K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 3 2018

-Trạng ngữ: Ở hiên trước

-Chủ ngữ: Một cọ già trên 80 tuổi râu tóc bạc phơ

-Vị ngữ là phần còn lại

20 tháng 3 2018

mình nghĩ đây là câu đơn

25 tháng 3 2018

Phân tích câu: Ở hiên trước, một cụ già trên 80 tuổi râu tóc bạc phơ đang ngồi sưởi nắng.

- Trạng ngữ: Ở hiên trước.

- Chủ ngữ: một cụ già trên 80 tuổi râu tóc bạc phơ.

- Vị ngữ: đang ngồi sưởi năng.

25 tháng 3 2018

Phân tích câu : ở hiên trước , một cụ già trên 80 tuổi râu tóc bạc phơ đang ngồi sưởi nắng 

Chủ ngữ: một cụ già trên 80 tuổi 

Vị ngữ : râu tóc bạc phơ đang ngồi sưởi nắng 

Trạng ngữ: ở hiên trước

hãy tìm 1 câu ghép trog bài tạp đọc sau:Từ sáng sớm, các môn sinh đã tề tựu trước sân nhà cụ giáo Chu để mừng thọ thầy. Cụ giáo đội khăn ngay ngắn, mặc áo dài thâm ngồi trên sập . Mấy học trò cũ từ xa về dâng biếu thầy những cuốn sách quý. Cụ giáo hỏi thăm công việc của từng người, bảo ban các học trò nhỏ, rồi nói:– Thầy cảm ơn các anh. Bây giờ, nhân có đông đủ môn sinh,...
Đọc tiếp

hãy tìm 1 câu ghép trog bài tạp đọc sau:

Từ sáng sớm, các môn sinh đã tề tựu trước sân nhà cụ giáo Chu để mừng thọ thầy. Cụ giáo đội khăn ngay ngắn, mặc áo dài thâm ngồi trên sập . Mấy học trò cũ từ xa về dâng biếu thầy những cuốn sách quý. Cụ giáo hỏi thăm công việc của từng người, bảo ban các học trò nhỏ, rồi nói:

– Thầy cảm ơn các anh. Bây giờ, nhân có đông đủ môn sinh, thầy muốn mời tất cả các anh theo thầy tới thăm một người mà thầy mang ơn rất nặng.

Các môn sinh đồng thanh dạ ran. Thế là cụ giáo Chu đi trước, học trò theo sau. Các anh có tuổi đi ngay sau thầy, người ít tuổi hơn nhường bước, cuối cùng là mấy chú tóc để trái đào. Cụ giáo Chu dẫn học trò đi về cuối làng, sang tận thôn Đoài, đến một ngôi nhà tranh đơn sơ mà sáng sủa, ấm cúng. Ở hiên trước, một cụ già trên tám mươi tuổi râu tóc bạc phơ đang ngồi sưởi nắng. Cụ giáo Chu bước vào sân, chắp tay cung kính vái và nói to:

– Lạy thầy! Hôm nay con đem tất cả môn sinh đến tạ ơn thầy.

Cụ già tóc bạc ngước lên, nghiêng đầu nghe. Cụ đã nặng tai. Thầy giáo Chu lại nói to câu nói vừa rồi một lần nữa. Thì ra đây là cụ đồ xưa kia đã dạy vỡ lòng cho thầy.

Tiếp sau cụ giáo Chu, các môn sinh của cụ lần lượt theo lứa tuổi vái tạ cụ đồ già. Ngày mừng thọ thầy Chu năm ấy, họ được thêm một bài học thấm thía về nghĩa thầy trò.

