K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 10 2017

Thể hiện tình yêu thương của tác giả đối với đất nước

10 tháng 10 2017

ĐM quang

16 tháng 10 2017

???

17 tháng 10 2017

Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc ta suốt mấy ngàn năm qua được phản ánh qua những truyền thuyết đẹp đẽ, hào hùng. Truyện Thánh Gióng với giá trị nội dung và nghệ thuật lớn lao đã làm rung động trái tim yêu nước của bao thế hệ. Thánh Gióng là một hĩnh tượng nghệ thuật tuyệt đẹp, là truyện cổ tràn đầy tinh thần yêu nước. .

Truyền thuyết này chứng minh rằng yêu nước là tình cảm nảy nở rất sớm trong dân tộc Việt. Và cũng từ ngàn xưa, mỗi người dân đã có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, giữ gìn đất nước. Truyện đề cao truyền thống đánh giặc và khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong chiến tranh giữ nước.

Nhân vật chính của truyện là Thánh Gióng. Hình tượng này là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của người xưa. Cả cuộc đời Thánh Gióng là xâu chuỗi những yếu tố kì lạ, phi thường

Sự ra đời của Gióng không giống như mọi em bé khác. Mẹ Gióng tình cờ ướm thử bàn chân vào vết chân lạ khổng lồ trong rừng rồi thụ thai và có mang tới mười hai tháng mới sinh ra Gióng. Điều khác thường nữa là đã lên ba tuổi mà cậu bé chẳng biết nói, chẳng biết đi, cứ đặt đâu nằm đấy. Lòng người mẹ trĩu nặng âu lo nhưng vì thương con, bà đã vượt oua tất cả để chăm sóc con cu đáo. Theo môtip quen thuộc trong truyện cổ dân gian thì nhân dân hay tô vẽ cho nhân vật mà mình yêu mến những yếu tố kì lạ để nhân vật ấy trở nên phi thường

Với sự dẫn dắt tài tình, truyện đưa từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác về cậu bé làng Gióng. Đang nằm trên chõng, nghe sứ giảgọi loa báo tin nhà vua tìm người tài giỏi ra giết giặc cứu nước, Gióng bỗng cất tiếng nói và tiếng nói đầu tiên của cậu bé là tiếng nói nhận sứ mạng cứu nước. Cậu nhờ sứ giả tâu với vua xin cung cấp cho đủ phương tiện như nón sắt, giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để cậu tiêu diệt quân xâm lược. Để cho Gióng ba năm câm lặng, để cho Gióng nói lời nói đầu tiên là lời cứu nước, người xưa đã gửi gắm vào đó hình bóng của chính mình - những người dân cần cù, lam lũ, nói ít làm nhiều. Đã nói là lời nói hay, đã làm thì làm việc ích nước lợi nhà.

Việc gặp sứ giả là cái mốc quan trọng trong đời Gióng. Sau đó, Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng không đủ no, áo vừa may xong đã chật. Mẹ không đủ gạo nuôi Gióng, cả làng phải xúm lại góp gạo, góp khoai nuôi cậu.

Khi nhà vua cho mang đầy đủ các thứ đến, Gióng bỗng vươn vai trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Ngựa sắt hí vang, phun lửa và phi như bay ra chốn trận tiền.

Gióng dùng roi sắt quật khiến giặc chết như ngả rạ. Ngựa phun lửa thiêu cháy quân thù. Roi gãy, Gióng nhổ từng khóm tre bên đường đánh tiếp. Giặc Ân tan tác phải tìm đường tháo chạy. Gióng đã chiến đấu và chiến thắng oanh liệt không chỉ bằng vũ khí mà cả bằng cây cối quen thuộc của quê hương. Sức mạnh của Gióng còn được nhân lên gấp bội bởi nhân dân đã truyền cho chàng sức mạnh vô song.

