K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 5 2018

Cậu tham khảo nhé:

Truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện đầy sâu sắc và cảm động tình cảm cha con thiêng liêng giữa ông Sáu và bé Thu. Đó là một tình cảm đáng trân trọng, nó sáng lên ngay cả trong khói lửa của chiến tranh bạo tàn. Nhân vật ông Sáu là một trong những nhân vật trung tâm của nhân vật, thông qua tìm hiểu nhân vật ta thấy được tình cảm sâu sắc của một người cha hết lòng yêu thương con gái.

Không chỉ là một người cha tốt, ông Sáu còn là một người công dân hết lòng vì đất nước, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, cũng như bao người yêu nước khác, ông Sáu đã tự nguyện tham gia vào đội ngũ những người lính, cầm súng chiến đấu vì sự tự do, độc lập của tổ quốc. Để thực hiện trách nhiệm với đất nước, thực hiện lí tưởng cứu dân, độc lập dân tộc đầy cao đẹp thì ông Sáu đã phải rời xa quê hương, rời xa gia đình và cô con gái nhỏ. Ông chỉ được về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.

Khi về ông Sáu mang tâm trạng bồi hồi, rạo rực bởi sắp tới đây ông sẽ được về thăm những người thân yêu, đặc biệt là Thu- cô con gái bé nhỏ mà ông hết lòng yêu thương. Từ khi bé Thu được sinh ra, ông Sáu chưa từng được gặp con, cũng chưa một lần được nâng niu, cưng nựng. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà. Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng nhảy xuống “ …nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…” đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con.

Khi nhìn thấy đứa nhỏ chơi ở gần đó, ông Sáu biết chắc đó là con của mình, sự xúc động dâng trào khiến cho ông Sáu kêu to tên con “ Thu! Con”, ông đưa tay ra đón chờ con, nhưng trái ngược với sự mong chờ, hi vọng của ông Sáu, bé Thu lại không biết người đàn ông kêu tên mình là ai. Hơn nữa, vết thẹo lớn trên mặt của ông Sáu khiến cho bé Thu sợ hãi, vừa khóc vừa gọi mẹ.

Nhìn thấy con mình vì sợ hãi mà chạy vào nhà, ông Sáu đã vô cùng đay khổ, ông thẫn thờ, khuôn mặt tối sầm lại, đôi tay thì buông thõng vô cùng đáng thương. Có lẽ, ông Sáu đã không thể ngờ được giây phút mà cha con hội ngộ lại thành ra như vậy, sự thất vọng, bất ngờ xâm chiếm khiến cho ông Sáu trở nên đáng thương.

Tâm trạng của ông Sáu trong những ngày nghỉ phép cũng rất phức tạp, vừa là niềm vui vì được về thăm gia đình, quê hương, người thân nhưng ông cũng buồn bã, đau đớn vì đứa con không chịu nhận cha. Bé Thu không những không chịu nhận cha mà còn đối xử với ông Sáu vô cùng lạnh nhạt. Ông Sáu ở nhà suốt ngày và không muốn đi đâu, ông luôn tìm cách để có thể vỗ về con. Nhưng sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu lại không thể thay đổi được thái độ lạnh nhạt của bé Thu.

Là một người cha,ông Sáu luôn cảm thấy có lỗi với con vì không thể ở bên chăm sóc khi con ra đời, ông khao khát được một lần nghe tiếng gọi “ba” của bé Thu. Trước những hành động chối bỏ, lời nói lạnh nhạt của con, ông Sáu không lỡ giận mà chỉ khe khẽ lắc đầu và cười, nụ cười ấy không phải nụ cười của hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực, cam chịu.

Dù rất yêu thương con nhưng có một lần vì quá nóng giận mà ông Sáu đã lỡ đánh bé Thu, đó là khi bé Thu dùng đũa hẩy miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu gắp cho bé, đây cũng là hành động khiến ông Sáu vô cùng hối hận, ngay cả khi hi sinh trên chiến trường ông cũng không thôi day dứt, đau khổ.

Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con.

Khi về công tác tại đơn vị kháng chiến, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn khiến chúng ta vô cùng cảm động. Ông hối hận vì một chút nóng nảy mà lỡ tay đánh con. Trước khi chia tay, ông đã hứa ngày trở về sẽ tặng bé Thu một chiếc lược ngà, có thể thấy tác giả NGuyễn Quang Sáng rất chú trọng tả những chi tiết đến chiếc lược ngà này.