3
5 tháng 3 2019

tao chiu thoi ko thay co cau nao ca

26 tháng 3 2021

Câu ghép đó là: 

5 tháng 12 2017

Khi mặt hồ yên lặng, không có chú cá nào bơi đến cụ lại thong thả vuốt chòm râu dài và trắng phau. Mái đầu của cụ cũng đã bạc trắng, thêm chòm râu trắng nữa nên cụ trông giống như một ông tiên hạ trần thế. Phong thái bình tĩnh và điềm đạm của cụ lúc câu cá khiến cho em liên tưởng đến bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng có dáng câu cá rất tao nhã và bình thản như vậy.Cụ già rất kiên trì khi câu cá, lúc nào có động tĩnh, cụ cũng kéo cần câu rất nhẹ nhàng và điềm tĩnh để không đánh thức lũ cá đang bơi lội ở dưới kia. Bàn tay cụ khéo léo, kéo từ từ cần câu. Và lúc cần câu ngoi lên mặt nước thì có một con cá đã cắn câu. Đó là một con cá rô phi to bằng bàn tay người lớn đã bị mắc vào chiếc cần câu sắc nhọn. Chú cá ngoe nguẩy bên này sang bên kia để thoát khỏi bàn tay của ông cụ. Nhưng cụ đã rất nhanh nhẹn và khéo léo để bỏ chú cá xấu số vào chiếc giỏ đang treo ở xe.

21 tháng 2 2019

Phân tích cấu tạo là xác định chủ ngữ , vị ngữ

1. Đặt vấn đề

 

Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo nhiều phương pháp. Phổ biến nhất là bốn phương pháp sau: (1) theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết(ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc cái cho sẵn - cái mới (lý thuyết phân đoạn thực tại).

 

Các phương pháp này được xây dựng dựa trên ba bình diện nghiên cứu câu: kết học, nghĩa học và dụng học. Trong đó, phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thuộc bình diện kết học của câu, cấu trúc vị từ - tham thể thuộc bình diện nghĩa học, cấu trúc cái cho sẵn - cái mới thuộc bình diện dụng học. Riêng phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thì lại được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Cao Xuân Hạo không xếp đề - thuyết vào bình diện kết học, song ông cũng băn khoăn khi xếp đề - thuyết vào bình diện dụng học [4, tr. 11].

 

2. Trong bài viết này, chúng tôi  sẽ phân tích mẫu một số câu cụ thể theo từng phương pháp; nêu ưu thế, hạn chế của mỗi phương pháp và sự tương quan/ mối quan hệ của các phương pháp với nhau.

 

2.1. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị

 

Đây là phương pháp lâu đời nhất của ngữ pháp truyền thống, được xây dựng dựa trên ba quan hệ ngữ pháp cơ bản của câu: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị. Muốn vẽ được mô hình câu theo phương pháp này, phải xác định được ba quan hệ trên. Qui ước vẽ như sau: với quan hệ đẳng lập, không vẽ mũi tên ở cả hai chiều; với quan hệ chính phụ, vẽ mũi tên hướng về thành tố chính; với quan hệ chủ vị, vẽ mũi tên ở cả hai chiều.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

Công ty   chúng tôi  // sẽ   thi công     một  tòa nhà    24  tầng.

 

                           ĐN                                               ĐN

 

                                                          ĐN                          ĐN

 

                                                                                  BN

 

           C                                               V

 

-> Đây là câu đơn.

 

Bỗng  một  bàn tay /  đập  (vào)  vai   //    khiến    hắn  /  giật mình.

 

TTN                                                BN                  C                    V

 

                C                           V                                           BN     

 

                           CN                                                   VN

 

-> Đây là câu phức thành phần chủ ngữ và thành phần bổ ngữ.

 

b. Ưu thế của phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị

 

Đối với người Việt, chủ ngữ và vị ngữ là những khái niệm hết sức quen thuộc. Đây lại là phương pháp ra đời sớm, được nghiên cứu nhiều, nên hệ thống lý thuyết tương đối sáng rõ.  Các thành tố cấu tạo nên câu được phân tích hết sức tỉ mỉ và cạn kiệt. Không có bất kỳ một từ nào trong câu không được làm rõ, dù đó là thực từ hay hư từ. (Theo chúng tôi, trong số bốn phương pháp phân tích câu, đây là phương pháp phân tích chi tiết nhất). Quan hệ giữa các từ trong cụm từ, quan hệ giữa các cụm từ với nhau luôn được thể hiện rõ ràng. Chức năng của các thành phần câu được phản ánh một cách rất cụ thể. Nếu dạy cho học sinh phân tích câu theo cách này, người học dễ dàng xây dựng những câu đúng ngữ pháp, chuẩn mực.

