K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

#ngontinh_review Tên: ĐÔNG CHÍTác giả: Ngưng LũngThể loại: Hiện đại, điều tra phá án, gương vỡ lại lành, sạch, sủng, HE Số chương: 60 chương + 10 phiên ngoại Tình trạng: Hoàn editLâu lắm mình mới tìm được một bộ vừa làm mưa làm gió bên Trung lại được đón chào nồng nhiệt bên Việt. Trước giờ ngôn tình trinh thám luôn được độc giả săn đón nhiều nhất vì nó có tính kích thích cao và...
Đọc tiếp

#ngontinh_review
Tên: ĐÔNG CHÍ
Tác giả: Ngưng Lũng
Thể loại: Hiện đại, điều tra phá án, gương vỡ lại lành, sạch, sủng, HE
Số chương: 60 chương + 10 phiên ngoại
Tình trạng: Hoàn edit

Lâu lắm mình mới tìm được một bộ vừa làm mưa làm gió bên Trung lại được đón chào nồng nhiệt bên Việt. Trước giờ ngôn tình trinh thám luôn được độc giả săn đón nhiều nhất vì nó có tính kích thích cao và thật sự khá hay. Sau khi đọc xong Đông Chí, quả thật mình rất mãn nguyện, không giống những bộ ngôn tình trinh thám khác là có nhiều vụ án mà Đông Chí chỉ có một vụ án duy nhất kéo từ đầu đến cuối truyện, bên cạnh đó sẽ phát sinh các vụ án khác nhưng đều có liên quan đến vụ án chính này.

Mở đầu câu chuyện là cảnh nữ chính Lục Yên trong lúc vội vã chạy đến bệnh viện vô tình va phải một người rất giống cô bạn thân cấp 3 tên Đặng Mạn đã chết nhiều năm, ngay sau khi va phải người đó, những chuyện kì lạ bắt đầu xảy ra với Lục Yên.

Cũng vào khoảng thời gian đó, bạn trai cũ của Lục Yên, người năm đó bị Lục Yên đá, Giang Thành Ngật trở về thành phố S. Hai người gặp lại nhau trong buổi họp lớp cấp 3. Ngoài mặt Giang Thành Ngật ra vẻ lạnh lùng không màng thế sự nhưng trong lòng thì bắt đầu không yên, vừa cay cú vì năm đó bị Lục Yên đá vừa nhớ thương cô 📷:v . Và sau khi có người nửa đêm đến nhà Lục Yên dọa cô mà Giang Thành Ngật bắt đầu để cô “ở trọ” trong nhà mình. Cuộc sống ở chung của hai người bắt đầu.

Cùng lúc đó, những cái chết lần lượt xuất hiện, đầu tiên là cái chết của đồng nghiệp Lục Yên, tiếp theo là cái chết của nữ phụ Đinh Tịnh (Cùng học cấp 3 với nam nữ chính), từ hai cái chết đó Lục Yên càng ngày càng tin chắc vào nghi ngờ của mình, năm đó Đặng Mạn thật sự tự sát hay đã có ai sát hại cô ấy? Càng tìm hiểu thì lại càng rối loạn, không chỉ hai cái chết kể trên, lại còn đào ra được thêm 2 người đã chết nữa, mà tất cả lại đều xoay quanh hai chữ “Đông Chí”.

Đông Chí ở trong truyện không chỉ là một trong hai mươi tư tiết khí trong nông lịch theo lịch Trung Quốc cổ đại mà còn là tên một trang web bói bài Tarot do nữ phụ Đinh Tịnh lập. Không ngoa khi nói Đông Chí là một trong tích truyện tam đại quỷ của Trung Quốc (Gồm: Đông Chí, Trung Nguyên, Thanh Minh). Ngay từ cái tên Đông Chí chúng ta đã thấy nó đầy u ám và kì bí. Cũng như bộ truyện này, càng đọc càng bất ngờ, càng phải rùng mình.

Bốn người chết, tưởng chừng không chút liên quan nhưng lại liên kết cực kỳ chặt chẽ với nhau, dường như mọi người cứ ngỡ vụ án này chỉ là án liên hoàn đơn giản nhưng không ngờ nó đã kéo dài từ tận 8 năm trước cho đến thời điểm hiện tại.

Nhưng cũng nhờ những vụ án này mà Lục Yên và Giang Thành Ngật lại càng được kéo gần nhau hơn, lúc hai người làm hòa cũng là lúc chân tướng lộ rõ từng bước một. Về vấn đề tình cảm bộ này khá ngọt ngào, tuy gắn mác gương vỡ lại lành nhưng chẳng ngược chút nào, sủng ngọt có, có chút thịt vụn này, Giang Thành Ngật ngoài mặt lạnh lùng nhưng lại là sắc lang chính hiệu, hồi cấp 3 là anh tán đổ Lục Yên, coi như Lục Yên như nữ thần đời mình, đến nỗi cô ngủ chảy cả nước dãi anh còn gật đầu khen dễ thương 📷:v

Còn Lục Yên, một cô gái xinh đẹp lại chăm chỉ, không bánh bèo, tính cách rất quyết đoán, năm đó đề nghị chia tay Giang Thành Ngật cũng có lý do cả, làm đau người mình yêu cũng tự làm đau mình, thật sự do quá sợ hãi và đau khổ nên mới đề nghị chia tay. Cái này các bạn đọc sẽ rõ, mình nói ra lại mất hay.

Còn về phần vụ án, có lẽ chỉ có một vụ duy nhất nên tác giả rất chú trọng và tốn sức tìm hiểu các thứ chuyên ngành khác để áp dụng vào truyện, tác giả còn rất giỏi trong việc đánh lừa độc giả, khi bạn nghĩ người này là hung thủ sẽ tác giả lại lái ngay hướng suy nghĩ của bạn sang người khác, khi tất cả nghi vấn đều hướng vào một người thì chưa chắc người đó đã là hung thủ. Lúc đọc truyện này thật sự mình phải khen tác giả một câu là tổ lái quá mượt, trơn tru logic không bị lệch tay lái 📷:)))

Nếu những bộ trinh thám khác có thể đoán được hung thủ qua vài 3 câu phân tích thì bộ này lại khác, càng đọc những lời phân tích của công an và chuyên gia tâm lý mình càng bối rối và khó suy đoán hơn, ngoài việc chuyên gia tâm lý phân tích rất cặn kẽ và nhiều lúc khiến đứa lười động não như mình khó hiểu ra thì đọc 2 3 lần sẽ thấy rất đúng.

Để đến lúc bắt được hung thủ, mình vẫn còn hơi nghi ngờ, còn sợ tác giả lại tổ lái tiếp 📷:v Nhưng không, hung thủ này cũng khiến mình vô cùng vô cùng bất ngờ. Một người tưởng chừng mờ nhạt như một phông nền lại biến thành hung thủ tội phạm IQ cao, về sau tác giả giải thích từng lý do, nguyên nhân để xác nhận người này là hung thủ thì mình cũng phải gật gù tán thưởng là quá hợp lý.