Giặc tan, Gióng không về nhà để gặp lại mẹ hiền và dân làng yêu quý. Chàng cũng không trở về triều đình để nhà vua ban thưởng cho tước vị cao sang. Chàng cưỡi ngựa tới chân núi Sóc rồi dừng lại, vái lạy mẹ già, vái lạy quê hương, cởi bỏ giáp sắt, nón sắt rồi cưỡi ngựa từ từ bay lên trời.

Có thể nói truyền thuyết Thánh Gióng là một bài ca yêu nước nồng nàn và hình tượng Thánh Gióng là kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc ra. Không phải ngẫu nhiên mà tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói yêu nước, hành động đầu tiên của Gióng là hành động cứu nước. Tất cả những chi tiết ấy đều nhằm vào mục đích ca ngợi tinh thần bất khuất chống xâm lăng của cả cộng đồng dân tộc Việt. Sức mạnh vô địch của Gióng cũng chính là sức mạnh vô địch của nhân dân trong chiến tranh giữ nước.

Sau khi Gióng về trời, nhà vua phong chàng danh hiệu cao quý là Phù Đổng Thiên Vương. Còn dân chúng biết ơn chàng đã lập miếu thò' và suy tôn là Thánh Gióng.

Truyện Thánh Gióng mang nhiều yếu tố kì ảo, hoang đường nhưng những yếu tố ấy làm nên vẻ đẹp lấp lánh, cuốn hút của truyện. Đó chính là tác phẩm của trí tưởng tượng bay bổng của người xưa. Người xưa muốn gửi gắm vào hình tượng Thánh Gióng lòng yêu nước nồng nàn và khát vọng chiến thắng ngoại xâm - dù chúng đông và mạnh đến chừng nào. Đồng thời, truyện cũng biểu lộ quyết tâm không gì lay chuyển nổi của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của non sông yêu dấu.

17 tháng 10 2017

chả biết

17 tháng 10 2017

Truyền thuyết "Thánh Gióng" là tác phẩm lớn đầu tiên về đề tài giữ nước chống kẻ thù xâm lược, mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm. Yếu tố thần thoại, truyền thuyết dân gian, lịch sử đã được nhào nặn lại theo quan niệm và lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân. Cái "lõi" lịch sử ở truyện Thánh Gióng đã được lý tưởng hóa với tâm tình thiết tha của nhân dân gửi gắm vào đó. Qua sự tích người anh hùng làng Phù Đổng, truyện Thánh Gióng đã phản ánh khá toàn diện và khái quát, sinh động và cụ thể cuộc chiến đấu hào hùng chống giặc Ân xâm lược trong thời kỳ Văn Lang. Đây là những trang sử chống xâm lược đầu tiên của dân tộc ta được ghi vào truyền thuyết không chỉ mang ý nghĩa biểu dương, ca ngợi mà còn tổng kết, lý giải nguyên nhân của chiến tranh và thắng lợi.

Thánh Gióng là sự khái quát hóa, hình tượng hóa và lý tưởng hóa toàn bộ quá trình sinh ra, lớn lên, chiến đấu và chiến thắng của đội quân chống xâm lược đầu tiên của Việt Nam ở thời kỳ Văn Lang. Trước hết, đó là một đội quân có sức mạnh phi thường, bao gồm cả sức mạnh của con người và sức mạnh của vũ khí. Trong sức mạnh của con người có cả sức mạnh của thể lực và sức mạnh của tinh thần, ý chí. Thánh Gióng là nhân vật huyền thoại mà nhân dân muốn gửi gắm ý chí chiến đấu phi thường qua kỳ tích nhổ từng bụi tre "đằng ngà" (sau khi "gươm sắt" hoặc "roi sắt" bị gẫy) để tiếp tục truy kích và đánh tan giặc Ân. Những chi tiết mang tính chất hoang đường, kỳ diệu, như: Gióng lên ba vẫn nằm trơ không nói, không cười, nhưng khi nghe lời rao của sứ giả (cầu người hiền tài ra giết giặc cứu nước), bỗng vươn vai đứng dậy và cao lớn vụt lên thành người khổng lồ... đều là sự hình tượng hoá và thần thánh hóa mối quan hệ và sự phát triển nhanh chóng về tinh thần, vật chất của lực lượng kháng chiến.