Khi chiến đấu, ông vô tình kiếm được một mảnh ngà voi, khi ấy ông Sáu vui vẻ, hớn hở như một đứa trẻ vừa được cho quà, niềm vui, sự xúc động này được thể hiện trực tiếp qua chi tiết: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con được thể hiện ngay trong việc làm cho con cây lược, ông Sáu tỉ mỉ trong từng chi tiết, cưa từng chiếc răng “…tỉ mỉ cố công như một người thợ bạc…” Khi hoàn thành chiếc lược, ông Sáu đã khắc lên thân lược dòng chữ “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những dòng chữ gắn gọn nhưng lại chứa chan biết bao nhiêu tình cảm khiến chúng ta xúc động.

Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang chiếc lược ra để ngắm nghía, đôi lúc mài lên mái tóc để làm cho cây lược bóng hơn vì ông không muốn khi con chải tóc sẽ bị đau. Chiếc lược trở lên ý nghĩa hơn bao giờ hết, nó không chỉ đơn thuần là món quà của người cha mà đó còn là biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ của một người cha hết lòng yêu thương con.

Khi chưa kịp trao cây lược ngà cho con gái như lời hứa hẹn trước ngày lên đường thì ông Sáu đã hi sinh trên chiến trường, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình ông khôn nguôi nhớ về con. Ông dồn chút lực tàn để lấy ra cây lược mà ông luôn mang theo bên mình để đưa lại cho người bạn chiến đấy của mình. Đây là một lời trăng trối đầy thiêng liêng, đó là ước nguyện cuối cùng của người cha ấy.

Qua hình ảnh của ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng không chỉ cho chúng ta thấy tình cảm cha con thật thiêng liêng, đẹp đẽ mà nó còn cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nó làm cho gia đình li tán, con xa cha, vợ lìa chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về tình cảm gia đình, thứ tình cảm thiêng liêng mà bom đạn của kẻ thù không thể nào phá hủy được.

24 tháng 5 2018

Truyện 'chiếc lược ngà' được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết nằm 1966, tại chiến trường nam bộ trong khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra ác liệt. Câu chuyện đã mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc về tình cho con của ông Sáu với bé Thu. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và xây dựng tình huống bất ngờ, để thể hiện một cách cảm động tình cha con của ông Sáu với bé Thu.

Sau tám năm xa cách nhà và gia đình ông Sáu trở về từ trong niềm vui, niềm hạnh phúc, đặc biết hơn đó là sự thương nhớ con gái đầu lòng của mình. Lúc xuồng chưa cập bến, ông đã nhìn tháy mọt đứa bé tầm tám tuôi và trực giác của ông đã mách bảo ông rằng đó chính là đứa con gái bé bỏng mà ông thương nhớ nó bấy lâu nay. Niềm vui, niềm hạnh phúc của ông như được nhân đôi khi nhìn thấy nó cùng với những cử chỉ: nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng những bước dài. Giọng ông run run: 'ba đây con'. Ông nghĩ rằng đứa con cũng dẽ hạnh phúc khi nhìn thấy ông và sẽ chạy đến ôm hôn ông. nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vui mừng của ông là một gương mặt tái đi vì sợ của Bé Thu, nó vụt chạy và kêu thét lên gọi mẹ. Trước hành động đó củ nó làm tim ông rất đau, có thể đây chính là nỗi đau lớn nhát trong cuộc đời của ông. Mặt ông lúc này sầm lại trong thật đáng thương, hai cánh tay dơ lên để ôm đứa con bé bỏng của mình giờ thì buông thõng xuống như bị gãy.

Ông thất vọng và rất buồn nhưng ông không nản lòng để lấy được tình cảm của bé Thu. Trong ba ngày ở nhà ông đã hết mực dỗ dành vỗ về nó, nhưng ông càng gần gũi nó thì nó lại càng tránh xa ông và nó nhất quyết không chịu gọi ông là 'cha'. và rồi trong một bữa cơm nó đã hất miếng trứng cá ra khỏi bát mà ông đã gắp cho nó, ông tức quá nên đã đánh nó, nó bỏ chạy sang nhà bà ngoại ở. Tình yêu cha của bé Thu rất mạnh mẽ và cá tính, nó chỉ gọi ba, yêu ba khi xác nhận đó chính là ba ruột của nó. Vì thế những hành động của bé Thu không đáng trách mà đáng thương. Chính vì sự xa cách tám năm trời mà nó đã thiếu đi sự quan tâm sự yêu thương của một người cha. Nó không nhận ra ba nó vì cũng do không ai kịp chuẩn bị cho nó về sự thay đổi bất thường trên khuôn mặt của ông Sáu. Nhưng khi được bà ngoại giải thích thì nó cũng đã hiểu ra mọi chuyện và cũng là lúc hai cha con nó phải chia tay.