Hình như đã nói hơi nhiều rồi, mình xin tạm dừng và tổng kết lại như sau: Truyện quá hay, càng đọc càng hứng thú, vì nó gợi sự tò mò và buộc bạn phải suy đoán. Truyện HE, có ít thịt vụn mà cũng như không vụn, ngọt ngào có đủ, phá án thì cũng quá ổn luôn. Edit thì siêu siêu mượt. Nhiệt liệt đề cử các chị mẹ cùng nhảy ♥

Review by Lạc Dung


0
Chuyên mục"NHẢY CẢM"Tình dục là nhu cầu tối thiểu của mỗi người. Tuy nhiên từ xa xưa, nó được coi là một chủ đề nhạy cảm và người ta thường tránh nói về vấn đề này, đặc biệt là người Châu Á. Ngày nay, xã hội cũng đã thoáng hơn, nhiều nghiên cứu về sex được công bố và mọi người cũng rất sẵn sàng tham gia vào những nghiên cứu này. Chính vì vậy, nhiều sự thật thú vị về...
Đọc tiếp

Chuyên mục"NHẢY CẢM"

Tình dục là nhu cầu tối thiểu của mỗi người. Tuy nhiên từ xa xưa, nó được coi là một chủ đề nhạy cảm và người ta thường tránh nói về vấn đề này, đặc biệt là người Châu Á. Ngày nay, xã hội cũng đã thoáng hơn, nhiều nghiên cứu về sex được công bố và mọi người cũng rất sẵn sàng tham gia vào những nghiên cứu này. Chính vì vậy, nhiều sự thật thú vị về sex đã được hé lộ và giúp nhiều người giải đáp được những thắc mắc thầm kín của mình. Hãy cùng tìm hiểu một vài thông tin thú vị về sex qua bài viết dưới đây nhé!

Đàn ông thích xem phim khiêu dâm đồng tính

📷

Nhắc đến phim khiêu dâm đồng tính có thể nhiều người nghĩ rằng đối tượng xem chủ yếu của các loại phim này là người đồng tính. Thế nhưng không, cánh mày râu mới là những người ưa thích loại phim này hơn cả, đặc biệt là phim đồng tính nữ. Đó là kết quả nghiên cứu mới nhất của hai nhà thần kinh học Sai Gaddam và Ogi Ogas. Họ đã tiến hành phân tích từ khoảng gần 1 tỉ từ khóa tìm kiếm trên mạng Internet từ hơn 100 triệu người trên khắp thế giới. Thống kê đã cho thấy phim đồng tính là loại phim được truy cập nhiều thứ tư ở các trang web khiêu dâm và đối tượng chủ yếu là đàn ông hoặc những người không hề thích quan hệ đồng giới.

Kết quả này cũng trùng hợp với những nghiên cứu của đại học Northwestern University, họ đều đồng ý rằng hơn một nửa những người xem phim khiêu dâm đồng giới là đàn ông và số còn lại mới là những người đồng tính. Nói cách khác, phần lớn cánh mày râu đều thích xem phụ nữ quan hệ với nhau hơn là các phim khiêu dâm thông thường.

Đàn ông thích ngắm dương vật của người khác

📷

Thoạt đầu nghe thì có vẻ mâu thuẫn thế nhưng thực tế là cho dù là đàn ông 100% thì cũng thích nhìn dương vật của người khác. Cũng là một phần nghiên cứu của Ogi Ogas và Sai Gaddam khi họ tiến hành thống kê các từ khóa phổ biến trên mạng Internet từ cơ sở dữ liệu NSA. Kết quả cho thấy từ khóa tìm kiếm hình ảnh của cơ quan sinh dục nữ nhiều hơn cơ quan sinh dục nam một lượng không đáng kể, gần như là tương đương với nhau. Bên cạnh đó, một phân tích khác từ hơn 40,000 trang web khiêu dâm trên thế giới cũng cho thấy có khoảng 1000 trang web chủ yếu tập trung vào hình ảnh bộ phận sinh dục nam. Thực tế, đàn ông có vẻ tò mò về dương vật của những người khác, giống như cách họ tò mò về cơ quan sinh dục nữ vậy.

Đời sống tình dục ảnh hưởng đến mức thu nhập của bạn

📷

Mức lương và tình dục dường như chẳng liên hệ gì đến nhau thế nhưng trong khoa học, mối tương quan giữa chúng có tồn tại và còn được đo lường một cách tương đối chính xác. Một nhà nghiên cứu từ trường đại học Anglia Ruskin đã phân tích tài chính của những hộ gia đình ở Hy Lạp trong vòng một năm và thấy rằng, những người có quan hệ tình dục bốn hoặc nhiều lần trong một tuần kiếm được nhiều hơn đáng kể so với những người khác. Bên cạnh đó, khoa học cũng chứng minh rằng những người quan hệ thường xuyên thường cảm thấy hạnh phúc, năng động và có lòng tự trọng cao – đó là một trong số những tính cách cần thiết để có thể phát triển trong môi trường làm việc hiện nay.

Đạp xe nhiều có thể khiến bạn vô sinh

📷

Trong cuộc sống hiện đại, đạp xe không chỉ giúp bạn tăng cường sức khỏe mà còn là một phương pháp bảo vệ môi trường rất hiệu quả. Thế nhưng, đạp xe nhiều hoàn toàn không hề tốt cho đời sống tình dục của đàn ông, mà nó có thể dẫn đến chứng liệt dương. Từ năm 1997, các nhà khoa học đã tiến hành các nghiên cứu giữa việc đạp xe và chứng bất lực và tất cả đều đồng ý rằng việc đạp xe thường xuyên gây ra những tác dụng không mong muốn với khả năng tình dục của nam giới. Những chiếc yên xe kiểu “cổ điển” thường có phần đầu quá dài và cứng, vì vậy nó gây ra áp lực lớn lên bộ phận sinh dục nam, thậm chí còn tạo ra những tổn thương vĩnh viễn.

Thực tế, không phải ai đạp xe thường xuyên cũng có thể bị liệt dương, cũng như không phải ai hút thuốc cũng bị ung thư phổi vậy. Tuy nhiên, việc lựa chọn một chế độ tập luyện hợp lí cũng như một chiếc yên xe thoải mái, vừa vặn sẽ giúp bạn yên tâm về vấn đề này.

Mức thu nhập cũng ảnh hưởng kích cỡ bộ ngực mà bạn ưa thích


📷

Các thống kê đã chỉ ra rằng khi gặp mặt đàn ông thường chú ý đến bộ ngực của phụ nữ nhiều hơn. Tuy nhiên không phải ai cũng thích những phụ nữ có bộ ngực “đồ sộ” mà trái lại, vẫn có rất nhiều người thích những bộ ngực nhỏ hơn. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về vấn đề này từ 266 đàn ông  với các mức thu nhập khác nhau. Theo đó, họ được phát năm bức ảnh của năm người phụ nữ với kích cỡ ngực từ lớn đến bé và phải bình chọn xem người nào quyến rũ nhất. Kết quả cho thấy phần lớn những người có thu nhập thấp thích phụ nữ có ngực to còn những người có thu nhập cao lại thích những người có bộ ngực vừa đến bé.


Điều thú vị ở đây là những người nghèo nhất thường thích ngực lớn, những người có thu nhập trung bình thích ngực vừa còn những người có thu nhập cao thì lại thích phụ nữ ngực nhỏ. Một nghiên cứu tương tự cũng chỉ ra rằng khi cảm thấy đói, đàn ông bị những phụ nữ có bộ ngực to thu hút nhiều hơn.


Đàn ông thích giúp đỡ những phụ nữ có vòng một to hơn


📷

Tất nhiên vẫn có những người thích phụ nữ ngực nhỏ nhưng những bằng chứng đã cho thấy rằng sau thẳm trong tâm trí của cánh mày râu, họ vẫn bị lôi cuốn bởi những người có vòng một đầy đặn hơn.


Năm 2007, một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ nước Pháp đã chọn một cô sinh viên đứng tại một địa điểm để xin đi nhờ xe. Trong thí nghiệm này, họ cho cô gái mặc các loại áo lót khác nhau được thiết kế để tăng dần kích cỡ ngực. Họ nhận thấy rằng, kích cỡ áo ngực càng lớn càng có nhiều đàn ông cho cô đi nhờ xe hơn. Vòng một lớn không chỉ mang lại lợi thế cho phụ nữ trong việc xin đi nhờ xe. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng phục vụ bàn có ngực càng lớn thì càng nhận được nhiều tiền bo hơn. Rõ ràng trong những trường hợp này, phụ nữ có vòng một đầy đặn luôn thu hút được sự chú ý của đấng mày râu và nhận được những sự cảm thông từ họ nhiều hơn.


