi không còn được như ngày xưa. Với tôi tình cảm dành cho người ba luôn mãi không thay đổi, ông luôn là người tôi luôn tôn thờ và không ai có thể thay thế.

3 tháng 1 2022

Cho em hỏi là câu độc thoại và câu độc thoại nội tâm là câu nào vậy ạ?

29 tháng 4 2017

- Giới thiệu Kim Lân và truyện ngắn “làng”

- Trích dẫn : “chúng nó…. Đấy ư” : ông hỏi ai hay tự hỏi chính mình ? Thủ pháp độc thoại nội tâm như giúp chúng ta chứng kiến những suy nghĩ của ông Hai :

   + Dấu (….) như diễn tả những ý nghĩ ngổn ngang trong lòng ông.

   + Ông nói một mình, ông rít lên một mình như đang mắng mỏ, như những người làng chợ Dầu đang đứng trước mặt ông.

23 tháng 3 2021

Tham khảo nha em:

Đề 1:

Kim Lân là một nhà văn được biết đến với sở trường về cuộc sống và con người ở các vùng quê nông thôn Việt Nam. Ông đã để lại cho kho tàng văn học rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó phải kể đến “Làng” ở giai đoạn sau Cách mạng tháng 8. Một tác phẩm gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những chuyển biến trong tình cảm của con người nông dân Việt Nam trong thời kỳ chống thực dân Pháp. Đặc biệt là nhân vật chính của tác phẩm – Ông Hai, người đàn ông với một tình yêu làng, yêu quê sâu sắc.

Truyện ngắn “Làng” ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống quân Pháp xâm lược. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu đối với làng chợ Dầu của mình. Kết thúc câu chuyện đơn giản và nhân văn, ông Hai trở thành một hình tượng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong giai đoạn đất nước đang phải kháng chiến chống quân xâm lược.

 

Tình yêu làng của ông Hai đã ngấm vào máu thịt trong con người ông, chúng được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi. Tình yêu đặc biệt ấy có thể chia thành 3 giai đoạn chính: khi ở làng tản cư, khi nghe tin làng mình theo Việt gian và khi nghe tin làng đã cải chính theo cách mạng.

Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng da tiết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt động kháng chiến, cùng đồng đội, anh em đào ụ, xẻ hào để bảo vệ làng. Rồi có nhiều thay đổi, ông phải tản cư đến nơi khác. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ông vẫn hướng về làng Dầu yêu dấu của mình, đó cũng chính là động lực làm dịu đi trong ông những tủi cực của người tha hương. Nỗi nhớ ấy ngập tràn, ông luôn khao khát được trở về để lại được tham gia kháng chiến. Hàng ngày, ông Hai vẫn đến phòng thông tin để theo dõi về cuộc kháng chiến và mong mỏi sẽ nghe được tin tức về làng chợ Dầu của mình. Khi nghe tin quân ta thắng lòng âm vui mừng phấn khích, cùng với đó là niềm tin một ngày không xa cách mạng sẽ thắng lợi, ông lại được trở về với làng quê yên bình của mình.

Trong lúc đang sống trong cảm xúc vui mừng hân hoan thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ Dầu theo Việt gian. Chính lúc này tình yêu làng của ông được bộc lộ một cách sâu sắc. Từ bất ngờ đến bàng hoàng, niềm xúc động tột cùng dâng trào. Mặc dù cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng ông vẫn không thể nén được nỗi đau đang dâng trào: “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng chừng không thở được…”. Tin làng Dầu theo Tây đối với ông là một tin trời giáng, ông không thể tin và cũng không muốn tin điều đó là thật. Ông lấy lại bình tĩnh để hỏi lại người phụ nữ tản cư nhưng bà quả quyết quá khiến ông đành phải chấp nhận cái sự thật khủng khiếp ấy. Những lời nói của người tản cư như một con dao cứa vào tim ông, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi, tủi nhục và đau đớn đến tột cùng. Nó khiến lòng tự trọng, niềm tự hào về làng của ông bị sụp đổ.

Sau khi về nhà, ông nằm vật ra giường rồi nhìn những đứa con lòng ông lại càng thương chúng: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư, uất hận ông rút lên trong con đau đớn chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm, mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. Có thể thấy sự khinh bỉ, căm rét đến tột cùng của ông Hai. Khi nói chuyện với người vợ trong nhà, ông cũng không giấu nổi sự bực bội và đau đớn trong lòng, thành ra gắt gỏng với cả vợ. Trong giây phút tuyệt vọng ông đã có suy nghĩ hay là về làng, nhưng ngay lập tức một cuộc đấu tranh diễn ra, ông cho rằng về làm chính là rời bỏ kháng chiến, đầu hàng quân Tây. Lúc này tình yêu nước yêu cách mạng đã hòa quyện vào trong ông, tình yêu làng và tình yêu nước đã gắn liền với nhau, nó thể hiện rõ trong cuộc đối thoại với đứa con trai út của ông. Ông nói với đứa con như nói với chính mình: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Một lời khẳng định rất kiên định và dứt khoát, đó là tiếng lòng trung thành với Bác Hồ, với Đảng và đất nước. Hơn ai hết, ông vẫn tin tưởng vào cách mạng, sự trung tin thành của ông với lãnh tự, với kháng chiến là lòng trung thành của hàng triệu người dân Việt Nam với Đảng và Cách mạng.