 

Phương pháp này có hạn chế sau đây. Khi nói một câu, cái quan trọng là ta truyền đi một thông tin. Phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị chỉ quan tâm đến bình diện hình thức của câu mà không làm nổi rõ vấn đề trọng tâm thông báo của câu. Các thành phần câu được gọi tên thuần tuý theo kiểu ngữ pháp, không rõ chức năng ngữ nghĩa. Cách phân tích này quá tỉ mỉ, nên không phải lúc nào cũng có thể ứng dụng được cho mọi câu tiếng Việt, đặc biệt là những câu trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, những câu có cấu trúc hơi khác thường.

 

 

 

2.2. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ -  tham thể

 

Người khơi nguồn cho phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể là L.Tesnière với lý thuyết diễn trị (vào khoảng những năm 30 của thế kỷ trước). Ông đã gợi ra một giải pháp nghĩa học độc lập cho việc phân tích câu. Sau ông, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm đến vấn đề này. Đó là C.J. Fillmore, M.A.K. Halliday, W.Chafe, C. Hagège, S.C.Dik… Để phân tích được câu theo phương pháp này, trước hết phải xác định được vị từ trung tâm, sau đó xác định các tham thể bắt buộc xoay xung quanh vị từ đó, cuối cùng là xác định các tham thể mở rộng.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

Ngày 8-3,           tôi             tặng      cho người yêu     một bó hoa hồng.

 

TTMR               TTBB          VTTT           TTBB                     TTBB

 

        (thể thời gian)   (hành thể)                         (tiếp thể)                 (đối thể)

 

      Con mèo nhảy mạnh                   làm đổ                    lọ hoa.

 

TTBB (thể nguyên nhân)               VTTT              TTBB (đối thể)

 

Tôi                         lại tưởng                      anh ta không muốn đến.

 

TTBB (thể cảm nghĩ)         VTTT                            TTBB (thể nội dung)

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ – tham thể có ưu thế sau: Các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể phản ánh sự tương ứng về nghĩa của chúng với các sự vật trong thực tế khách quan. Toàn bộ nội dung câu phản ánh một sự tình của thế giới ấy. Thông qua cấu trúc này, ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa ngôn ngữ học với cuộc sống con người.

 

Phương pháp  phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể có hạn chế là không quan tâm đến các hư từ. Vì vậy, mối quan hệ giữa các từ trong câu nhiều khi không được làm rõ. Đặc biệt, cấu trúc này không phân tích được cạn kiệt các thành phần trong câu, chẳng hạn, không làm rõ được thành phần định ngữ có vai trò gì trong cấu trúc nghĩa sự vật. Ví dụ: Cô gái nhỏ nhắn ấy là bạn tôi. Toàn bộ cụm danh từ cô gái nhỏ nhắn ấy là một tham thể; bạn tôi là một tham thể. Còn nhỏ nhắn và tôi có vai trò gì thì không quan tâm đến.

 

Nhiều trường hợp rất khó phân tích câu theo cấu trúc này, nhất là đối với những câu có nhiều tầng bậc. Ngoài ra, rất khó xác định vai nghĩa mà các tham thể đảm nhiệm do không có dấu hiệu hình thức rõ ràng. Có một thực tế là người ta vẫn dựa vào sự tương ứng giữa các thành tố của cấu trúc vị từ - tham thể với các thành phần câu trong cấu trúc chủ - vị để từ cấu trúc chủ - vị, suy ra cách phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Như vậy rõ ràng là muốn phân tích câu (dù theo cách nào), vẫn phải học cấu trúc chủ - vị trước.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc vị từ  – tham thể với cấu trúc chủ – vị:

 

CẤU TRÚC CHỦ – VỊ

CẤU TRÚC VỊ TỪ - THAM THỂ

Chủ ngữ

Tương ứng với tham thể bắt buộc (là tham thể quan trọng nhất)

Trung tâm của vị ngữ

Tương ứng với vị từ trung tâm (toàn bộ vị ngữ có thể tương đương với cả vị từ trung tâm + tham thể bắt buộc / không bắt buộc).