Trong buổi sáng cuối cùng ấy trước lúc ba nó đi, bao nhiêu sự yêu thương dành cho ba nó được thể hiện qua tiếng thét lớn 'ba', đối với nó, tiếng 'ba' ấy đã vỡ ra từ sâu thẳm trong lòng nó, cí tiếng mà nó đã kìm nén trong nhiều năm nay, chờ đợi và mong mỏi. Cái tiếng ấy được cất lên khiến mọi người hiểu rằng nó thèm được gọ ba như thế nào. Đó chính là tiếng nói của tình yêu thương ruột thịt, thiêng liên và quí giá vô cùng. Tiếp đến là những cử chỉ của nó, nó đã chạy lại ôm hôn ba nó, hai chân thì quắt lấy người củ ông Sáu, đôi vai bé nhỏ của nó đang run lên tình yêu cha của nó đã đáng thắng lại được cả sự sợ hãi. Trước những hành đọng này của nó thì ông Sáu vô cùng bất ngờ và cảm thấy lúc này mình là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng thời gian thật ngắn ngủi không cho bé Thu được ở bên ông nữa. Đâu ai biết được đây chính là lần cuối cùng ông Sáu có mặt ở nhà, lần cuối cùng ông được ôm hôn đứa con gái yêu quí của mình. Đã đến giờ ông Sáu phải chia tay cái gia đình bé nhỏ của mình, bé Thu một mực không cho ông đi. Tình yêu thương của bé dành cho ông giờ là cao cả nhất, nó chỉ cần ba nó luôn ở cạnh nó và yêu thương nó. Khi đi ông Sáu đã hứa sẽ làm cho nó một chiếc lược ngà để tặng nó.

Ở khu căn cứ ông Sáu sống trong tâm trạng nhớ thương xen kẽ sự day dứt, ân hận vì đã trót đánh mắng con gái. Ông đã dốc hết tình yêu con, thương nhớ con vào việc làm chiếc lược ngà. Ông đã tỉ mỉ, kiên nhẫn, khéo léo như một người thợ chế tái khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn. Chiếc lược ngà đã thành một vật quí giá, thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm nhớ thương của người cha đối với đứa con xa cách. Nhưng thật trớ trêu, ông Sáu chưa kịp trao cây lược ngà đến tận tay cho bé Thu thì ông đã hi sinh, không còn đủ sức trăn trối điều gì và ông chỉ biết đưa chiếc lực cho người bạn của mình để tra lại cho bé Thu. Ông Sáu chỉ nhắm mắt khi nào chiếc lược được đưa tận tay bé Thu. Một cảm xúc đang dâng trào lên trong lòng người đọc. Tại sao tình cha con đẹp như vậy, cao cả như vậy mà lại chỉ dừng ở đây thôi. Họ còn bao nhiêu việc phải làm với nhau. Bé Thu thì vẫn chưa thể hiện hết được tình yêu của mình với ông. Tai sao cuộc đời lại trớ trêu đến vậy. Tình cho con đẹp và thiêng liêng như vậy mà không bao giờ như ý muốn của mỗi người.

Chiếc lược ngà, là một câu chuyện vô cùng cảm động làm người đọc phải rơi nước mắt. Tình cha con thiêng liên đẹp đẽ như vậy mà phải dừng ở đây thôi sao? có lẽ không phải như vậy dù ông Sáu không còn trên đời nữa nhưng chiếc lược ngà là món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng ông tặng nó sẽ làm xoa dịu nỗi đau khi mất ba của nó. và tình yêu thương đó mãi mãi tồn tại trong lòng bé Thu và với cả ông Sáu ở nơi yên nghỉ.

25 tháng 12 2022

         Qua đoạn trích trên trích trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện đầy sâu sắc và cảm động tình cảm cha con thiêng liêng giữa tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu. Đó là một tình cảm đáng trân trọng, nó sáng lên ngay cả trong khói lửa của chiến tranh bạo tàn. Nhân vật ông Sáu là một trong những nhân vật trung tâm của nhân vật, thông qua tìm hiểu nhân vật ta thấy được tình cảm sâu sắc của một người cha hết lòng yêu thương con gái.

Không chỉ là một người cha tốt, ông Sáu còn là một người công dân hết lòng vì đất nước, trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, cũng như bao người yêu nước khác, ông Sáu đã tự nguyện tham gia vào đội ngũ những người lính, cầm súng chiến đấu vì sự tự do, độc lập của tổ quốc. Để thực hiện trách nhiệm với đất nước, thực hiện lí tưởng cứu dân, độc lập dân tộc đầy cao đẹp thì ông Sáu đã phải rời xa quê hương, rời xa gia đình và cô con gái nhỏ. Ông chỉ được về thăm gia đình khi được nghỉ phép vài ngày.

