K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Sắc thái biểu cảm của những từ Hán Việt trong bài thơ là sắc thái trang trọng, tao nhã, tinh tế khiến bài thơ mang sắc thái cổ phù hợp với xã hội xưa và gây ấn tượng sâu sắc với người đọc.

23 tháng 8 2023


Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ trữ tình với nhiều từ Hán Việt được sử dụng. Những từ Hán Việt này góp phần tạo nên sắc thái biểu cảm cho bài thơ, giúp thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn của tác giả khi xa quê hương.

- "Bảng lảng" là từ Hán Việt có nghĩa là mờ nhạt, không rõ ràng. Từ này được sử dụng để miêu tả ánh hoàng hôn lúc chiều tà, một thời điểm gợi lên nhiều nỗi buồn và hoài niệm.
- "Vẳng" là từ Hán Việt có nghĩa là nghe thấy nhưng không rõ ràng. Từ này được sử dụng để miêu tả tiếng ốc xa đưa, một âm thanh nhỏ bé, xa xôi nhưng lại gợi lên nhiều nỗi buồn.
- "Viễn phố" là từ Hán Việt có nghĩa là phố xa. Từ này được sử dụng để miêu tả nơi mà người ngư ông đang trở về, một nơi xa lạ và xa cách.
- "Cô thôn" là từ Hán Việt có nghĩa là làng quê vắng vẻ. Từ này được sử dụng để miêu tả nơi mà người mục tử đang trở về, một nơi yên bình nhưng cũng rất cô đơn.
- "Hàn ôn" là từ Hán Việt có nghĩa là nỗi buồn lạnh lẽo. Từ này được sử dụng để miêu tả tâm trạng của tác giả khi xa quê hương, một nỗi buồn cô đơn và lạnh lẽo.

Những từ Hán Việt trong bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" góp phần tạo nên sắc thái biểu cảm cho bài thơ, giúp thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn của tác giả khi xa quê hương. Những từ ngữ này cũng giúp bài thơ trở nên giàu nhạc tính và hình ảnh hơn, giúp người đọc cảm nhận được sâu sắc hơn tâm trạng của tác giả.

16 tháng 10 2016

Từ Hán Việt :hoàng hôn,xangư ôngviễn phốmục tửcô thônmailiễusươngkháchChương Đàilữ thứhàn ôn.

Từ Hán Việt đem lại : sắc thái trang trọng , sắc thái tao nhã, sắc thái khái quát và trừu tượng , sắc thái cổ .

               Chúc bn học tốt !!!

 

12 tháng 10 2016

Lê Nguyễn Ngọc Nhi chết quên chưa ns sorry

12 tháng 10 2016

Từ Hán Việt : bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố , cô thôn , mục tử

_Từ Hán -Việt sẽ đem đến cho bài thơ 1 ko khí :

+) Sắc thái trang trọng

+) Sắc thái tao nhã

+) Sắc thái khái quát và trừu tượng

+) Sắc thái cổ

 


 
9 tháng 10 2016

Theo mình thì cậu tìm từ nào thuộc Ấn Âu thì loại nó ra , còn nhiêu là từ Hán Việt

Mình không chắc , xin lỗi

Chúc bạn học tốt ! banhqua

9 tháng 10 2016

Z bn tìm giúp mk ik

8 tháng 10 2016

hic, văn học nó là cái j đó xa xỉ với mk, k bit mk có khô khan quá k?

8 tháng 10 2016

mk rất muốn kb nhung k bit kb the nào, bấm vào đâu?

mk mới bit toi hoc24, hjhj

6 tháng 11 2018

hoàng hôn:khoảng thời gian mặt trời mới lặn,ánh sáng yếu ớt và mờ dần

-ngư ông:người đàn ông làm nghề đánh cá

lữ thứ:xa quê

-hàn ôn:rét và ấm(chuyện hàn ôn là chuyện lúc gặp nhau kể lể tin tức thân mật)