Bổ ngữ: 2 loại:

+ Bổ ngữ bắt buộc (của động từ trao nhận, sai khiến…)

+ Bổ ngữ không bắt buộc (Bổ ngữ thời gian, địa điểm, mục đích….)

 

+ Tương ứng với tham thể bắt buộc.

 

+ Tương ứng với tham thể không bắt buộc.

Định ngữ

Không tương ứng với một tham thể. Nó cùng với danh từ trung tâm làm thành một tham thể.

Đề ngữ

Tương ứng với tham thể bắt buộc do nó có quan hệ về nghĩa với nòng cốt câu hoặc các thành tố trong câu.

Trạng ngữ

Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố).

Các thành phần biệt lập (phụ chú ngữ, liên ngữ, hô ngữ, tình thái ngữ)

Không tương ứng với bất kỳ thành tố nào trong cấu trúc vị từ - tham thể vì các thành tố này không tham gia vào việc biểu hiện nghĩa sự vật.

Vị ngữ phụ

Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố).

 

2.3. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề – thuyết

 

Theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, một câu được chia ra hai phần: phần đề và phần thuyết. Để phân tích được câu theo cấu trúc này, có thể dựa vào nhiều tiêu chí, tuy nhiên, đơn giản nhất là dựa vào tiêu chí về phương tiện. Ba chỉ tố đánh dấu sự phân chia đề - thuyết là thì, là, mà.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

                                                              C

 

  KĐ                                     Đ                              T

 

                            MXN

 

 

 

Buổi chiều,    mệt mỏi vì chờ đợi,          lăn ra ngủ.                                      

 

-> Đây là câu đơn một bậc đề - thuyết.

 

                                C

 

          

 

         Đ                                Ta                                     Tb

 

 

 

                                     đ                    t            đ                       t

 

       Con bé ấy                  mắt   thì     giống mẹ,  nước da      lại giống bố.              

 

-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.

 

         

 

                                    V1                            V2

 

                           Đ                  T           Đ                   T

 

 

 

                     Tay anh   bưng ngọn đèn, em       che ngọn gió.

 

-> Đây là câu ghép.

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề  – thuyết có ư thế là: Cấu trúc đề - thuyết phản ánh được vấn đề thông tin của câu, trong đó, phần thuyết là phần chứa đựng nội dung thông tin mới. Căn cứ xác định đề - thuyết là dựa vào các tác tử thì, là, mà: chỗ nào chen được các tác tử này thì chỗ đó là ranh giới phân chia đề - thuyết. Thao tác này tương đối đơn giản. Do vậy, việc phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết nhìn chung là dễ thực hiện.

 

 So với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thì khi áp dụng phương pháp phân  tích câu theo cấu trúc đề - thuyết, các thành phần chỉ được phân tích sơ bộ chứ không được phân tích thật chi tiết.

 

Nhìn chung, cấu trúc đề - thuyết dễ ứng dụng đối với những câu được sử dụng trong hội thoại hàng ngày. Quả thực trong hội thoại, các phát ngôn chứa rất nhiều các tác tử thì, là, mà…, do vậy, việc phân tích khá đơn giản. Còn trong các văn bản văn học, nhất là các văn bản khoa học thì các từ “râu ria” này sẽ ít hoặc không xuất hiện. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể thêm các từ này vào để làm ranh giới phân chia đề - thuyết, song việc làm này mang tính chất cảm tính. Việc xác định phần đề, phần thuyết lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. Thêm vào đó, trong những câu có chứa cả thì và là, ranh giới xác định đề - thuyết không nhất quán, có lúc dựa vào thì, có lúc dựa vào là.