Người béo thường "lâu hơn"


📷

Năm 2010, một nhóm các nhà nghiên cứu Thổ Nhĩ Kì đã tiến hành thống kê thời gian làm tình của một nhóm đàn ông trong vòng một năm. Họ nhận thấy rằng, những người béo có thời gian trung bình là 7 phút 18 giây, trong khi đó những người gầy chỉ khoảng 108 giây. Một nghiên cứu khác về triệu chứng xuất tinh sớm cũng chỉ ra rằng phần lớn những người gầy bị mặc chứng bệnh này. Điều này được giải thích bởi loại hormone sinh dục Testosterone ở nam giới. Cơ thể của đàn ông chuyển hóa một lượng hormone này thành estrogen (hormone nữ) và những người béo thì dư thừa loại hormone nữ này.Nó giúp làm tăng đáng kể thời gian "lâm trận" ở đàn ông. Những người béo thường có vẻ chậm chạp và có nhiều bất lợi trong cuộc sống, nhưng “trên giường” có thể nói họ đang chiếm nhiều lợi thế hơn những người khác.


Phụ nữ bị kích thích khi xem tinh tinh làm tình


📷

Năm 2009, Meredith Chivers đã tiến hành một nghiên cứu nho nhỏ tìm  hiểu về những tác nhân khiến phụ nữ bị kích thích. Theo đó, cô cho nhóm đối tượng xem một loạt những bức ảnh trên màn hình và bình chọn xem cái nào làm họ cảm thấy gợi tình nhất. Để đảm bảo không ai gian lận, Chivers kết nối họ với một thiết bị được đặt trong âm đạo mỗi người để đo lưu lượng máu. Và thật lạ, khi cô cho họ xem một clip về quá trình làm tình của tinh tinh, họ cảm thấy khá hưng phấn và bị kích thích. Kết quả cũng tương tự khi họ xem những đoạn phim về đàn ông thủ dâm hay hai phụ nữ hôn nhau. Và tất cả bọn họ đều không biết tại sao mình lại cảm thấy hung phấn khi xem tinh tinh làm tình, chỉ biết đó là những phản ứng hoàn toàn tự nhiên.




(Theo Lâm Anh)


0
TRUYỆN KINH DỊ! The Queen's GuardVào năm 2012, một thành viên của đội Cận vệ Nữ Hoàng đang làm việc ở tòa tháp London nhận thấy rằng có một người phụ nữ nhợt nhạt cứ nhìn anh ta trong lúc anh ta đang canh gác. Người phụ nữ này đi theo anh ta vài ngày, lúc nào cũng lẩm bẩm những con số:10, 9, 8.Một tuần sau, người cận vệ nghe thấy tiếng gõ cửa trước nhà vào lúc 3 giờ sáng. Anh ra mở...
Đọc tiếp

TRUYỆN KINH DỊ!

The Queen's Guard

Vào năm 2012, một thành viên của đội Cận vệ Nữ Hoàng đang làm việc ở tòa tháp London nhận thấy rằng có một người phụ nữ nhợt nhạt cứ nhìn anh ta trong lúc anh ta đang canh gác. Người phụ nữ này đi theo anh ta vài ngày, lúc nào cũng lẩm bẩm những con số:

10, 9, 8.

Một tuần sau, người cận vệ nghe thấy tiếng gõ cửa trước nhà vào lúc 3 giờ sáng. Anh ra mở cửa thì thấy bạn gái mình, mặc dù 2 người đã ở với nhau cả đêm. Anh hoảng hồn chạy vào phòng ngủ của mình thì thấy người phụ nữ nhợt nhạt, lẩm bẩm những con số

7, 6, 5.

Vị cảnh vệ ngay lập tức gọi cảnh sát, nhưng khi cảnh sát tới thì họ không thấy người phụ nữ nhợt nhạt kia nữa, và cặp đôi lại tiếp tục đi ngủ. Vài ngày sau đó, người phụ nữ lại tiếp tục xuất hiện. Những con số tiếp tục lùi dần:

4, 3, 2.

Vào một buổi tối, Ashley, cháu gái của vị cận vệ đến thăm anh ta và ra chơi ở ngoài sân. Lần này, cô gái nhợt nhạt lại xuất hiện, bắt lấy đứa trẻ, và la hét:

0, 0, 0.

Lần này, cảnh sát đến kịp thời và bắt người phụ nữ. Cơn ác mộng có vẻ đã qua đi. Nhưng vài ngày sau, khi vị cận vệ tiễn cháu gái mình về, anh nghe tiếng cô bé thì thầm trên chuyến tàu:

10, 9, 8.

Penpal

Penpal là câu chuyện về một học sinh tiểu học và câu chuyện xung quanh quả bóng với lá thư, một hoạt động cậu bé tham gia với lớp mình. Nhưng khi những lá thư của bọn trẻ khác trở về, cậu bé nhận thấy rằng mình không nhận được hồi âm. Cho đến một ngày giáo viên của cậu bé đưa cho cậu một lá thư, mở ra một chuỗi các sự kiện đáng lo Hóa ra bức thư của cậu bé được tìm thấy bởi một người đàn ông đáng sợ, rình rập cậu mỗi ngày thậm chí là đã từng sống trong một không gian nhỏ dưới nhà cậu. Nhiều năm sau, kẻ theo dõi bắt cóc Josh, bạn thân nhất của cậu bé. Nhuộm tóc Josh cùng màu với cậu bé và sau đó giết luôn em gái của Josh. Sau đó, kẻ rình mò thao túng cha Josh để chôn vùi cả kẻ theo dõi và Josh, rồi họ có thể bên nhau mãi mãi ngại.

Psychosis

Psychosis là câu chuyện kể về John, một người đàn ông ngày càng trở nên hoang tưởng do việc thiếu tiếp xúc với người khác trong một khoảng thời gian dài. Anh ta cố gắng thuyết phục bạn bè đến và ghé thăm. Tuy nhiên, mọi người dường như luôn từ chối John hoặc offline. Cuối cùng anh nhận được cuộc gọi video từ một người bạn nhưng dường như có gì đó không ổn.

Anh bắt đầu tin rằng các thiết bị điện tử trong cuộc sống của mình đang bị kiểm soát bởi một thứ gọi là The Entity. The Entity có thể kiểm soát bất cứ thiết bị gì vào bất cứ lúc nào mà nó muốn. John cũng tin rằng tất cả những người giao tiếp với anh ấy đang nỗ lực để dụ John rời khỏi căn hộ của mình để trở nên bị ám như họ. Bởi vì The Entity cũng có thể kiểm soát con người thông qua đôi mắt của họ. Tuyệt vọng và rơi vào đường cùng, John tự đâm mù mắt mình. Cuối cùng, chúng ta biết rằng The Entity là có thật và đã tiếp quản, chiếm lấy tâm trí của mọi người mà John biết.

~ĐỌC TRUYỆN VUI VẺ NHA!~

0
Review " Ngã vào tim nhau đau suốt một đời " của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời của Những kẻ khờ thơ mộng là tuyển tập tản văn, truyện ngắn hay nhất mà tôi từng được đọc. Quyển sách này gồm 249 trang trong đó có 23 tản văn và 7 mẩu chuyện ngắn.Đúng như tên cuốn sách này " Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời " là tập hợp của những mảnh tình...
Đọc tiếp

Review " Ngã vào tim nhau đau suốt một đời " của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.

Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời của Những kẻ khờ thơ mộng là tuyển tập tản văn, truyện ngắn hay nhất mà tôi từng được đọc. Quyển sách này gồm 249 trang trong đó có 23 tản văn và 7 mẩu chuyện ngắn.