18 tháng 10 2016

CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố.
Gõ sừng mục từ lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Chiều hôm nhớ nhà là một đề tài quen thuộc, được nói đến trong nhiều bài thơ nổi tiếng như Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, Ngắm cảnh chiều ở Hán Dương của Nguyễn Du. Nhưng với Bà Huyện Thanh Quan, chủ đề đó đã được ghi dấu ấn đậm nét bằng một phong cách sử dụng từ Hán Việt.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ lựa chọn những tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng của thời gian chiều tà: hoàng hôn của thiên nhiên và hoàng hôn của cuộc sống con người. Từ hoàng hôn không chỉ để thông báo khoảng thời gian chen lấn giữa đêm và ngày mà nó còn tạo nên cảm giác về một thiên nhiên vắng vẻ và buồn. Cuộc sống của con người được tác giả ghi lại bằng hai chi tiết của cảnh chiều:

Gác mái ngư ông về viễn phố.
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.

Nhạc điệu câu thơ chậm rãi, ngắt thành 3 nhịp: Gác mái/ ngư ông/ về viễn phố - Gõ sừng/mục tử/ lại cô thôn. Sự đối xứng giữa các từ ngữ, hình ảnh làm cho cảnh sinh hoạt ở đây có sự vận động nhưng vẫn man mác buồn. Cái hay của bài thơ là ở chỗ từ hình ảnh quen thuộc của ông lão đánh cá và trẻ chăn trâu, nơi bến xa, thôn vắng đã được tác giả sử dụng bằng những từ Hán Việt trang trọng: ngư ông, viễn phố, cô thôn, tạo nên không khí tĩnh lặng, cảnh chiều thêm tĩnh mịch và ẩn chứa một nỗi niềm man mác, bâng khuâng của lòng người. Trong cảnh thiên nhiên buồn vắng đó xuất hiện hình ảnh của con người:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Những cánh chim vội vã cố gắng bay về rừng tìm chốn ngủ, khách bộ hành cũng bước gấp về nơi trú ngụ. Hai câu thơ cũng đối rất tề chỉnh: ngàn mai/ dặm liễu, gió cuốn/ sương sa. Sự đối xứng này làm nổi bật lên nỗi mệt nhọc và sự cố gắng trong cảnh chiều lặng lẽ của khách đường xa. Thông thường cảnh chiều gợi lên hình ảnh hứa hẹn sự sum họp, đầm ấm, nhưng trong bài thơ, tác giả sử dụng các từ Hán Việt ngàn mai, dặm liễu gợi lên cảm xúc xa xôi, buồn vắng, đơn chiếc. Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng con người bộc lộ một cách rõ rệt:

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ.
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Kẻ và người đều là những đại từ phiếm chỉ, chủ thể trữ tình được ẩn chứa đằng sau nó. Tuy nhiên, qua đây ta có thể nhận thức được về chủ thể trữ tình – nhà thơ đang trong cảnh sinh ly, bao trùm tất cả là nỗi buồn sinh ly. Và nỗi buồn sinh ly đó được tạo nên bởi từ Hán Việt lữ thứ. Chỉ có những người đi xa sống nơi đất khách quê người mới rơi vào tâm trạng cô đơn buồn vắng như vậy. Kết thúc bài thơ là câu thơ thể hiện nỗi khao khát được tâm sự, giải bày. Biết ai hiểu cho nỗi lạnh ấm của lòng người, của nhân tình thế thái. Bài thơ tả cảnh ngụ tình, từ việc tả cảnh chiều muộn ở nơi xa, tác giả thể hiện nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm trắc ẩn trước nhân tình thế thái, không người tri âm tri kỷ. Tất cả được giãi bày qua những vần thơ trữ tình buồn man mác. Cái độc đáo của bài thơ là nữ thi sĩ đã sử dụng rất thành công hệ thống các từ Hán Việt, làm cho bài thơ trở nên trang nhã, thanh tao mà sâu lắng.
Nhà phê bình Phan Ngọc nhận xét: “... Bà Huyện Thanh Quan trong bài Chiều hôm nhớ nhà đã đẩy lùi bức tranh vào thế giới của tâm tưởng, của ý niệm... Các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những kẻ chăn châu, những bến xa, những người ở đài cao, những người khách trọ, cảnh lạnh ấm của cuộc đời. Làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn? Làm gì có trang đài, người lữ thứ, nỗi hàn ôn? Không những thế, các từ Hán Việt đều đặt vào vị trí quyết định giá trị câu thơ: câu cuối vần để gây tiếng vọng trong tâm hồn ta. Cuối nhịp ở âm tiết 4 để bắt người ta dừng lại ở đây... Nghệ thuật là sự lựa chọn cực kỳ công phu. Bằng cách này, bà Huyện Thanh Quan kéo ta về với cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u hoài của nhà thơ, của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại, không có sự cách biệt giữa tôi và anh...” (Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt – NXB Đà Nẵng 1991, trang 52,53.)
Đề tài hoài cổ, cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đã đi qua đã được bà Huyện Thanh Quan thể hiện qua bài Thăng Long thành hoài cổ với thơ thất ngôn - một trình độ ngôn ngữ tinh tế, điêu luyện, chuẩn xác để miêu tả sự vật, biểu hiện tâm tư. 
Bài thơ một lần nữa khẳng định phong cách thơ thanh nhã, trang trọng của bà khi tác giả sử dụng thành công một hệ thống từ Hán Việt. Cũng như ở bài thơ Chiều hôm nhớ nhà, ở bài thơ này phần lớn các từ Hán Việt được đặt vào vị trí quyết định giá trị của câu thơ: từ cuối câu, để lại những dư âm thấm vào tâm hồn người đọc:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ nêu lên một quan niệm về thế lực siêu nhiên vạn năng. Để thể hiện sự quan trọng đó, tác giả không dùng từ ông trời mà dùng từ tạo hóa. Tạo hóa chi phối nhân sinh thế sự, xoay vần cuộc sống xã hội và số phận con người. Tất cả như luôn biến đổi, luôn bị thay thế như một sân khấu diễn trò, lớp này kế tiếp lớp khác và từ Hán Việt hí trường như khắc đậm thêm điều đó. Thực vậy, thời đại lịch sử mà bà Huyện Thanh Quan sống là thời khủng hoảng suy tàn của chế độ phong kiến. Có thể nói đây là nguyên nhân tạo nguồn cảm hứng hoài cổ nơi bà. Tuy nhiên sự gắn bó của bà với triều đại cũ không sâu sắc và mật thiết như Nguyễn Gia Thiều hay Phạm Thái nên thái độ hoài cổ của bà nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Mặc dù vậy, hai câu mở đầu vừa là câu hỏi vừa là câu tán thán với cách sử dụng thành công từ Hán Việt đã ẩn chứa một nỗi niềm luyến tiếc kín đáo của nhà thơ.
Ở hai câu thực, nhà thơ thể hiện tài nghệ điêu luyện của mình trong việc lựa chọn từ ngữ kết hợp tài tình từ thuần Việt và Hán Việt trong một hệ thống niêm luật chặt chẽ. Nhà thơ đã khéo léo chọn hai hình tượng không gian, cảnh vật có tính cách đối lập.

a. Lối xưa xe ngựa / Nền cũ lâu đài
b. Hồn thu thảo / Bóng tịch dương

Hệ thống a. là hình ảnh của không gian nhân tạo, hệ thống b. là hình ảnh của không gian thiên tạo. Không gian nhân tạo không chống chọi nỗi thời gian và đã thuộc về thời gian quá khứ. Những hình ảnh còn lại chỉ là những tàn dư của một quá khứ hoàng kim. Dưới bước đi mạnh mẽ của thời gian, dường như chỉ có cảnh vật thiên nhiên là có khả năng tồn tại, nhưng đó cũng là sự tồn tại trong tàn tạ bởi trong câu thơ gợi hình ảnh của ngọn cỏ thu và ánh mặt trời. Cỏ thu đã trở thành hồn thu thảo và mặt trời chỉ là bóng tịch dương. Dường như ở các câu thơ này, từ Hán Việt là những nốt nhấn cho ý đồ nghệ thuật của các giả. Các cụm từ Hán Việt đã tạo nên những hình bóng không gian mang màu sắc cô liêu tàn tạ. Sự lựa chọn và kết hợp từ độc đáo trên đã tạo nên sự “hòa âm” giữa quá khứ và hiện tại.
Ở hai câu luận, tác giải tiếp tục diễn đạt nỗi niềm hoài cổ trước sự đổi thay qua hình tượng đá trơ gan, nước cau mặt. Đá, nước là biểu tượng của dòng chảy bất tận của vũ trụ và nhân sinh, nhưng ở đây lại mang ý nghĩa phúng dụ cho tâm trạng phủ nhận, chống chọi lại sự đổi thay. Ở hai câu thơ này, nhà thơ lại sử dụng tuế nguyệt, tang thương mang ý nghĩa khái quát rất cao, tạo nên sức gợi cảm cho bài thơ.
Kết thúc bài thơ là một tiếng thở dài tuy nhẹ nhàng nhưng xuất phát từ tâm can:

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Trong bài Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du cũng từng viết:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Để nói về những sự phi lý ở đời như là một quy luật, thì ở trong bài thơ này, với từ Hán Việt kim cổ nhà thơ cũng khái quát lên chuyện hưng phế như là một chân lý ngàn đời không thể thay đổi được. Vì thế, kết thúc bài thơ là một nỗi đau, nỗi bi thương và luyến tiếc về một thời xưa cũ. Đoạn trường là một từ Hán Việt được nhà thơ dùng rất đắt để kết tụ lại nỗi đau đó.
Như vậy, Thăng Long thành hoài cổ là một mẫu mực về nhiều phương diện trong tác phẩm văn học về đề tài hoài cổ. Đặc biệt đề tài hoài cổ cảm hứng hoài niệm về một thời đại huy hoàng đi qua nói trên đã được thể hiện qua một bài thơ thất ngôn ngắn gọn, nhẹ nhàng mà tha thiết. Bài thơ càng trở nên trang trọng hơn khi bà khéo léo kết hợp hệ thống từ Hán Việt ở mỗi dòng thơ để tạo nên âm vang của bài thơ. Nhận xét về bài thơ trên, Tiến sĩ Ngôn ngữ học Hoàng Tất Thắng đã viết: “Thăng Long thành hoài cổ là sự hoài cảm về quá khứ, về một thời vàng son đã qua. Hình ảnh trong bài thơ là hình ảnh của ký ức, của tâm tưởng, của những âm vang Hán tự...”.
Với những thành công trên Thăng Long thành hoài cổ xứng đáng là một bài thơ hay của thơ ca thời Trung đại Việt Nam.
Có thể nói rằng, Chiều hôm nhớ nhà và Thăng Long thành hoài cổ là hai bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan - một phong cách trang nhã, lịch lãm và sâu lắng. Đây cũng là những bài thơ hay về đề tài hoài cảm - hoài cổ trong thơ ca Việt Nam Trung đại. Điều làm nên giá trị nổi bật trong thi phẩm của bà được kết tinh bởi nhiều yếu tố mà trong đó phần quan trọng là sự sáng tạo của nhà thơ trong việc sử dụng và kết hợp một cách tài tình hệ thống từ Hán Việt. Thực vậy, yếu tố từ Hán Việt trong hai bài thơ đã thực sự mang lại cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về tình cảm, nỗi niềm, tài năng và nhân cách của bà Huyện Thanh Quan. Điều đáng nói ở đây không phải là sự xuất hiện ít hay nhiều từ Hán Việt trong mỗi bài thơ, mà là cách sử dụng điêu luyện của nhà thơ đã làm nên giá trị nghệ thuật đích thực cho toàn thi phẩm.
Hơn hai trăm năm đã trôi qua, vạn vật và con người có biết bao sự đổi thay, nhưng những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn còn nguyên vẻ đẹp với sức lay động trong mỗi chúng ta nhờ việc sử dụng lớp từ Hán Việt một cách khéo léo, tài tình mà không phải nhà thơ nào cũng làm được.

28 tháng 11 2016

Các từ Hán Việt có trong bài thơ :

_ hoàng hôn : time mặt trời sắp lặn

_ ngư ông : ông đánh cá

_ viễn phố : phố xa

_mục tử : đứa trẻ chăn trâu

_cô thôn : làng vắng vẻ ( lẻ loi )

lữ thứ : chỉ ng đi xa và đg ở trên đg

hàn ôn : nỗi niềm tâm sự vui buồn .

 

29 tháng 11 2016

thanks nhìu!!!!!!!