Khi về ông Sáu mang tâm trạng bồi hồi, rạo rực bởi sắp tới đây ông sẽ được về thăm những người thân yêu, đặc biệt là Thu- cô con gái bé nhỏ mà ông hết lòng yêu thương. Từ khi bé Thu được sinh ra, ông Sáu chưa từng được gặp con, cũng chưa một lần được nâng niu, cưng nựng. Nỗi khao khát muốn gặp lại con khiến cho ông Sáu bồi hồi suốt quãng đường về nhà. Khi thuyền còn chưa kịp cập bến thì ông Sáu đã vội vàng nhảy xuống “ …nhún chân, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài…” đây là hành động có phần gấp gáp, vội vàng của một người cha nóng lòng muốn gặp con.

Khi nhìn thấy đứa nhỏ chơi ở gần đó, ông Sáu biết chắc đó là con của mình, sự xúc động dâng trào khiến cho ông Sáu kêu to tên con “ Thu! Con”, ông đưa tay ra đón chờ con, nhưng trái ngược với sự mong chờ, hi vọng của ông Sáu, bé Thu lại không biết người đàn ông kêu tên mình là ai. Hơn nữa, vết thẹo lớn trên mặt của ông Sáu khiến cho bé Thu sợ hãi, vừa khóc vừa gọi mẹ.

Nhìn thấy con mình vì sợ hãi mà chạy vào nhà, ông Sáu đã vô cùng đay khổ, ông thẫn thờ, khuôn mặt tối sầm lại, đôi tay thì buông thõng vô cùng đáng thương. Có lẽ, ông Sáu đã không thể ngờ được giây phút mà cha con hội ngộ lại thành ra như vậy, sự thất vọng, bất ngờ xâm chiếm khiến cho ông Sáu trở nên đáng thương.

Tâm trạng của ông Sáu trong những ngày nghỉ phép cũng rất phức tạp, vừa là niềm vui vì được về thăm gia đình, quê hương, người thân nhưng ông cũng buồn bã, đau đớn vì đứa con không chịu nhận cha. Bé Thu không những không chịu nhận cha mà còn đối xử với ông Sáu vô cùng lạnh nhạt. Ông Sáu ở nhà suốt ngày và không muốn đi đâu, ông luôn tìm cách để có thể vỗ về con. Nhưng sự quan tâm, vỗ về của ông Sáu lại không thể thay đổi được thái độ lạnh nhạt của bé Thu.

Là một người cha,ông Sáu luôn cảm thấy có lỗi với con vì không thể ở bên chăm sóc khi con ra đời, ông khao khát được một lần nghe tiếng gọi “ba” của bé Thu. Trước những hành động chối bỏ, lời nói lạnh nhạt của con, ông Sáu không lỡ giận mà chỉ khe khẽ lắc đầu và cười, nụ cười ấy không phải nụ cười của hạnh phúc mà là nụ cười của sự bất lực, cam chịu.

Dù rất yêu thương con nhưng có một lần vì quá nóng giận mà ông Sáu đã lỡ đánh bé Thu, đó là khi bé Thu dùng đũa hẩy miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu gắp cho bé, đây cũng là hành động khiến ông Sáu vô cùng hối hận, ngay cả khi hi sinh trên chiến trường ông cũng không thôi day dứt, đau khổ.

Đến ngày lên đường, dù nhìn thấy bé Thu ở trong góc nhà, dù rất muốn đến gần ôm và tạm biệt con nhưng ông Sáu lại sợ những phản ứng sợ hãi, chối bỏ của con mà chỉ đứng đó nhìn con với ánh mắt đầy đau khổ. Khi chuẩn bị bước lên xuồng, bé Thu bất ngờ chạy đến gọi cha, ông Sáu đã vô cùng xúc động ôm chầm lấy con, lấy khăn tay lau nước mắt và âu yếm hôn lên mái tóc của con. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên ông Sáu rơi nước mắt nhưng đây là giọt nước mắt hạnh phúc, giọt nước mắt trùng phùng của tình cảm cha con.

Khi về công tác tại đơn vị kháng chiến, tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu vẫn khiến chúng ta vô cùng cảm động. Ông hối hận vì một chút nóng nảy mà lỡ tay đánh con. Trước khi chia tay, ông đã hứa ngày trở về sẽ tặng bé Thu một chiếc lược ngà, có thể thấy tác giả NGuyễn Quang Sáng rất chú trọng tả những chi tiết đến chiếc lược ngà này.

Khi chiến đấu, ông vô tình kiếm được một mảnh ngà voi, khi ấy ông Sáu vui vẻ, hớn hở như một đứa trẻ vừa được cho quà, niềm vui, sự xúc động này được thể hiện trực tiếp qua chi tiết: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Tình cảm sâu sắc của người cha dành cho con được thể hiện ngay trong việc làm cho con cây lược, ông Sáu tỉ mỉ trong từng chi tiết, cưa từng chiếc răng “…tỉ mỉ cố công như một người thợ bạc…” Khi hoàn thành chiếc lược, ông Sáu đã khắc lên thân lược dòng chữ “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Những dòng chữ gắn gọn nhưng lại chứa chan biết bao nhiêu tình cảm khiến chúng ta xúc động.

Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang chiếc lược ra để ngắm nghía, đôi lúc mài lên mái tóc để làm cho cây lược bóng hơn vì ông không muốn khi con chải tóc sẽ bị đau. Chiếc lược trở lên ý nghĩa hơn bao giờ hết, nó không chỉ đơn thuần là món quà của người cha mà đó còn là biểu tượng của tình yêu, của nỗi nhớ của một người cha hết lòng yêu thương con.

Khi chưa kịp trao cây lược ngà cho con gái như lời hứa hẹn trước ngày lên đường thì ông Sáu đã hi sinh trên chiến trường, đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mình ông khôn nguôi nhớ về con. Ông dồn chút lực tàn để lấy ra cây lược mà ông luôn mang theo bên mình để đưa lại cho người bạn chiến đấy của mình. Đây là một lời trăng trối đầy thiêng liêng, đó là ước nguyện cuối cùng của người cha ấy.

Qua hình ảnh của ông Sáu, Nguyễn Quang Sáng không chỉ cho chúng ta thấy tình cảm cha con thật thiêng liêng, đẹp đẽ mà nó còn cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh, nó làm cho gia đình li tán, con xa cha, vợ lìa chồng. Tuy nhiên, truyện ngắn cũng là sự khẳng định mạnh mẽ về tình cảm gia đình, thứ tình cảm thiêng liêng mà bom đạn của kẻ thù không thể nào phá hủy được.

20 tháng 3 2018

A. Mở bài :

- Truyện “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Truyện viết trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người – cụ thể ở đây là tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đặc biệt tình là tình cảm của ông Sáu – người cha cán bộ cách mạng đối với đứa con gái nhỏ - Bé Thu thật sâu sắc và cảm động.

B. Thân bài :

1. Tóm tắt qua về cuộc đời của ông Sáu:

Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia hai cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ông Sáu là một người cha hi sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con bất diệt.Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vế sẹo trên mặt, đã hi sinh cả vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau về tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông cha, không một lời gọi “ba”. Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi quá. Để rồi cuối cùng ông vĩnh viễn phải xa con. Ông đã ngã xuống lặng thầm mà không một lời trăng trối, không một nấm mồ, không bia mộ…

2. Trong những ngày về phép thăm nhà.

- Ra đi đánh giặc từ năm 1946, mãi đến năm 1954 hoà bình lập lại, ông mới được về phép thăm nhà và quê hương một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con bé đã tám, chín tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng không được trọn vẹn. Đó là bi kịch thời chiến tranh.

   + Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con. Ông vừa bước, vừa khom người đưa tay chờ đón con”, có lẽ ông rất vui, rất xúc động và hạnh phúc, tin rằng đứa con sẽ đến với mình. Nhưng bé Thu đã từ chối, chạy và kêu thét lên gọi má. Ông Sáu vô cùng buồn bã, thất vọng, đau đớn.

   + Trong hai ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà với con, chăm sóc con nhưng bé Thu không nhận cha khiến ông vô cùng buồn. .....nhưng ông sẵn lòng tha thứ cho con. Tình yêu thương của người cha dành cho con trở nên bất lực khi ông Sáu đánh con bé một cái vào mông vì nó đã hất miếng trứng cá mà ông gắp ra khỏi bát cơm làm cơm văng tung toé.....Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải – vết thương của chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa !

- Cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ chợt nhận ra ba mình và kêu thét lên: “Ba…………. Ba!”. Trước cử chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.Và ông Sáu đã ra đi với nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết.

3. Tình cảm của ông Sáu với con đã được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà, nhưng biểu hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ.

- Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày vì ông đã đánh con khi nóng giận. Ông Sáu đúng là một người cha hiền lành, nhân hậu, biết nâng niu tình cảm cha con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi : “Ba về, ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con. Ông quả là một người cha chiều con và luôn biết giữ lời hứa với con, đó là biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng

- Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược, cưa răng, chuốt bóng, khắc chữ... tỉ mỉ, cần mẫn, công phu. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên nó không chỉ là chiếc lược xinh xắn và quý giá mà đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm sao! Cây lược ngà ấy chưa trải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, cố mài lên mái tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ song người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, toả sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Chiếc lược nhỏ bé mà thiêng liêng đã làm dịu nỗi ân hận và ánh lên niềm hi vọng khắc khoải sẽ có ngày anh Sáu được gặp lại con, trao tận tay nó món quà kỉ niệm này.

- Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con, người cha ấy đã hi sinh trong một trận càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử. Điều đó đúng như ông Ba nói: “chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.