Đúng như tên cuốn sách này " Ngã vào tim nhau, đau suốt một đời " là tập hợp của những mảnh tình đầy đau thương với muôn vàn cảm xúc khó tả, bồng bột có, thơ ngây có, hạnh phúc có và tất nhiên sẽ không thể thiếu cái vị đắng cay, đau đớn của một cuộc tình. Quyển sách này quả là có ích, bản thân tôi là một người chưa từng có một cuộc vắt vai nào hết. Nhưng đọc xong cuốn sách này, tôi lại tưởng chừng như bản thân vừa được vụt qua biết bao cảm xúc khi yêu và được yêu. Cách hành văn của tất cả những tác giả trong quyển sách này cũng vô cùng tốt, dù có chưa hẳn là hoàn mĩ nhưng nó chân thật, từng câu chữ sử dụng cũng chính xác, và đó chính là điểm mạnh để đọc giả cảm thấy thích thú và cảm nhận được bản thân như đang hoà hợp với câu chuyện.

Những tản văn hay truyện ngắn trong quyển sách này không phải đi theo một motif mới mẻ gì, nhưng lại đánh động được đến trái tim đọc giả. Vì đơn giản, một trong số những câu chuyện ấy các bạn đã từng nghĩ đến, từng trải qua rồi. Vì vậy, nó lại càng trở nên thân thuộc, cũng khiến người đọc thêm đau lòng. Ai cũng có thể nhìn thấy bản thân hiện hữu trong những câu chuyện ấy, dù mờ nhạt hay sâu sắc. Đó là cái hay của quyển sách này.

Không chỉ nội dung, tên truyện mà đến cả bìa sách cũng khiến người ta nhói đau ở lòng ngực. Bìa sách là một thiếu nữ có mái tóc xoăn dài, để ý kĩ một chút, bạn có thể thấy cô ấy đang khóc. Đúng như tên của nhóm viết ra cuốn sách này, những con người trẻ, dại khờ, chênh vênh.

Từ bìa, tên, đến nội dung của sách đều thấu lòng người. Đến cả lời tựa của sách cũng vô cùng chân thật, như một lời tâm sự, giới thiệu của nhóm viết Những kẻ khờ mộng mơ.

" Mỗi câu chuyện trong cuốn sách này là một mảnh nhỏ tình yêu, nỗi cô đơn, thất vọng, đau thương của người trẻ hoang mang, lạc lối. Chúng tôi chẳng có ước mơ hay thông điệp gì to tát, chỉ đơn giản là muốn kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu để sẻ chia, để được kể và được lắng nghe. Điều duy nhất chúng tôi hy vọng mang đến cho các bạn - những người đọc - chỉ có hai từ đồng cảm. "

Tin tôi đi, bạn sẽ không cảm thấy phí tiền của khi mua quyển sách này, nó không bổ ích được như những quyển sách khoa học hay xã hội khác, nhưng nó sẽ khiến bạn cảm thấy được sẻ chia với một mảnh tình không trọn vẹn nào đấy của bạn thân. Nó khiến bạn như hoà mình vào các cung bậc cảm xúc khác nhau.

Cảm ơn những tác giả đã góp công tạo nên quyển sách này. Cũng chúc họ thành công trên con đường phía trước. Tôi muốn cho họ biết rằng những người viết lên quyển sách này thật tuyệt vời.

Một số trích dẫn:

" Sau 25, em là cô gái cầm lên được thì cũng sẽ buông xuống được. "

" Trước khi yêu nhau, mỗi người chúng ta đều đã yêu một tình yêu khác, rất thật. Và thật tình cờ, đó lại là CÔ ĐƠN. "

" Cảm ơn anh, thanh xuân của em tươi đẹp là vì đã từng có anh ở đó! "

" Tôi vẫn luôn chờ đợi một ngày có thể nói tiếng yêu... không còn vụng trộm trong tâm tưởng. "

" Có đôi khi, phải trải qua rất nhiều thời gian, rất nhiều đau thương và vết xước mới nhận ra rằng người sẽ cùng mình đi trọn cuộc đời lại chẳng phải người mình đã từng yêu tới mức tưởng như trời long đất lở. "

0
*Isaac Newton Jr.Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.Luận...
Đọc tiếp

*Isaac Newton Jr.

Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.

Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.

Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắcánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.

Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.

Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.[3]

Sự nghiệp

📷Newton năm 1702, vẽ bởi Godfrey Kneller

Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. Khi ông ở quãng tuổi từ khoảng 12 đến 17, ông học tại King's School, Grantham, nơi mà ông chỉ học tiếng Latinh và không có Toán. Sau đó, ông rời khỏi trường và đến tháng 10 năm 1659, ông có mặt tại Woolsthorpe-by-Colsterworth, nơi mà mẹ ông, lần thứ hai góa bụa, đang cố gắng khiến ông trở thành một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thầy của ông tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho ông quay trở lại trường học để ông có thể tiếp tục việc học của mình.

Vào tháng 6 năm 1661, Newton được gửi tới Đại học Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ trường phái Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René Descartes. Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố ngay.

Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ đạo của một hạt khi bay từ vũ trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa xuân năm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho vật lý của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica.

Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các định nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II trình bày các phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi nhà thiên văn John Flamsteedkiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương trình của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra và giải được bài toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.

Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:

Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.

Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.

Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.

Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.

Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks(Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":

Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.

Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.

Theo quyển Opticks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát thấy các vòng giao thoa mà ngày nay gọi là vòng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.

Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opticks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a. Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.

Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.

Newton đã một mình đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đã vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác hơn mọi lý thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lý của phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.

Ngoài việc nghiên cứu khoa học, Newton dùng phần lớn thời gian để nghiên cứu Kinh Thánh, ông tin nhận một Chúa Trời duy nhất là Đấng tạo hóa siêu việt mà người ta không thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài khi nhìn ngắm vẻ hùng vĩ của mọi tạo vật.[4][5] Mặc dù được trưởng dưỡng trong một gia đình Anh giáo nhưng vào độ tuổi ba mươi của mình, niềm tin Kitô giáo của Newton nếu công khai ra sẽ không được coi là chính thống.[6]

Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.

Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của khoa học hiện đại. Như nhà thơ Alexander Pope đã viết:

Nature and nature's laws lay hid in night;God said "Let Newton be" and all was light.Tự nhiên và luật tự nhiên lẩn khuất trong màn đêm phủ;Chúa phán: Newton hãy xuất hiện! Và mọi thứ chói lòa.

Tiểu sử

📷Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica của Newton📷Isaac Newton (Bolton, Sarah K. Famous Men of Science NY: Thomas Y. Crowell & Co., 1889)

Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire, Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 (4 tháng 1 năm 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do cha ông, một nông dân cũng tên là Isaac Newton Sr., mất trước khi ông sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với cha dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các biến cố gia đình. May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính trong vai anh cả sau khi cha dượng mất, ông tiếp tục được cho học đại học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào năm 1661, sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học phí.

Mục tiêu ban đầu của Newton tại Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương trình nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn học của Galileo và cả quang học của Kepler. Ông đã viết trong thời gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách, đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elementscủa Euclid, Clavis Mathematica của William Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans van Schooten, Algebra của Wallis và các công trình của François Viète.

Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.

📷Isaac Newton ở tuổi già năm 1712, chân dung của Sir James Thornhill

Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.

Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự trị vì của James II, và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lý như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và sau khi James bị William III đánh bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu tranh chính trị của ông.

Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm 1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705. việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh cãi quyết liệt khiến hai nhà khoa học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn.

Nghiên cứu khoa học

Quang học

📷Quyển Opticks của Newton📷Minh họa hiện tượng Tán sắc ánh sáng trắng thành nhiều màu khác nhau qua lăng kính, được phát hiện bởi Newton

Từ năm 1670 đến 1672, Newton diễn thuyết về quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu, và một thấu kính hay một lăng kính sẽ hội tụ các dãy màu thành ánh sáng trắng.