 

 Dù sao, phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết vẫn là một phương pháp mới, không quen thuộc với người học, do vậy, thông thường người học hay suy từ cấu trúc chủ - vị sang cấu trúc đề - thuyết. Như vậy, cách phân tích này dường như bị lệ thuộc vào lối phân tích chủ - vị.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc chủ – vị:

 

 

 

 

CẤU TRÚC CHỦ - VỊ

CẤU TRÚC ĐỀ  - THUYẾT

Phạm vi ngữ nghĩa

Chủ ngữ hẹp hơn phần đề và vị ngữ hẹp hơn phần thuyết.

Phần đề rộng hơn chủ ngữ. Phần thuyết rộng hơn vị ngữ.

Mối quan hệ giữa hai thành phần chính trong câu

Quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ tương đối chặt.

Quan hệ giữa đề với thuyết tương đối lỏng.

Sự tương ứng của một số thành phần câu

- Khởi ngữ

- Trạng ngữ

- Vị ngữ phụ

- Vế phụ của câu ghép chính

phụ

- Tình thái ngữ

 

- Liên ngữ

- Hô ngữ

- Phụ chú ngữ

- Tương ứng với phần đề

- Tương ứng với chu ngữ

- Tương ứng với minh xác ngữ

- Tương ứng với phần đề

 

- Đề tình thái (siêu đề) hoặc

thuyết tình thái (thuyết giả)

- Đề tình thái (siêu đề)

- Vế câu than gọi

- Vế câu phụ chú

Sự tương ứng của các kiểu câu

- Câu đơn

 

- Câu phức

 

- Câu ghép đẳng lập

 

- Câu ghép chính phụ

- Tương ứng với câu đơn 1 bậc Đề-Thuyết.

- Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên.

- Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên.

- Tương ứng với câu ghép.

Ưu thế và hạn chế chính

- Dễ đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản) nhưng khó đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản).

- Có thể phân tích đến cạn kiệt tất cả các thành phần.

- Không quan tâm tới vấn đề thông tin của câu.

- Dễ đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản) nhưng khó đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản).

- Không thể phân tích cạn kiệt tất cả các thành phần.

- Quan tâm tới vấn đề thông tin của câu(Thông tin mới nằm ở phần thuyết).

Mối quan hệ với ngữ cảnh

- Ít  phụ thuộc vào ngữ cảnh. -> Cấu trúc C-V luôn được phân tích giống nhau ở mọi ngữ cảnh.

- Phụ thuộc khá chặt vào ngữ cảnh -> Trong các ngữ cảnh khác nhau, một phát ngôn có thể có phần Đ và T khác nhau.

 

2.4. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới”

 

Người đầu tiên đề xuất lý thuyết phân đoạn thực tại là nhà ngôn ngữ học người Sec V.Mathesius. Theo ông, một phát ngôn gồm hai phần: cái cho sẵn - cái mới (Nguyễn Minh Thuyết, Trần Ngọc Thêm sử dụng cặp thuật ngữ nêu - báo). Trong đó, phần nêu (cái cho sẵn) là xuất phát điểm của thông báo, là đối tượng của cuộc nói chuyện, tức là thông tin đã biết hoặc dễ nhận biết mà từ đó người nói bắt đầu thông báo của mình; còn phần báo (cái mới) là trọng tâm của thông báo, là hạt nhân của cuộc thoại. V.Mathesius cũng cho rằng cái cho sẵn tương ứng với phần đề của câu, còn cái mới tương ứng với phần thuyết. Sau này, M.A.K Halliday phát hiện cái cho sẵn - cái mới không tương ứng một đối một với cấu trúc đề - thuyết của câu.

 

Để có thể sử dụng phương pháp phân tích câu này, cần đặt câu trong một ngữ cảnh cụ thể. Sau đó xác định thông tin cũ, mới dựa vào các hư từ, dựa vào khả năng lược bỏ và dựa vào một số phép liên kết câu.