Ở truyện Thánh Gióng, vai trò, tác dụng của vũ khí và phương tiện chiến đấu được tác giả nhận thức và phản ánh khá sâu sắc và sinh động. Sự đề cao, ca ngợi và thần thánh hóa các loại phương tiện và vũ khí bằng kim loại (ngựa sắt, gươm sắt, áo giáp sắt) chẳng những không hạ thấp hoặc làm lu mờ vai trò, tác dụng của các loại vũ khí thô sơ, thông thường, mà trái lại còn có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh sự cần thiết phải đồng thời sử dụng cả hai loại vũ khí ấy. Đội quân chống xâm lược và sức mạnh phi thường của nó ở trong truyện Thánh Gióng không phải tự nhiên mà có và cũng không phải là nhất thành bất biến mà đó là một đội quân thể hiện sức mạnh có tổ chức, được nuôi dưỡng, chuẩn bị công phu, có quá trình hình thành, phát triển rõ rệt, cụ thể và hợp lý.

Kỳ tích ấy, Gióng được nhân dân tôn xưng là "Thánh", được nhà vua phong là "Phù Đổng Thiên Vương" nhưng căn bản và trước hết Gióng vẫn là một Con Người - một người con của làng Phù Đổng, thuộc bộ Vũ Ninh, nước Văn Lang, đời Hùng Vương thứ sáu. Nguồn gốc, lai lịch và địa chỉ của Gióng được xác định rõ ràng, cụ thể. Cả cái tên Gióng cũng hết sức dân dã. Gióng thầm lặng như cái bản nhiên của người lao động, chỉ nói một câu “xin đi đánh giặc”. Cái vươn vai “lớn 10 trượng” cũng là để nhận nhiệm vụ đánh giặc cao cả khi đất nước lâm nguy. Sự xuất hiện của bàn chân khổng lồ trên đồng ruộng không phải xác lập cái ngôi thiên tử cho Gióng mà chỉ là một biểu tượng cho sự hoà hợp giữa đất và trời, giữa thần linh và người mẹ nông dân đã cho ra đời một anh hùng quần chúng. Những chi tiết về sự thụ thai của bà mẹ Gióng (ướm thử bàn chân mình vào vết chân người khổng lồ in trên đồng, mang thai 12 tháng...), đều chỉ là sự thần thánh hóa để đề cao người anh hùng, làm cho người anh hùng có nguồn gốc siêu nhiên, thần thánh khác thường. Nhưng dù khoác lên nhiều yếu tố kỳ diệu, khác thường, Thánh Gióng vẫn không thể lấn át và thay thế được cái bình thường của con người trần thế. Dẫu có siêu nhiên kỳ ảo, Gióng vẫn phải "nằm trong bụng mẹ" (dù là 12 tháng); vẫn phải "uống nước, ăn ba nong cơm, bảy nong cà” với bao công sức gom góp từ quần chúng (dù là mấy nong); vẫn phải mặc quần áo bằng vải của dân làng Phù Đổng (dù là rộng đến đâu); đánh giặc xong không về triều mà bay về trời, về với cõi bất tử, với cõi hư không cho thấy ý chí phục vụ đất nước vô tư thật là gương mẫu [1], nhưng vẫn không quên cúi đầu chào đất Mẹ; và ngay cả ngựa sắt, gươm sắt, áo giáp sắt, nón sắt của Gióng cũng là do vua Hùng tập hợp những người thợ rèn tài giỏi ở trong nước đúc nên...

Quá trình xuất hiện, trưởng thành và chuẩn bị vũ khí chiến đấu của Gióng phản ánh khá rõ quá trình xây dựng lực lượng vũ trang chống xâm lược của dân tộc. Dấu tích của người anh hùng vẫn hiện hữu trong mảnh đất quê hương. Những bụi tre đằng ngà (giống tre có lớp cật ngoài trơn và bóng, mầu vàng) ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả mầu vàng óng; những vết chân ngựa nay thành những hồ ao; ngựa thét, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy (ở cạnh làng Gióng).