Newton còn cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ý rằng dù là gì đi nữa, phản xạ, tán xạ hay truyền qua, màu sắc vẫn giữ nguyên. Vì thế màu mà ta quan sát là kết quả vật tương tác với các ánh sáng đã có sẵn màu sắc, không phải là kết quả của vật tạo ra màu.

📷Bản sao kính thiên văn phản xạ thứ hai của Newton mà ông đã trình bày cho Hội khoa học Hoàng gia vào năm 1672

Nhờ vào những khám phá trên, Newton nhận ra nguyên nhân gây ra sự sai lệch màu của hình ảnh trên kính viễn vọng khúc xạ thời đó. Ông đã áp dụng nguyên lý của James Gregory để tạo ra kính viễn vọng phản xạ đầu tiên, khắc phục được nhiều nhược điểm về ảnh của kính viễn vọng khúc xạ đồng thời giảm đi đáng kể chiều dài của kính viễn vọng.

Quả táo Newton

📷Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch.

Sau khi Newton công bố định luật vạn vật hấp dẫn, giới khoa học lưu truyền câu chuyện quả táo rơi trúng đầu Newton liệu có mối liên hệ giữa khối lượng và khoảng cách của vật thể trong nhà vật lý vĩ đại này. Thế nhưng, nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là câu chuyện thêu dệt, chỉ là một huyền thoại và rằng ông đã không xây dựng lý thuyết về lực hấp dẫn ở bất cứ thời điểm duy nhất nào.

Tuy nhiên, với bản thảo viết tay Memoirs of Life Sir Isaac Newton có từ năm 1752, nhà khoa học William Stukeley (một người quen của Newton) kể lại chi tiết về khoảng khắc khi Newton tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn.

Bài viết của Stukeley kể về những suy nghĩ của Newton về thuyết lực hấp dẫn khi hai người ngồi dưới bóng râm cây táo trong vườn của nhà khoa học, tại Kensington vào ngày 15 tháng 4 năm 1726: [7]

Chúng tôi đã đi vào một khu vườn, và uống trà dưới bóng mát của vườn táo; chỉ có ông, và tôi. Ông nói với tôi, chính ở vị trí này, vào thuở trước khái niệm về lực hấp dẫn đã đến trong tâm trí.Thời điểm đó ông đang ngồi chiêm nghiệm và một quả táo rơi xuống. Ông đã nghĩ tại sao quả táo lại rơi thẳng xuống đất?

Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?

Tại sao nó không đi ngang, hoặc đi lên ? Nhưng lại liên tục đến trung tâm trái đất ? Chắc chắn, không lý nào khác rằng trái đất đã hút nó. Phải có một sức mạnh hút kéo vật chất & tổng sức mạnh hút kéo trong vấn đề trái đất phải được ở trung tâm đất, không phải trong bất kỳ bên của trái đất do đó đó quả táo này có rơi vuông góc, hay hướng về trung tâm nếu có vấn đề do đó hút lấy vật chất.. nó phải được cân đối với lượng của nó do đó táo rút ra trái đất., cũng như trái đất thu hút sự táo.

John Conduitt, trợ lý của Newton tại Royal Mint và chồng của cô cháu gái của Newton, cũng mô tả các sự kiện khi ông đã viết về cuộc sống của Newton:

Vào năm 1666, ông nghỉ hưu từ Cambridge với mẹ ông ở Lincolnshire. Trong khi đang lang thang trầm tư trong vườn, thì đến hiện ý tưởng rằng sức mạnh của lực hấp dẫn (đã mang quả táo từ trên cây rơi xuống đất) không bị giới hạn trong một khoảng cách nhất định từ trái đất, nhưng sức mạnh này phải trải rộng ra xa hơn là thường nghĩ. Tại sao không cao như mặt trăng nói ông đến mình, và nếu như vậy, mà phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ giữ lại trong quỹ đạo của nó, từ đó ông lao vào tính toán những gì sẽ là kết quả của giả thiết đó.

Trong một việc tương tự, Voltaire đã viết trong cuốn tiểu luận về Epic Thơ (1727), "Sir Isaac Newton đi bộ trong khu vườn của mình, có những suy nghĩ đầu tiên của hệ thống hấp dẫn của ông, khi thấy một quả táo rơi xuống từ một cây."

Newton đã phải vật lộn trong cuối thập kỷ 1660 với ý tưởng rằng lực hấp dẫn tương tác trên mặt đất, trong một tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách; Tuy nhiên ông đã phải mất hai thập kỷ để phát triển các lý thuyết đầy đủ. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu trọng lực tồn tại, nhưng liệu nó có mở rộng để cách xa Trái đất mà nó còn có thể là lực giữ mặt trăng trên quỹ đạo của nó. Newton đã chỉ ra rằng nếu lực tương tác giảm tỉ lệ nghịch với khoảng cách, người ta có thể tính toán chu kỳ quỹ đạo của Mặt trăng một cách thống nhất. Ông đoán một loại lực chung là nguyên do của mọi chuyển động quỹ đạo, và do đó đặt tên nó là "lực vạn vật hấp dẫn".

Sau này Newton nêu ra: Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.

Tác phẩm

Xuất bản khi sinh thời

De analysi per aequationes numero terminorum infinitas (1669, published 1711)

Method of Fluxions (1671)

Of Natures Obvious Laws & Processes in Vegetation (unpublished, c. 1671–75)[8]

De motu corporum in gyrum (1684)

Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica (1687)

Opticks (1704)

Reports as Master of the Mint (1701–25)

Arithmetica Universalis (1707)

Xuất bản sau khi qua đời

The System of the World (1728)

Optical Lectures (1728)

The Chronology of Ancient Kingdoms Amended (1728)

De mundi systemate (1728)

Observations on Daniel and The Apocalypse of St. John (1733)

Newton, Isaac (1991). Robinson, Arthur B., biên tập. Observations upon the Prophecies of Daniel, and the Apocalypse of St. John. Cave Junction, Oregon: Oregon Institute of Science and Medicine. ISBN 0-942487-02-8. (A facsimile edition of the 1733 work.)

An Historical Account of Two Notable Corruptions of Scripture (1754)

0
*Isaac Newton Jr. Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.Luận...
Đọc tiếp

*Isaac Newton Jr.

Isaac Newton Jr. là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim thuật người Anh, được nhiều người cho rằng là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất.[2] Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.

Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.

Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắcánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.

Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.

Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.[3]

Sự nghiệp

📷Newton năm 1702, vẽ bởi Godfrey Kneller

Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. Khi ông ở quãng tuổi từ khoảng 12 đến 17, ông học tại King's School, Grantham, nơi mà ông chỉ học tiếng Latinh và không có Toán. Sau đó, ông rời khỏi trường và đến tháng 10 năm 1659, ông có mặt tại Woolsthorpe-by-Colsterworth, nơi mà mẹ ông, lần thứ hai góa bụa, đang cố gắng khiến ông trở thành một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thầy của ông tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho ông quay trở lại trường học để ông có thể tiếp tục việc học của mình.

Vào tháng 6 năm 1661, Newton được gửi tới Đại học Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ trường phái Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René Descartes. Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố ngay.

Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ đạo của một hạt khi bay từ vũ trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa xuân năm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho vật lý của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica.

Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các định nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II trình bày các phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi nhà thiên văn John Flamsteedkiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương trình của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra và giải được bài toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.

Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:

Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.

Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.

Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.

Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.

Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks(Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":

Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.

Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.

Theo quyển Opticks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát thấy các vòng giao thoa mà ngày nay gọi là vòng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lý thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.

Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opticks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a. Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.

Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.

Newton đã một mình đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đã vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác hơn mọi lý thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lý của phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.