Tình yêu làng quê, đất nước lại một lần nữa được thể hiện rõ nét trong đoạn cuối của tác phẩm, khi ông Hai nghe tin làng Dầu cải chính không theo Tây nữa. Miệng ông bô bô từ đầu ngõ, chạy hết nơi này đến nơi khác để khoe, ông vui mừng khôn xiết vừa đi vừa múa hát. Niềm vui to lớn tới mức nghe tin nhà mình ở quê bị đốt ông cũng chẳng màng. Đây chính là chi tiết khiến người đọc bùi ngùi, trân tròn hơn tình yêu của ông Hai dành cho làng, cho cho kháng chiến và cho tổ quốc Việt Nam yêu dấu.

Bằng lối văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai. Một người nông dân chất phát với tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, luôn tin tưởng vào Cách mạng vào vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Ông Hai trở thành một tấm gương, một biểu tượng cho người nông dân Việt Nam trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm của đất nước VN

Đề 2:

Lặng Lẽ Sa Pa là một truyện ngắn vô cùng nhẹ nhàng, giàu chất thơ và tác giả đã xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được viết vào năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả Nguyễn Thành Long, có thể coi đây là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện ngắn với những nhân vật không tên đặc biệt tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Tác giả muốn giới thiệu với bạn đọc một nhân vật điển hình trong công cuộc lao động và xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này.

Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp con người Sa Pa. Những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích đất nước, vì cuộc sống con người đó là anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu.

Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và công việc, anh thanh niên một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Quanh năm suốt tháng bốn bề cây phủ mây phong cảnh lạnh rét, anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người lần làm quen này anh quen với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống. Công việc của anh "Đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây" nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày nhằm phục vụ sản xuất, chiến đấu công việc đòi hỏi tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Hằng ngày anh phải "ốp về nhà" vào bốn thời điểm khác nhau.

Công việc gian khổ vất vả nhưng anh yêu và làm việc hết mình, chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua được nỗi cô đơn. Anh có suy nghĩ chân thành và sâu sắc: "Khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được… Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất "qua lời tâm sự này ta thấy suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc về mục đích làm việc.

Anh thanh niên tự biết làm cho cuộc sống vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng và ý nghĩa. Anh trồng hoa… Anh đọc sách trò chuyện giao tiếp với sách, lấy sách làm tri ân, tri kỉ, anh nuôi gà và thế giới riêng của anh "một gian nhà ba gian sạch sẽ, một cuộc đời riêng thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách có lẽ chính lối sống đẹp đẽ đó khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc khắc nghiệt để yêu nghề hơn, yêu cuộc sống hơn.

 

Anh thanh niên còn là người khiêm tốn thành thật đáng quí. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh… Anh nhiệt tình giới thiệu để ông vẽ chân dung họ, những con người làm việc hết mình thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng. Một nét đẹp đáng quí mến nữa ở anh là tấm lòng rộng mở chân thành, gần gũi thân thiết. Với mọi người với bác lái xe anh chu đáo nhớ tới việc gửi củ tam thất về làm quà cho bác gái. Với người bạn mới anh vui mừng đến luống cuống hấp tấp khi thấy họ đến thăm nơi ở và làm việc của mình, anh tặng bó hoa đẹp rực rỡ cho cô gái, anh đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quí hiếm vô cùng anh thèm và khao khát nghe truyện dưới xuôi. Khi chia tay anh xúc động quay mặt đi và đưa vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn, trên đường anh không dám tiễn họ, sợ quyến luyến mà không cầm nổi lòng mình.

Quá khứ – chiến tranh và những đói khát, nghèo nàn của đất nước đã lùi xa. Chúng ta – một thế hệ trẻ của thế kỉ 21 đang từng bước tiến công vào khoa học và hội nhập quốc tế, tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn mới, chúng ta có quyền lãng quên đi những quá khứ của đất nước, của dân tộc nhất là các thế hệ cha anh ta đã cống hiến và hi sinh để có ngày hôm nay. Những bài học về phẩm chất và lí tưởng sống như anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và những con người lao động vô danh vẫn mãi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau phải noi theo. Hãy cố gắng học tập, tích lũy, rèn luyện để sống có ích cho bản thân, cho xã hội và được mọi người yêu mến, quý trọng.

9 tháng 12 2017
Truyện Tóm tắt cốt truyện Tình huống chính Chủ đề
Làng Suốt mấy ngày ông Hai không dám ra khỏi nhà sau tin đồn làng chợ Dầu theo giặc. Khi tin đồn được cải chính, ông vui sướng, lại đi khoe làng của mình.

Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

Niềm vui của ông Hai khi nghe tin cải chính

Ca ngợi tình yêu quê hương, làng quê, đất nước
Lặng lẽ Sa Pa Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa bốn nhân vật: ông họa sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe và anh thanh niên phụ trách trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn - Xe dừng đột ngột khi vừa qua Sa Pa Khẳng định vẻ đẹp bình dị của con người lao động và ý nghĩa của những cống hiến thầm lặng
Chiếc lược ngà Ông Sáu tham gia kháng chiến, khi trở lại nhà thì con gái lên tám tuổi. Bé Thu không nhận ra cha. Đến lúc nhận ra cha cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Vào chiến khu, ông Sáu làm một chiếc lược ngà để tặng con.

Bé Thu nhất quyết không nhận cha

- Lúc bé Thu nhận ra cha là lúc ông Sáu vào khu căn cứ

- Ông Sáu hi sinh và chưa kịp trao cây lược ngà cho con

Ca ngợi tình cha con sâu nặng