Có thể nói, truyền thuyết Thánh Gióng đã có sự kết hợp giữa Nhà nước (tiêu biểu là vua Hùng) và nhân dân (tiêu biểu là Gióng và nhân dân làng Phù Đổng), giữa sức mạnh của con người và sức mạnh của vũ khí mà lòng yêu nước đã trở thành một truyền thống quý báu. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Tiếng rao của sứ giả là lời hiệu triệu của vua Hùng, là tiếng gọi của non sông khi quân thù tràn đến, khi Tổ quốc lâm nguy. Lực lượng chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc bình thường tiềm ẩn trong nhân dân (như chú bé làng Gióng nằm im không nói, không cười), nhưng khi có giặc ngoại xâm thì tiếng gọi của non sông đã tập hợp, thức tỉnh tất cả các lực lượng tiềm ẩn ấy của dân tộc, Gióng vụt lớn lên và câu nói đầu tiên là nhận nhiệm vụ đánh giặc. Thánh Gióng tập trung cho ý chí của nhân dân, khi đất nước lâm nguy đã đặt lên vai mình sứ mệnh lịch sử lớn lao. Đó là một chân lý, một quy luật quan trọng về xây dựng, tổ chức, phát triển lực lượng chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc mà cha ông đã sớm nhận thức tổng kết và truyền lại cho đời sau bằng truyền thuyết xuất sắc này. Chính điều đó đã làm nên một Thánh Gióng bất tử. Một Thánh Gióng đã đi vào tâm thức người Việt một cách tự nhiên dẫu thời gian biến đổi vạn vật.

Không chỉ mang ý nghĩa đánh giặc, truyền thuyết Thánh Gióng còn đánh dấu bước ngoặt đặc biệt của dân tộc Việt Nam thời kỳ sơ sử, tiền sử ở lĩnh vực nông nghiệp. Công cụ đồ sắt được quy tụ vào vũ khí đánh giặc thay thế cho công cụ đồ đồng, đồ đá. Người Việt có tấc sắt trong tay đã mở rộng địa bàn cư trú từ núi cao xuống vùng châu thổ thấp. Việc phát hiện ra đồ sắt được nhân cách hóa để trở thành một vị thần vĩ đại cho thấy sức mạnh của nó trong công cuộc chế ngự thiên nhiên và đánh giặc. Người Việt xây dựng một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay...

Vì thế, nhân vật Gióng là lẽ sống hồn nhiên vô tư của người lao động. Cái “hoang đường” trong truyền thuyết chẳng còn là hoang đường bởi nó luôn đứng trên đôi chân của hiện thực. Quá trình phát triển của hình tượng Thánh Gióng dồi dào ý nghĩa nhân sinh, triết lý và nhân văn.

Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương là anh hùng văn hóa sinh từ thời cổ đại, tiền sử. Trong quá trình phát triển của cư dân Việt, vị anh hùng văn hóa ấy thường được gắn với các sự kiện lớn, được sử hóa bất tử trong tâm tưởng người Việt. Huyền thoại ấy đã và đang sống hiện hữu trong cuộc sống hiện đại. Mỗi người Việt Nam hẳn không quên huyền thoại bất tử này. Trong các bài nói chuyện, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc tới người anh hùng dân tộc. Trong Diễn văn khai mạc lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Người khẳng định: "Đảng ta vĩ đại thật. Một ví dụ trong lịch sử ta có ghi chuyện vị anh hùng dân tộc là Thánh Gióng đã dùng gốc tre đánh đuổi giặc ngoại xâm. Trong những ngày đầu kháng chiến Đảng ta đã lãnh đạo hàng nghìn, hàng vạn anh hùng noi gương Thánh Gióng dùng gậy tầm vông đánh thực dân Pháp". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những vần thơ ra trận sống động kêu gọi tinh thần yêu nước tiềm ẩn, đến “Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt” (Chế Lan Viên), rồi “những trai làng Phù Đổng” mang “chiếc gậy tầm vông” nô nức lên đường “ra trận mùa xuân” (Gia Dũng). Và trong thời kỳ hội nhập, sức mạnh Phù Đổng vẫn được tiếp nối thể hiện sức mạnh và bản lĩnh Việt Nam…