Ngoài việc nghiên cứu khoa học, Newton dùng phần lớn thời gian để nghiên cứu Kinh Thánh, ông tin nhận một Chúa Trời duy nhất là Đấng tạo hóa siêu việt mà người ta không thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài khi nhìn ngắm vẻ hùng vĩ của mọi tạo vật.[4][5] Mặc dù được trưởng dưỡng trong một gia đình Anh giáo nhưng vào độ tuổi ba mươi của mình, niềm tin Kitô giáo của Newton nếu công khai ra sẽ không được coi là chính thống.[6]

Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.

Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của khoa học hiện đại. Như nhà thơ Alexander Pope đã viết:

Nature and nature's laws lay hid in night;God said "Let Newton be" and all was light.Tự nhiên và luật tự nhiên lẩn khuất trong màn đêm phủ;Chúa phán: Newton hãy xuất hiện! Và mọi thứ chói lòa.

Tiểu sử

📷Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica của Newton📷Isaac Newton (Bolton, Sarah K. Famous Men of Science NY: Thomas Y. Crowell & Co., 1889)

Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire, Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 (4 tháng 1 năm 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do cha ông, một nông dân cũng tên là Isaac Newton Sr., mất trước khi ông sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với cha dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các biến cố gia đình. May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính trong vai anh cả sau khi cha dượng mất, ông tiếp tục được cho học đại học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào năm 1661, sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học phí.

Mục tiêu ban đầu của Newton tại Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương trình nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn học của Galileo và cả quang học của Kepler. Ông đã viết trong thời gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách, đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elements của Euclid, Clavis Mathematica của William Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans van Schooten, Algebra của Wallis và các công trình của François Viète.

Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.

📷Isaac Newton ở tuổi già năm 1712, chân dung của Sir James Thornhill

Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.

Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự trị vì của James II, và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lý như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và sau khi James bị William III đánh bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu tranh chính trị của ông.

Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm 1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705. việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh cãi quyết liệt khiến hai nhà khoa học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn.

Nghiên cứu khoa học

Quang học

📷Quyển Opticks của Newton📷Minh họa hiện tượng Tán sắc ánh sáng trắng thành nhiều màu khác nhau qua lăng kính, được phát hiện bởi Newton

Từ năm 1670 đến 1672, Newton diễn thuyết về quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu, và một thấu kính hay một lăng kính sẽ hội tụ các dãy màu thành ánh sáng trắng.

Newton còn cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ý rằng dù là gì đi nữa, phản xạ, tán xạ hay truyền qua, màu sắc vẫn giữ nguyên. Vì thế màu mà ta quan sát là kết quả vật tương tác với các ánh sáng đã có sẵn màu sắc, không phải là kết quả của vật tạo ra màu.

📷Bản sao kính thiên văn phản xạ thứ hai của Newton mà ông đã trình bày cho Hội khoa học Hoàng gia vào năm 1672

Nhờ vào những khám phá trên, Newton nhận ra nguyên nhân gây ra sự sai lệch màu của hình ảnh trên kính viễn vọng khúc xạ thời đó. Ông đã áp dụng nguyên lý của James Gregory để tạo ra kính viễn vọng phản xạ đầu tiên, khắc phục được nhiều nhược điểm về ảnh của kính viễn vọng khúc xạ đồng thời giảm đi đáng kể chiều dài của kính viễn vọng.

Quả táo Newton

📷Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo dịch thuật. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch.

Sau khi Newton công bố định luật vạn vật hấp dẫn, giới khoa học lưu truyền câu chuyện quả táo rơi trúng đầu Newton liệu có mối liên hệ giữa khối lượng và khoảng cách của vật thể trong nhà vật lý vĩ đại này. Thế nhưng, nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là câu chuyện thêu dệt, chỉ là một huyền thoại và rằng ông đã không xây dựng lý thuyết về lực hấp dẫn ở bất cứ thời điểm duy nhất nào.

Tuy nhiên, với bản thảo viết tay Memoirs of Life Sir Isaac Newton có từ năm 1752, nhà khoa học William Stukeley (một người quen của Newton) kể lại chi tiết về khoảng khắc khi Newton tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn.

Bài viết của Stukeley kể về những suy nghĩ của Newton về thuyết lực hấp dẫn khi hai người ngồi dưới bóng râm cây táo trong vườn của nhà khoa học, tại Kensington vào ngày 15 tháng 4 năm 1726: [7]

Chúng tôi đã đi vào một khu vườn, và uống trà dưới bóng mát của vườn táo; chỉ có ông, và tôi. Ông nói với tôi, chính ở vị trí này, vào thuở trước khái niệm về lực hấp dẫn đã đến trong tâm trí.Thời điểm đó ông đang ngồi chiêm nghiệm và một quả táo rơi xuống. Ông đã nghĩ tại sao quả táo lại rơi thẳng xuống đất?

Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?

Tại sao nó không đi ngang, hoặc đi lên ? Nhưng lại liên tục đến trung tâm trái đất ? Chắc chắn, không lý nào khác rằng trái đất đã hút nó. Phải có một sức mạnh hút kéo vật chất & tổng sức mạnh hút kéo trong vấn đề trái đất phải được ở trung tâm đất, không phải trong bất kỳ bên của trái đất do đó đó quả táo này có rơi vuông góc, hay hướng về trung tâm nếu có vấn đề do đó hút lấy vật chất.. nó phải được cân đối với lượng của nó do đó táo rút ra trái đất., cũng như trái đất thu hút sự táo.

John Conduitt, trợ lý của Newton tại Royal Mint và chồng của cô cháu gái của Newton, cũng mô tả các sự kiện khi ông đã viết về cuộc sống của Newton:

Vào năm 1666, ông nghỉ hưu từ Cambridge với mẹ ông ở Lincolnshire. Trong khi đang lang thang trầm tư trong vườn, thì đến hiện ý tưởng rằng sức mạnh của lực hấp dẫn (đã mang quả táo từ trên cây rơi xuống đất) không bị giới hạn trong một khoảng cách nhất định từ trái đất, nhưng sức mạnh này phải trải rộng ra xa hơn là thường nghĩ. Tại sao không cao như mặt trăng nói ông đến mình, và nếu như vậy, mà phải ảnh hưởng đến chuyển động của mặt trăng và có lẽ giữ lại trong quỹ đạo của nó, từ đó ông lao vào tính toán những gì sẽ là kết quả của giả thiết đó.

Trong một việc tương tự, Voltaire đã viết trong cuốn tiểu luận về Epic Thơ (1727), "Sir Isaac Newton đi bộ trong khu vườn của mình, có những suy nghĩ đầu tiên của hệ thống hấp dẫn của ông, khi thấy một quả táo rơi xuống từ một cây."

Newton đã phải vật lộn trong cuối thập kỷ 1660 với ý tưởng rằng lực hấp dẫn tương tác trên mặt đất, trong một tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách; Tuy nhiên ông đã phải mất hai thập kỷ để phát triển các lý thuyết đầy đủ. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu trọng lực tồn tại, nhưng liệu nó có mở rộng để cách xa Trái đất mà nó còn có thể là lực giữ mặt trăng trên quỹ đạo của nó. Newton đã chỉ ra rằng nếu lực tương tác giảm tỉ lệ nghịch với khoảng cách, người ta có thể tính toán chu kỳ quỹ đạo của Mặt trăng một cách thống nhất. Ông đoán một loại lực chung là nguyên do của mọi chuyển động quỹ đạo, và do đó đặt tên nó là "lực vạn vật hấp dẫn".

Sau này Newton nêu ra: Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.