⇒ Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong chuyện “Chiếc lược ngà” là hình ảnh sâu nặng về tình cha – con. Ông Sáu quả là một người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô cùng độ lượng và tận tuỵ vì tình yêu thương con, một người cha để bé Thu suốt đời yêu quý và tự hào. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

C. Kết luận

Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp đẽ. Nhưng cảm động hơn nữa, nó còn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le mà con người phải gánh chịu vì cuộc chiến tranh. Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng” giữa rừng sâu. Nhưng chỉ có tình cha con là không thể chết được.

26 tháng 11 2023

Tham khảo:

Chiến tranh đã qua lâu nhưng những mất mát, những nỗi đau mà chiến tranh mang lại vẫn như đang hiện hữu. Rất nhiều tác phẩm đau thương về chiến tranh đã được các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Cũng viết về một thời đạn bom khốc liệt nhưng Nguyễn Quang Sáng đã “vượt qua bi kịch của chiến tranh” để “cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”, viết nên truyện ngắn nổi tiếng “Chiếc lược ngà”. Truyện đã tái hiện được nỗi mất mát của chiến tranh, nhưng vượt lên trên nỗi đau ấy là tình cha sâu nặng, rực sáng dù đứng giữa hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến ngay khi đứa con gái của ông còn nhỏ. Suốt 8 năm trời ròng rã, ông lúc nào cũng nhớ thương, mong ngóng đến ngày được về gặp con. Cuối cùng sau bao tháng ngày trông đợi, ông cũng có dịp về thăm nhà, “cái tình người cha cứ nôn nao” trong ông. Ngay khi thuyền còn chưa cập bến, ông Sáu đã vội vàng nhảy lên bờ, bước những bước dài đến bên con. Ông gọi to tên con, khom người xuống rồi dang rộng vòng tay với niềm mong chờ sẽ được con chạy nhanh đến ôm chầm lấy ông, sà vào lòng ông kêu một tiếng “ba”. Phải trông mong, nhớ thương con đến nhường nào mới khiến một người lính dày dạn nơi chiến trường trở nên vội vàng, luống cuống như thế. Ông không kịp chờ thuyền dừng hẳn mà đã vội vàng nhảy lên bờ để đến bên con. Thế nhưng đáp lại những mong chờ suốt hàng năm trời của người cha, bé Thu lại sợ hãi, ngơ ngác như nhìn người lạ. Ông Sáu đã không kìm được nỗi xúc động, vết thẹo bên má giần giật, “giọng lặp bặp run run”. Ông lặp lại hai tiếng “ba đây con” “ba đây con” để mong con gái nhận ra mình nhưng con ông lại sợ hãi chạy đi. Không điều gì đau xót hơn thế! Nỗi niềm khát khao, mong nhớ của người cha như bị tạt một gáo nước lạnh. Nỗi đau của chiến tranh, của vết thẹo dài trên mặt cũng không là gì khi đứng trước sự hụt hẫng, đau khổ của một người cha không được con nhận ra.

Suốt mấy ngày ở nhà, ông Sáu chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng ở bên con, hằng mong ba con sẽ thân thiết hơn, mong con gọi một tiếng “ba”. Thế nhưng bé Thu lại ngày càng xa cách, phản ứng dữ dội mỗi lần phải nhắc đến từ “ba”. Trước sự cứng đầu của con gái, ông Sáu buồn và bất lực nhưng cũng chỉ biết lắc đầu cười chua xót. Và rồi đến khi con nhận ra mình thì cũng là lúc ông phải lên đường. Giây phút ông Sáu được nghe tiếng gọi “ba” mà ông mong ngóng bấy lâu thì cũng là lúc hai cha con phải xa nhau. Tình yêu và sự kìm nén bấy lâu đã khiến một người đàn ông phải “rút khăn lau nước mắt”.

Ông Sáu trở lại chiến trường, lúc nào cũng canh cánh với lời hứa tặng con một cây lược. Ông gửi gắm tình yêu và nỗi nhớ con vào chiếc lược nhỏ, “thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Nhưng chiến tranh tàn khốc khiến ông không kịp đưa chiếc lược trao tận tay con mình. Ông Sáu hy sinh trong một trận càn quét của địch. Những giây phút cuối cùng của cuộc đời, ông không kịp căn dặn điều gì, duy chỉ có “tình cha con là không thể chết”, nỗi bận lòng cuối cùng của ông vẫn là người con gái bé bỏng, yêu thương.

Nếu như ở nhân vật ông Sáu ta thấy được tình yêu sâu nặng của người cha dành cho con gái thì bé Thu lại mang đến một tính cách hồn nhiên mà cứng cỏi, yêu ba tha thiết. Cô bé có tính cách yêu ghét rạch ròi, nhất định không chịu gọi “ba” vì đinh ninh ông Sáu không phải ba mình. Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm, bé Thu “né” ngay từ “ba” mà chỉ nói trống không “Vô ăn cơm”. Khi mẹ dặn nhờ ba chắt nước nồi cơm, bị dồn vào thế khó vì nồi cơm quá lớn, đứng trước sự lựa chọn là để cơm nhão hay gọi một tiếng “ba” để ba giúp, cô bé đã tự đưa ra một giải pháp khác – tự mình xoay xở, tự lấy muôi múc từng chút nước một. Bé Thu thông minh, nhanh nhẹn và rất cá tính.