Trong tâm thức của người dân đất Việt, Thánh Gióng là hào khí của bản hùng ca hoành tráng từ ngàn xưa vọng lại; là niềm tự hào, kính trọng về sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong việc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, Thánh Gióng còn là bản tình ca tuyệt đẹp về tình mẫu tử, về trách nhiệm của con người đối với Tổ quốc. Hàng ngàn năm trôi qua, với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, dân tộc ta luôn nhắc nhau:

"Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời"

12 tháng 10 2018

A, mình làm thừa câu A  ở cuối câu nha

12 tháng 10 2018

Câu A là đáp án đúng đó

Ngữ văn  Bài mở đầuBài 1. Tôi và các bạnBài mở đầu: Hòa nhập vào môi trường mới1. Truyện (Truyền thuyết, cổ tích)Bài 2. Gõ cửa trái timBài 1: Lắng nghe lịch sử nước mình2. Thơ (Thơ lục bát)Bài 3. Yêu thương và chia sẻBài 2: Miền cổ tíchBài 4. Quê hương yêu dấuBài 3: Vẻ đẹp quê hươngSoạn ngữ văn lớp 63. Kí (Hồi kí và du kí)Bài 5. Những nẻo đường xứ sởBài 4: Những trải...
Đọc tiếp

Ngữ văn  Bài mở đầuBài 1. Tôi và các bạnBài mở đầu: Hòa nhập vào môi trường mới1. Truyện (Truyền thuyết, cổ tích)Bài 2. Gõ cửa trái timBài 1: Lắng nghe lịch sử nước mình2. Thơ (Thơ lục bát)Bài 3. Yêu thương và chia sẻBài 2: Miền cổ tíchBài 4. Quê hương yêu dấuBài 3: Vẻ đẹp quê hươngSoạn ngữ văn lớp 63. Kí (Hồi kí và du kí)Bài 5. Những nẻo đường xứ sởBài 4: Những trải nghiệm trong đờiTập làm văn lớp 64. Văn bản nghị luận (Nghị luận văn học)Ôn tập học kì IBài 5: Trò chuyện cùng thiên nhiênVăn mẫu lớp 65. Văn bản thông tin (Thuật lại sự kiện theo trình tự thời gian)Bài 6. Chuyện kể về những người anh hùngÔn tập học kì IÔn tập và đánh giá cuối học kì IBài 7. Thế giới cổ tíchBài 6: Điểm tựa tinh thầnSổ tay hướng dẫn đọc, viết, nói và ngheBài 8. Khác biệt và gần gũiBài 7: Gia đình thương yêuBảng tra cứu tên riêng nước ngoàiBài 9. Trái Đất - ngôi nhà chungBài 8: Những góc nhìn cuộc sốngBảng tra cứu từ ngữBài 10. Cuốn sách tôi yêuBài 9: Nuôi dưỡng tâm hồn6. Truyện (Truyện đồng thoại, Truyện của Pu-skin và An-đéc-xen)Ôn tập học kì IIBài 10: Mẹ thiên nhiên7. Thơ (Thơ có yếu tố tự sự, miêu tả)Bài 11: Bạn sẽ giải quyết việc này như thế nào?8. Văn bản nghị luận (Nghị luận xã hội)Ôn tập cuối học kì II9. Truyện (Truyện ngắn)10. Văn bản thông tin (Thuật lại sự kiện theo nguyên nhân - kết quả)Ôn tập và tự đánh giá cuối học kì IIBảng tra cứu từ ngữBảng tra cứu tên riêng nước ngoàiBảng tra cứu yếu tố Hán Việt thông dụng  Soạn ngữ văn lớp 6 lý thuyếttrắc nghiệmhỏi đápbài tập sgk Hãy tham gia nhóm Học sinh Hoc24OLM Nguyễn Huyền Diệu 6A 25 tháng 11 lúc 22:01 Câu 1:Khi tìm hiểu về văn bản thông tin ta cần chú ý điều gì? Hãy giới thiệu ngắn gọn những hiểu biết của em về kiểu văn bản này? Cho ví dụ? ...................................................................................................................................................................................................................................................................................... Câu 2: Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả? Xuất xứ của văn bản? ...................................................................................................................................................................................................................................................................................... Câu 3: Khi đọc văn bản“Hồ Chí Minh và Tuyên ngôn độc lập”cần đọc như thế nào? Giải thích các từ khó trong văn bản? .................................................................................................................................................................................................................................................................................... Câu 4: Văn bản HCM và Tuyên ngôn Độc lập thuộc thể loại gì? Thuật lại sự kiện gì? theo trình tự nào? Xác định PTBĐ của văn bản?