Tác phẩm

Xuất bản khi sinh thời

De analysi per aequationes numero terminorum infinitas (1669, published 1711)

Method of Fluxions (1671)

Of Natures Obvious Laws & Processes in Vegetation (unpublished, c. 1671–75)[8]

De motu corporum in gyrum (1684)

Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica (1687)

Opticks (1704)

Reports as Master of the Mint (1701–25)

Arithmetica Universalis (1707)

Xuất bản sau khi qua đời

The System of the World (1728)

Optical Lectures (1728)

The Chronology of Ancient Kingdoms Amended (1728)

De mundi systemate (1728)

Observations on Daniel and The Apocalypse of St. John (1733)

Newton, Isaac (1991). Robinson, Arthur B., biên tập. Observations upon the Prophecies of Daniel, and the Apocalypse of St. John. Cave Junction, Oregon: Oregon Institute of Science and Medicine. ISBN 0-942487-02-8. (A facsimile edition of the 1733 work.)

An Historical Account of Two Notable Corruptions of Scripture (1754)

0
The GrifterThe Grifter là một video ngắn trên Deep Web lần đầu được nhắc đến trên 4chan/X-ImageBoard. Video được cho rằng có những hình ảnh hết sức bạo lực và sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của người xem. Những hình ảnh trong đoạn clip bao gồm: Thử nghiệm trên những trẻ sơ sinh đã qua đời, búp bê, cùng những hiệu ứng hình ảnh kinh dị khác. Những người xem đoạn clip này đa số...
Đọc tiếp

The Grifter

The Grifter là một video ngắn trên Deep Web lần đầu được nhắc đến trên 4chan/X-ImageBoard. Video được cho rằng có những hình ảnh hết sức bạo lực và sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý của người xem. Những hình ảnh trong đoạn clip bao gồm: Thử nghiệm trên những trẻ sơ sinh đã qua đời, búp bê, cùng những hiệu ứng hình ảnh kinh dị khác. Những người xem đoạn clip này đa số đều trở nên điên cuồng và vô cùng khó chịu. Cũng có những trường hợp người xem đã tự sát sau khi xem đoạn clip. The Grifter vẫn đang ở ngoài kia, nếu như bạn đủ dũng cảm.

SuicideMouse.avi

Nhiều năm về trước, một tập phim Mickey Mouse đã từng được chiếu nhưng rồi bị thất lạc ở đâu đó trong khoảng thời gian giữa những năm 1930. Tập phim dài 9 phút với tựa đề SuicideMouse.AVI chỉ gồm cảnh chú chuột Mickey quen thuộc đi bộ trên một con phố được lặp đi lặp lại với một biểu cảm như đang lo lắng về chuyện gì đó. Sau khi khung hình đột nhiên trở nên tối đen, chú chuột Mickey cùng với con phố quay trở lại. Nhưng lần này, biểu cảm lo lắng đã không còn, nhưng thay vào đó là một nụ cười ranh mãnh, và âm thanh nền là tiếng hét của một người phụ nữ.

Sau đó, toàn bộ khung hình chuyển thành màn hình giới thiệu của chuột Mickey, cùng với tiếng của một hộp âm nhạc đang bật ở nền. Cảnh này kéo dài 30 giây, và điều đáng sợ là cảnh giới thiệu này dùng để che đậy 30 giây cuối của tập phim cuối, gần như không ai biết được chuyện gì xảy ra trong 30 giây cuối cùng của một tập phim. Tất cả, trừ một nhân viên Disney tên Leonard Mawlton. Là một kỹ thuật viên, anh được phép xem 30 giây cuối cùng này để kiểm tra chất lượng. Nhưng sau khi vừa xem xong, anh bắt đầu la hét điên cuồng rồi chạy ra khỏi phòng chiếu. Sau đó, anh lấy khẩu súng của một người bảo vệ gần đó và tự bắn vào đầu mình.

The Story of Lisa

Đây là câu chuyện về một cô học trò nhỏ với một người bạn tưởng tượng tên Lisa. Cô bé rất thích vẽ và thường viết nhật kí kèm theo những bức vẽ về bản thân cô và Lisa đang chơi đùa với nhau. Lâu dần, cô bé bị ám ảnh bởi Lisa đến mức cô xem Lisa là thật, thậm chí cô còn dẫn Lisa đến trường để kể về Lisa. Giáo viên của cô, Monroe đã không thể thấy được Lisa nên đã giận dữ với cô bé. Vài ngày sau, cô Monroe không đi làm nữa. Năm tháng trôi qua, và bố của cô bé cũng bắt đầu giận dữ vì con gái mình thường thức khuya với Lisa. Ông bực đến mức bảo rằng Lisa "không có thật và ngu ngốc". Không lâu sau đó, ông bố cũng biến mất.

Sự thật phũ phàng ập đến khi mẹ của cô bé xem nhật ký của cô, trong đó ghi rằng bố và cô giáo của cô bé đang ngủ trong một hộp cát và sẽ không bao giờ quay lại, những trang nhật ký ghi lại chính xác những gì đã xảy ra trước khi việc đó xảy ra.

3
31 tháng 5 2019

hay đs!

31 tháng 5 2019

bn sưu tầm nhiều câu truyện nx ik - hay lắm!

BẠN BIẾT GÌ VỀ CÁC VỆ TINH KHÍ TƯỢNG NHÂN TẠO ? Khi đã có trạm quan sát trên không trung, chúng ta có thể mô tả một cách chi tiết về Trái Đất từ trên không trung một cách dễ dàng. Các vệ tinh bay xung quanh Trái Đất luôn theo sát chúng ta từng bước. Trong một thế giới đầy biến động, khoa học kĩ thuật đã quyết định cuộc cách mạng xã hội, hệ thống thông tin đều dựa vào các vệ tinh...
Đọc tiếp

BẠN BIẾT GÌ VỀ CÁC VỆ TINH KHÍ TƯỢNG NHÂN TẠO ?

Khi đã có trạm quan sát trên không trung, chúng ta có thể mô tả một cách chi tiết về Trái Đất từ trên không trung một cách dễ dàng. Các vệ tinh bay xung quanh Trái Đất luôn theo sát chúng ta từng bước. Trong một thế giới đầy biến động, khoa học kĩ thuật đã quyết định cuộc cách mạng xã hội, hệ thống thông tin đều dựa vào các vệ tinh để truyền đi khắp toàn cầu. Một vệ tinh khí tượng đã được phóng lên quỹ đạo cách Trái Đất hơn 36.000km, do tốc độ quỹ đạo của nó và góc độ tự quay của của Trái Đất là như nhau nên nó dường như được cố định ở không trung phía trên xích đạo. Vệ tinh này hàng ngày cung cấp về tình hình thời tiết, mô tả cho chúng ta các luồng khí nóng, những tầng mây mù hay hướng đi của các cơn bão. Đặc biệt là vệ tinh này có thể ghi chép lại toàn bộ diễn biến của một vòi rồng, những số liệu phức tạp qua sự giải thích của các nhà khí tượng học được biến thành các bản tin dự báo thời tiết phát đi hàng ngày trên ti vi và đài phát thanh. Những dự báo kịp thời này đã giúp con người giảm nhẹ được những tổn thất do thiên tai gây ra. Có những trận bão lịch sử nhìn từ vệ tinh là hoàn toàn yên tĩnh nhưng trong thực tế thì hoàn toàn khác, gió mạnh với vận tốc 300km/h đã tàn phá dữ dội và gây ra chết chóc cho con người. Chúng ta không thể khống chế được bão nhưng có thể chế ngự được lũ lụt; căn cứ vào các ảnh chụp được từ vệ tinh chúng ta có thể xác định được chính xác vị trí để xây các đê bao và đê ngăn lũ nhằm bảo vệ sự sống và đất đai.