 

Một số ví dụ:

 

 (Lan im lặng). Lan  như nghe thấy tiếng đập của con tim mình.

 

                         CC                                  CM

 

 Bỗng từ dưới nước nhô lên một cánh tay.

 

                     CM  

 

Chính    ăn hai bát cháo (chứ không phải tôi).

 

         CM          CC

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới” có ưu thế sau:

 

Như chúng ta biết, nói một câu là truyền đi một thông tin. Tất nhiên, cái mà người ta quan tâm là thông tin mới. Cấu trúc cái cho sẵn – cái mới có ưu thế nổi bật mà không cấu trúc nào có được - đó là nó phản ánh thông tin cũ - mới của câu một cách hết sức rạch ròi. Về điểm này, nó còn vượt xa cả cấu trúc đề - thuyết vì thỉnh thoảng, trong phần thuyết vẫn chứa một vài từ ngữ mang thông tin cũ. Do vậy, nó còn được gọi là cấu trúc thông tin hay, vắn tắt hơn, là cấu trúc tin.

 

Hạn chế của phương pháp này là: Cấu trúc chủ - vị là cấu trúc cú pháp ổn định, tách rời ngữ cảnh. Nói cụ thể hơn, trong bất cứ tình huống nào, chủ ngữ vẫn cứ là chủ ngữ, vị ngữ vẫn cứ là vị ngữ. Đây là cấu trúc ở dạng tĩnh. Trong khi cấu trúc tin phụ thuộc chặt chẽ vào ngữ cảnh (có thể nói là lệ thuộc vào ngữ cảnh). Vậy, nếu không có tình huống giao tiếp hay ngữ cảnh cụ thể thì ta không thể phân tích câu theo cấu trúc này.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới” với cấu trúc chủ – vị:

 

Cấu trúc tin có thể trùng với cấu trúc chủ - vị, có thể không.

 

Trường hợp cấu trúc tin trùng với cấu trúc chủ - vị là trường hợp chủ ngữ mang tin cũ và vị ngữ mang tin mới. Chẳng hạn:

 

  (Lan mệt mỏi).  Cô ấy    đã thức suốt đêm qua.

 

Theo cấu trúc chủ - vị:      C                    V

 

Theo cấu trúc nêu - báo:   CC                 CM

 

Đặc biệt với cấu trúc có chứa từ “là”, thông thường cái cho sẵn trùng với chủ ngữ, cái mới trùng với vị ngữ.

 

Song, trên thực tế, có rất nhiều trường hợp ranh giới Cái cũ – Cái mới không trùng với chủ - vị. Bởi lẽ, về nguyên tắc, thông tin mới của câu có thể nằm ở bất kỳ thành phần nào trong câu (chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ…). Thậm chí, có những trường hợp, phần tin mới nằm ở các hư từ vốn không đảm nhiệm chức năng cú pháp gì trong câu. Ví dụ:

 

Tin mới trùng với chủ ngữ:

 

-         Chính  đã từ bỏ tình yêu của mình.

 

-         Anh Bình mới là người đến trước.

 

-         Cả anh ấy cũng vắng mặt.

 

 Tin mới trùng với bổ ngữ:

 

-         Cô ấy nghi ngờ cả tôi.

 

-         Nó đọc cả báo.

 

Tin mới trùng với trạng ngữ:

 

-         Mai anh đi à?

 

-         Ngày kia tôi mới đi.

 

Tin mới trùng với các hư từ trong câu:

 

-         Cậu ăn cơm chưa?

 

-         Rồi.

 

Tin mới cũng có thể nằm ở các tình thái từ hoặc các quán ngữ tình thái bởi lẽ các từ ngữ này luôn là điểm nhấn quan trọng về mặt thông tin. Do vậy, xét về tính đúng sai, tính chân thực của phát ngôn, ta thấy có một điều khá thú vị. So sánh:

 

(a) Anh ấy không đến.

 

(b) Có lẽ anh ấy không đến.