0
19 tháng 7 2016

* Truyện truyền thuyết :

- Bánh trưng bánh giày

- Thánh Gióng

- Sơn Tinh Thủy Tinh

- Sự tích Hồ Gươm

* Truyện cổ tích :

- Thạch Sanh

- Em bé thông minh

* Truyện ngụ ngôn :

- Ếch ngồi đáy giếng

- Thầy bói xem voi

- Chân , Tay , Tai , Mắt , Miệng

* Truyện cười :

- Treo biển

- Lơn cưới , áo mới

* Truyện trung đại :

- Con hổ có nghĩa

- Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng

* Truyện ngắn

- Bài học đường đời đầu tiên

- Sông nước Cà Mau

- Bức tranh của em gái tôi

- Vượt thác

- Buổi học cuối cùng

* Thơ :

- Đêm nay Bác không ngủ

- Lượm

- Mưa

* Kí :

- Cô tô

- Cây tre Việt Nam

- Lòng yêu nước

* Truyện nhật dụng

- Bức thư của thủ lĩnh da đỏ

- Động Phong Nha

- Cầu Long Biên - Chứng nhân lịch sử

19 tháng 7 2016

Câu 1 :

– Giống nhau :

+ Đều thuộc bộ phận văn học dân gian

+ Đều có yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo

+ Có nhiều chi tiết (mô típ) giống nhau: Sự ra đời thần kỳ, nhân vật chính có những tài năng phi thường

– Khác nhau:

+ Truyền thuyết kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử và thể hiện cách đánh giá của nhân dân đối với những nhân vật, sự kiện lịch sử được kể, được cả người kể lẫn người nghe tin là những câu chuyện có thật(mặc dù trong đó có những chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo)

+ Truyện cổ tích : Kể về cuộc đời của các loại nhân vật nhất định và thể hiện quan niệm, mơ ước của nhân dân về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác…được cả người kể lẫn người nghe coi là những câu chuyện không có thật (mặc dù trong đó có những yếu tố thực tế)

NG
22 tháng 12 2023

Tham khảo
- Thay vì vào bài trực tiếp, chúng ta có thể mở bài gián tiếp

+ Trong chuyến đi: Nhân một chuyến du lịch đến làng Gióng,…. tôi đã được chú/cô hướng dẫn viên kể lại câu chuyện về sự tích nơi này.

+ Khi làm bài tập: Khi được yêu cầu viết một bài văn kể lại câu chuyện truyền thuyết ưa thích, tôi đã nghĩ ngay đến Thánh Gióng.

+ Trong sinh hoạt gia đình: Cha mẹ tôi luôn dạy tôi phải trân trọng lịch sử. Tôi đã được nghe không biết bao nhiêu câu chuyện truyền thuyết, cổ tích trong những bữa ăn/buổi đi chơi. Tối qua, tôi được mẹ kể về Thánh Gióng.

....