Đỉnh điểm câu chuyện là lúc ông Sáu gắp cho con một cái trứng cá nhưng bé Thu không ăn lại hất ra và bị ba đánh. Trái với suy nghĩ của mọi người là cô bé sẽ khóc lóc, ăn vạ, nhưng bé Thu lại lặng im gắp cái trứng cá vào bát rồi bỏ sang nhà ngoại. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng với tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không hề đáng trách. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu hết được sự khốc liệt của chiến tranh mang lại.Thu không chịu gọi ông Sáu là ba vì vết thẹo trên mặt khiến ông trông khác với tấm hình chụp chung với mẹ. Trong tâm trí của Thu, ba phải là người giống hệt tấm ảnh mình vẫn hay thấy. Sự ngây thơ của con trẻ khiến người đọc vừa thấy cười, vừa thấy thương. Chiến tranh để lại muôn vàn nỗi đau, nhưng có lẽ nỗi đau tình thân bị chia cắt là đau đớn nhất.

Khi đã được bà ngoại giải thích, Thu trăn trở “thở dài như người lớn”. Có lẽ cô bé đang hối hận vì đã xa lánh, ngang bướng với ba. Tất cả nỗi nhớ mong, suy tư dồn nén như được giải tỏa vào sáng hôm sau, khi ông Sáu chuẩn bị lên đường. Bé Thu gọi to một tiếng “ba” – tiếng gọi mà cô bé ao ước được gọi từ lâu. Tiếng gọi như “xé cả ruột gan”, “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Cô bé níu chặt lấy cổ ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài đáng sợ bên má của ba nữa. Qua tâm lý và hành động của bé Thu, tác giả đã khắc họa rõ nỗi đau chiến tranh, chiến tranh đã khiến bao gia đình chia cắt, vợ mất chồng, con không nhận ra cha… Một tiếng gọi “ba”, một cái ôm của ba và con tưởng chừng như đơn giản nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh lại trở nên khó khăn, xa vời.

Nguyễn Quang Sáng đã rất tài tình khi tạo dựng được tâm lý nhân vật rất đặc sắc. Bác Ba điềm tĩnh, quan tâm đến đồng đội. Ông Sáu yêu thương con vô hạn, mong từng giây từng phút để gặp con; đau khổ, bất lực khi con bướng bỉnh hay nhớ thương, gửi gắm tình yêu vào cây lược tặng con. Đặc biệt, tác giả đã xây dựng được nhân vật bé Thu hồn nhiên mà cá tính, đôi khi bướng bỉnh nhưng yêu ghét rõ ràng. Cô bé rất yêu ba, rất nhớ ba nhưng vì sự ngây thơ của trẻ nhỏ cùng với tính cách cứng cỏi mà đã hiểu lầm ba.

Tác giả cũng khéo léo đặt nhân vật vào các tình huống truyện éo le để họ tự bộc lộ tính cách của mình. Phải thấy ông Sáu trong tình huống oái oăm con không nhận cha thì mới hiểu được tình yêu tha thiết, nỗi khát khao được ở bên con của ông. Đặt bé Thu vào tình huống gặp lại ba khi trên mặt ba thay đổi, có một vết thẹo dài cho đến khi bé hiểu ra nguyên nhân thì mới thấy được cô bé cũng yêu và tôn thờ ba đến nhường nào. Vì quá yêu ba nên mới không chấp nhận một người nào “trông khác với ba trong tấm hình chụp chung với mẹ”. Tình huống truyện kịch tính nhưng vẫn rất tự nhiên, có tính chất đảo ngược tình thế để tạo bất ngờ, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, đồng thời giúp làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh éo le của cuộc chiến.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là tác phẩm bất hủ về tình cha con thiêng liêng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Câu chuyện về ông Sáu và bé Thu là minh chứng rõ ràng cho tình cha con thắm thiết, không điều gì có thể chia cắt. Qua câu chuyện, ta hiểu hơn về những mất mát đau thương mà chiến tranh mang lại để thêm tự hào và quý trọng cuộc sống hòa bình hôm nay.

30 tháng 3 2022

Tham khảo:

Nhân vật bé Thu được nhà văn chú ý xây dựng với những nét vừa hồn nhiên vừa hết sức sâu sắc. Bé Thu là một đứa bé bướng bỉnh, gan lì, đáo để nhưng lại thương cha hết mực. Có thể nói, hình ảnh ông Sáu trong lòng bé Thu được bao bọc bởi sự tinh khiết, mãnh liệt, bất khả xâm phạm.

Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.

Trong ba ngày nghỉ phép, Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi nhưng Thu nhất quyết không chịu gọi tiếng ba. Má dọa đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, gọi chắt nước cơm nhưng lại nổi trổng. Dù bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi. Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.

Xung đột đạt đến cao điểm khi bé Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé – bị đòn, không khóc, chạy sang nhà bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.

Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “mày cứng đầu quá vậy?”. Chính thái độ ương ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.

Trước khi ông Sáu trở về, ngày nào nó cũng mong nhớ. Nhiều lần chị Sáu lên thăm ông Sáu, nó muốn đi nhưng mẹ nó không cho vì đường xa nguy hiểm. Lúc biết được ông Sáu chính là cha nó, nó hối hận lắm, nằm thở dài và nghĩ đến ngày mai. Trước lúc ông Sáu lên đường, tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc động nghẹn ngào nhất.

Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại. Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó còn rất thương ba nữa.

Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước: “Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, mặt nó sầm lại buồn rầu. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bống xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.

Tiếng gọi ba võ òa từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi ông Sáu chờ đợi suốt hơn 7 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.

Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới…dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba Nó hôn khắp người ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng. Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, 2 chân cấu chặt người nha. Em khóc vì thương cha, vì ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc đầu.

Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.

Qua nhân vật bé Thu, người đọc nhận thấy, tác giả quả rất am hiểu tâm lý trẻ em nên đã diễn tả sinh động tình cảm của bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động. Ông còn rất yêu thương trẻ thơ và quý trọng những cảm xúc hồn nhiên, phẩm chất anh hùng cao đẹp của tuổi trẻ.

Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu:    … Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.    - Tôi sẽ mang về...
Đọc tiếp

Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu:

    … Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.

    - Tôi sẽ mang về trao tận tay cháu.

    Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.

(Trích Chiếc lược ngà- Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục)

1. Người kể chuyện trong đoạn trích trên là ai? Cách chọn vai kể như vậy có tác dụng gì?

2. Cụm từ “nhắm mắt đi xuôi” trong đoạn văn trên có ý nghĩa gì? Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn này.

3. Bằng đoạn văn ngắn, hãy nêu ý nghĩa của hình tượng chiếc lược ngà trong đoạn trích trên.

1
17 tháng 6 2017

1. Đoạn trích sử dụng ngôi kể thứ nhất - nhân vật ông Ba kể chuyện, xưng “tôi”. Ngôi kể này có tác dụng tạo ra độ chính xác, tin tưởng cao, khi nhân vật trực tiếp thuật lại câu chuyện bản thân chứng kiến.

2. Cụm từ “nhắm mắt đi xuôi” để chỉ cái chết nhẹ nhàng, thanh thản (0,5 điểm)

Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn “Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi”: biện pháp nói giảm nói tránh được sử dụng nhằm giảm bớt sắc thái đau đớn khi diễn tả cái chết của ông Sáu (0,5 điểm)

3. Ý nghĩa hình tượng chiếc lược ngà

- Chiếc lược ngà ở đây được lựa chọn làm tên nhan đề tác phẩm. Câu chuyện cảm động về tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu được trong hoàn cảnh chiến tranh đã làm rõ tư tưởng của tác phẩm (0,5 điểm)

- Nêu tóm tắt lại nội dung câu chuyện, trước khi trở về mặt trận ông Sáu hứa tặng bé Thu chiếc lược ngà (0,25 điểm)

- Chiếc lược ngà là tất cả tình cảm, sự yêu thương và hối hận của ông Sáu dành cho con “Anh cưa từng chiếc răng lược tỉ mỉ thận trọng cố công như người thợ bạc, gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” (0,25 điểm)

- Chiếc lược ngà như gỡ rối được một phần tâm trạng của anh.

- Chiếc lược ngà như gỡ rối được một phần tâm trạng của anh. Chiếc lược ngà trở thành biểu tượng của tình thương con, chăm sóc cho con, nỗi nhớ mong con gái của ông Sáu (0,25 điểm)

- Ông Sáu hi sinh vẫn không kịp trao tận tay con chiếc lược ngà, đây là chi tiết gây xúc động trong lòng người đọc, cũng mang giá trị tố cáo chiến tranh chia cắt tình thân, gây ra nhiều đau đớn. (0,25 điểm)

→ Chiếc lược ngà đạt giá trị sâu sắc về mặt nội dung và hình thức, trở thành biểu tượng đẹp đẽ về tình phụ tử, và để lại ấn tượng sâu đậm cho người đọc. (0,5 điểm)

- Trình bày sáng rõ, bố cục khoa học, không mắc lỗi chính tả (0,5 điểm)