0
1. Sự hiểu lầmTại Alaska có một cặp vợ chồng trẻ mới kết hôn. Đến thời kỳ người vợ sinh nở nhưng do sinh khó nên đã qua đời để lại đứa con.Người cha vì cuộc sống bận rộn, nên con không có ai chăm sóc. Vì vậy người cha đã đào tạo một con chó. Con chó này rất thông minh và biết nghe lời, có thể chăm sóc em bé được. Nó còn mang được bình sữa mang đến cho em bé uống.Một hôm...
Đọc tiếp

1. Sự hiểu lầm
Tại Alaska có một cặp vợ chồng trẻ mới kết hôn. Đến thời kỳ người vợ sinh nở nhưng do sinh khó nên đã qua đời để lại đứa con.
Người cha vì cuộc sống bận rộn, nên con không có ai chăm sóc. Vì vậy người cha đã đào tạo một con chó. Con chó này rất thông minh và biết nghe lời, có thể chăm sóc em bé được. Nó còn mang được bình sữa mang đến cho em bé uống.
Một hôm người cha để con chó ở nhà trông chừng đứa bé, khi ông trở về nhà bỗng thấy khắp miệng con chó toàn là máu, nguyên nhân là vì….
Người đàn ông ra ngoài có việc, để con chó ở nhà trông đứa bé. Khi ông trở về, nhìn thấy khắp sàn nhà toàn là máu, nhưng lại không thấy đứa bé đâu cả. Còn con chó thì vừa liếm máu tươi ở khóe miệng, vừa vẫy vẫy cái đuôi vui vẻ nhìn ông.
Người đàn ông nổi giận, liền rút con dao đâm mạnh vào bụng con chó. Con chó kêu thảm một tiếng, làm cho đứa trẻ đang ngủ say dưới tấm thảm loang lổ vết máu giật mình tỉnh dậy.
Lúc này, người đàn ông kia mới phát hiện xác chết của một con cho sói đang nằm bên cạnh góc tường.
Cảm ngộ: Có rất nhiều sự việc mà bạn nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai, nhưng nó chưa chắc đã đúng như những gì bạn nghĩ. Trong việc đối nhân xử thế, chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe, nên cho người khác có cơ hội để giải thích. Có như vậy, mới giúp chúng ta tránh được nhiều điều khiến ta phải hối tiếc sau này.
Ngược lại nếu chúng ta không hỏi, không nói, không giải thích mà đã vội vã hành động hay phán xét thì đây không phải là thể hiện sự mạnh mẽ, cá tính mà nó chính là sự bất công, không có trách nhiệm với chính mình và những người khác.
2. Sự nóng giận
Một cậu bé có tính xấu rất hay nổi nóng. Một hôm cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh và nói với cậu bé rằng mỗi khi cậu nổi nóng thì hãy chạy ra đằng sau nhà đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ.
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần cậu bé đã tập kiềm chế cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào mỗi ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình thì dễ hơn là phải đóng cây đinh lên hàng rào.
Một ngày kia, cậu đã không nổi giận một lần nào suốt cả ngày. Cậu nói với cha và ông bảo cậu hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào mỗi một ngày mà cậu không hề nổi giận với ai dù chỉ một lần.
Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một bữa cậu bé tìm cha mình báo rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu đã cùng cậu đến bên hàng rào. Ở đó ông nói với cậu rằng:
“Con đã làm rất tốt, nhưng hãy nhìn những lỗ đinh trên hàng rào. Hàng rào đã không thể giống như xưa nữa rồi.
Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói đó cũng giống như những lỗ đinh này, để lại những vết sẹo trong lòng người khác.
Dù sau đó con có nói xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn ở lại. Vết thương tinh thần cũng đau đớn như những vết thương thể xác vậy.
Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con trong mọi chuyện. Họ nghe con nói khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng mình cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…”
Cảm ngộ: Con người khi cáu giận thường trút giận dữ lên những người thân yêu ở quanh mình, bởi vì họ biết những người thân yêu của chúng ta sẽ luôn bao dung và tha thứ cho chúng ta.
Nhưng những lời nói khi tức giận luôn giống như những chiếc đinh làm tổn thương người khác. Có thể bạn chỉ là vô tâm nhưng vết thương đó cũng giống như lỗ hổng trên hàng rào vậy, nó đã tạo thành những vết thương nghiêm trọng. Vì vậy nhất định đừng lãng phí tình yêu thương mà những người thân yêu dành cho bạn, bởi vì điều này đối với họ lại là một sự tổn thương lớn.
3. Sự khoan dung
Câu chuyện kể về một người lính Mỹ, cuối cùng đã được trở về nhà sau trận chiến đấu vô cùng ác liệt ở Việt Nam.
Từ San Francisco, anh gọi điện cho cha mẹ mình: “Ba mẹ ơi, con đã trở về nhà này, nhưng con có một chuyện muốn nhờ ba mẹ. Con có một người bạn, con muốn đưa anh ấy về nhà cùng con”.
“Chắc chắn rồi, con trai yêu quý“, cha mẹ anh vui vẻ trả lời: “Ba mẹ rất muốn gặp bạn con”.
“Nhưng có một điều con muốn nói trước với ba mẹ”, chàng trai tiếp tục, “anh bạn con đã bị thương khá nặng trong chiến tranh. Anh ấy đã hơi bị đãng trí và còn bị mất một cánh tay và một chân. Anh ấy không có nơi nào để về, và con muốn anh ấy đến sống với chúng ta…
“Ồ, ba mẹ xin lỗi con, con trai… Nhưng có lẽ chúng ta có thể giúp anh ấy tìm một nơi nào khác để sống…”
“Không, ba mẹ ơi, con muốn anh ấy tới sống với chúng ta”.
“Con à“, người cha nói, “con có biết con đang yêu cầu cha mẹ điều gì không? Một người tàn tật đến như vậy sẽ là một gánh nặng khủng khiếp cho ba mẹ. Ba mẹ còn có cuộc sống riêng của mình chứ, ba mẹ không thể để một điều như vậy làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng. Ba nghĩ rằng con hãy về nhà đi và quên anh bạn đó của con đi. Anh ấy rồi sẽ tìm được cách lo liệu cho cuộc sống của mình thôi…”
Lúc đó, người con trai gác điện thoại. Cha mẹ anh không còn nghe thấy điều gì từ đầu dây bên kia nữa. Song, một vài ngày sau đó, họ đột nhiên nhận được một cú điện thoại từ đồn cảnh sát San Francisco. Con trai của họ đã qua đời sau khi ngã từ trên một tòa nhà xuống, cảnh sát đã thông báo như vậy cho họ. Cảnh sát San Francisco nhận định rằng đó là một vụ tự sát.
Cha mẹ người lính, trong đau đớn tột cùng, đã vội vã bay tới San Francisco và được đưa tới nhà xác thành phố để nhận diện thi thể của con trai. Họ nhận ra anh, người con trai yêu quý của mình. Nhưng đột nhiên họ khiếp hãi không thốt nên lời khi nhìn thấy một điều mà trước đó họ không hề hay biết, đó là con trai của họ chỉ còn một cánh tay và một chân.
Những giọt nước mắt ân hận rơi xuống, nhưng tất cả đã quá muộn màng.
Cảm ngộ: Đừng bao giờ đối xử phân biệt với người khác, bạn sẽ không biết được người thực sự bị gây tổn thương là ai? Hãy bao dung rộng lượng với mọi người và tự nghiêm khắc với bản thân mình!. Nếu mỗi người chúng ta đều có thể dành sự bao dung và nhân ái cho những người lạ như cho chính người thân của mình, thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao.
Bởi vì với sự từ bi, bao dung chúng ta sẽ đủ sức mài mòn bất kỳ hòn đá vô tri vô giác nào để trở thành một viên ngọc lung linh tỏa sáng, đủ sức biến điều khó khăn trở nên dễ dàng, đủ sức biến một người tầm thường hay tàn khuyết thành một vĩ nhân.
Nguồn: sưu tầm ( diendan.hocmai.vn)

0