- Sau đó dẫn vào câu chuyện:

Đó là câu chuyện từ thời Hùng Vương thứ 6, tại làng Gióng. Có một đôi vợ chồng già vô cùng chăm chỉ, đức hậu nhưng mãi chưa có được mụn con nào. Thế rồi một hôm, bà lão trông thấy một vết chân rất to trên nền đất nên tò mò ướm thử chân vào. Nào ngờ không lâu sau bà mang thai. Điều kì lạ chưa dừng ở đó. Bà lão mang thai đến 12 tháng mới sinh được cậu con trai rất khôi ngô, tuấn tú. Thế nhưng, cậu bé lên 3 rồi mà vẫn chưa thấy nói, thấy cười hay thấy đi, cứ đặt đâu thì nằm đó. Thời đó, giặc Ân hung bạo sang xâm lược nước ta. Nhân dân rơi vào cảnh lầm than, chiến tranh liên miên. Thấy vậy, nhà vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi. Nghe vậy, cậu bé lên 3 ấy liền cất những câu nói đầu tiên trong cuộc đời ''Mẹ ra mời sứ giả vào đây''. Khi sứ giả vào, cậu bé bảo ''Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.''. Nhà vua nghe vậy liền cho thợ làm gấp những vật mà cậu bé dặn dò. Lạ hơn là, sau ngày hôm đó, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mãi không no, áo vừa mặc đã đứt chỉ. Hai vợ chồng làm lụng bao nhiêu cũng không đủ nuôi người con nên phải đành nhờ cậy hàng xóm. Bà con xung quanh đều  vui lòng góp gạo nuôi chú bé vì ai cũng muốn quân giặc sớm bị tiêu diệt. Khi sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến cũng là lúc thế nước đang rất nguy vì giặc đã đến gần chân núi Trâu Sơn. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng trở thành một tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc để đón đầu chúng. Người tráng sĩ lúc này đánh hết lớp giặc này đến lớp giặc khác. Roi sắt gãy thì nhanh trí nhổ cụm tre cạnh đường mà quật giặc đến tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau mà tháo chạy, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đó, người cởi áo giáp sắt, một mình một ngựa từ từ bay lên trời. Cảnh ấy mới thật tráng lệ, hùng vĩ làm sao. Sự góp sức chống giặc của người tráng sĩ được vua nhớ công mà phong là Phù Đổng Thiên Vương. Vua ban lệnh lập đền thờ ngay ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng (hay còn gọi là làng Gióng). Mỗi năm khi đến tháng Tư, làng mở hội to. Nhiều người kể rằng, những bụi tre đằng ngà vì ngựa phun bị cháy mới ngả sang màu vàng óng như vậy, còn những vết chân ngựa lại thành những ao hồ liên tiếp Người ta còn truyền nhau rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu cháy một làng cho nên gọi đó là làng Cháy. 

- Có thể kết thúc ở đó hoặc mở rộng thêm một số ý như sau:

+ Ý nghĩa truyền thuyết: Truyền thuyết “Thánh Gióng” mang theo ước mơ về người anh hùng chống giặc của nhân dân ta. Đồng thời cũng cho thấy tinh thần kiên cường, bất khuất, không ngại chiến đấu để bảo vệ bờ cõi dân tộc.

+ Kết lại hoàn cảnh mở câu chuyện: Đi du lịch (Buổi thăm quan đến đó là kết thúc, sau khi về nhà trong đầu tôi vẫn không thôi hiện lên hình ảnh Thánh Gióng); trong sinh hoạt (Khi ăn xong bữa cơm, vì quá hứng thú trước câu chuyện mẹ kể mà tôi đã lên mạng tìm hiểu ngay về nó. Càng tìm hiểu, tôi lại càng yêu mến lịch sử, văn hóa nước mình. Tôi đã đề nghị mẹ cho mình một chuyến đi tham quan đến làng Gióng nếu như đợt tới điểm kiểm tra của tôi đạt 9.0.)....

+ Bài học bản thân/Liên hệ bản thân: Qua câu chuyện, tôi hiểu được sự nghiệp gian khổ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, với trách nhiệm của một người công dân nói chung và người học sinh nói riêng, em tự nhắc nhở bản thân phải không ngừng học tập, rèn luyện đạo đức để góp phần nhỏ bé xây dựng đất nước.

31 tháng 3 2022

B

31 tháng 3 2022

B. Sai