 

Trong câu (b), có lẽ là thành phần tình thái ngữ. Nó không phải là thành phần quan trọng trong cấu trúc chủ - vị của câu, bỏ nó đi, câu vẫn không sai về ngữ pháp. Nhưng nếu thực tế là anh ấy đến, thì nhận định (a) sẽ là sai, còn (b) không bị coi là sai.

 

Xét về số lượng các thành phần trong câu thì cấu trúc tin luôn luôn chỉ có hai phần (cái cho sẵn - cái mới). Còn cấu trúc chủ - vị, ngoài hai thành phần chính (chủ ngữ, vị ngữ), trong câu còn rất nhiều các thành phần khác (trạng ngữ, đề ngữ, tình thái ngữ…)

 

Bây giờ, chúng tôi sẽ phân tích một câu theo cả bốn phương pháp. Câu được chọn là: Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi sẽ học chiều nay.

 

(1)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc chủ – vị:

 

Ngữ pháp  tiếng Việt  (thì)  chúng tôi // sẽ học  chiều nay.

 

                         ĐN                                                     BN

 

                                              C                         V

 

          K                                                

 

-> Đây là câu đơn bình thường.

 

(2)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc vị từ - tham thể:

 

Ngữ pháp tiếng Việt  thì  chúng tôi    sẽ học   chiều nay.

 

      TTBB                            TTBB      VTTT        TTMR

 

    Thể đối tượng              Hành thể                  Thể thời gian

 

(3)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc đề – thuyết:

 

                            C

 

 

 

 
 

 

 

             Đ                                    T

 

                                           đ2                           t2

 

Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi // sẽ học chiều nay.

 

-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.

 

(4)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới”:

 

Giả sử ngữ cảnh xuất hiện của câu này là có một người nào đó hỏi: “Bao giờ thì các bạn học ngữ pháp tiếng Việt?”. Câu trả lời sẽ được phân tích như sau:

 

Ngữ pháp tiếng Việt  thì chúng tôi  sẽ học  chiều nay.

 

          CC                           CC           CC          CM

 

Rõ ràng là bốn kiểu cấu trúc trên không trùng nhau.

 

3. Kết luận

 

  Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp. Bốn phương pháp này có những điểm tương đồng với nhau, cũng có những điểm khác biệt. Chúng hỗ trợ, bù đắp cho nhau để cuối cùng, nếu chúng ta nắm được cả bốn phương pháp phân tích câu, chúng ta sẽ có được một cái nhìn toàn diện nhất về câu tiếng Việt.

 

  Mỗi phương pháp phân tích câu có những thế mạnh riêng, phụ thuộc vào bình diện mà nó phản ánh.

 

Lẽ dĩ nhiên, mỗi phương pháp cũng có những hạn chế của nó. Song xét trên từng bình diện nghiên cứu câu một cách độc lập, mỗi phương pháp ấy đã hoàn thành tốt sứ mạng của mình.

23 tháng 11 2021

hỏi zậy bt đường nào tả lời 

23 tháng 11 2021

a) Những chiếc thuyền bằng giấy được lũ trẻ thả trên những vũng nước mưa trước hiên nhà.

b) Bóng của mấy con chim bồ câu lướt nhanh trên những mái nhà cao thấp.

c) Mấy bông hoa vàng rực như những đốm nắng đã nở sáng trưng trên giàn mướp xanh mướt.

d) Trên một cây thông gãy, một chú hoàng oanh nhỏ đang mổ vỏ thông tìm mồi.e) Qua một năm, những hạt thảo quả gieo trên đất rừng đã cao tới bụng người.

g) Thoáng cái, dưới bóng râm của rừng già, thảo quả lan tỏa nơi tầng rừng thấp, vươn ngọn,xòe lá, lấn chiếm không gian.

Hii . Mik có dùng sai vài từ ngữ .

Dấu phẩy trong câu trên có tác dụng là : Ngăn cách các bộ phận có cùng chức vụ trong câu 

# HỌC TỐT #

26 tháng 3 2019

Ông Tám đã ngoài 60, dáng người ốm yếu, dong dỏng cao. Ông thường mặc bộ đồ bà ba màu xám, có vết sờn trên vai. Dù tuổi đã cao nhưng ông lấy làm hãnh diện vì hàm răng của mình. Hàm răng đều tăm táp chưa rụng cái nào. Bởi vậy, ông Tám xước mía, nhai xương khoẻ khoắn như người đang tuổi đôi mươi. Duy có đôi mắt ông hơi yếu. Ông thường mang kính khi đọc báo hoặc xem ti vi. Những lúc ấy, đôi mắt ông chăm chú một cách tỉ mỉ.

Bà năm nay đã ngoài sáu mươi, dáng người nhỏ, gầy với mái tóc pha sương nay đã bạc màu mây trắng. Lưng bà đã bắt đầu còng xuống, nước da bị nắng cháy sạm, có chỗ đã xuất hiện những chấm đồi mồi. Vì bà đã phải bươn chải, tần tảo buôn bán để nuôi mẹ, các cậu và các dì. Mắt bà không còn tinh tường như xưa nữa, con ngươi đã hơi đùng đục nhưng cái nhìn của bà thì vẫn như thưở nào: hiền hậu, yêu thương. Hai gò má của bà nhô lên, rám nắng, đôi môi khô và thâm lại theo năm tháng của cuộc đời., Trên khuôn mặt xuất hiện nhiều nếp nhăn ở đuôi mắt, khóe môi. Mỗi khi bà cười, những nếp nhăn ấy lại hằn sâu hơn. Những lúc buồn, đôi mắt bà đăm chiêu như phản chiếu những ngày lặn lội vất vả vì những miếng cơm manh áo cho con cái.

ĐÔI TAI CỦA TÂM HỒN      Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn vừa cũ, lại rộng nữa.      Cô bé buồn tủi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ : "Tại sao mình lại không được hát ? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao ?". Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé...
Đọc tiếp

ĐÔI TAI CỦA TÂM HỒN

      Một cô bé vừa gầy vừa thấp bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca. Cũng chỉ tại cô bé ấy lúc nào cũng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo vừa bẩn vừa cũ, lại rộng nữa.

      Cô bé buồn tủi khóc một mình trong công viên. Cô bé nghĩ : "Tại sao mình lại không được hát ? Chẳng lẽ mình hát tồi đến thế sao ?". Cô bé nghĩ mãi rồi cô cất giọng hát khe khẽ. Cô bé cứ hát hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả mới thôi.

      “Cháu hát hay quá !”. Một giọng nói vang lên : "Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ, cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ". Cô bé ngẩn người. Người vừa khen cô bé là một ông cụ tóc bạc trắng. Ông cụ nói xong liền đứng dậy và chậm rãi bước đi.

      Hôm sau, khi cô bé đến công viên đã thấy cụ già ngồi ở chiếc ghế đá hôm trước, khuôn mặt hiền từ mỉm cười chào cô bé. Cô bé lại hát, cụ già vẫn chăm chú lắng nghe. Cụ vỗ tay nói lớn : "Cảm ơn cháu, cháu gái bé nhỏ của ta, cháu hát hay quá !". Nói xong cụ già lại chậm rãi một mình bước đi.

      Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, cô bé giờ đây đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng. Cô gái vẫn không quên cụ già ngồi tựa lưng vào thành ghế đá trong công viên nghe cô hát. Một buổi chiều mùa đông, cô đến công viên tìm cụ nhưng ở đó chỉ còn lại chiếc ghế đá trống không.

      "Cụ già ấy đã qua đời rồi. Cụ ấy điếc đã hơn 20 năm nay." — Một người trong công viên nói với cô. Cô gái sững người. Một cụ già ngày ngày vẫn chăm chú lắng nghe và khen cô hát lại là một người không có khả năng nghe ?

(Hoàng Phương)

(Hoàng Phương)

Khoanh tròn chữ cái trước câu trả lời đúng :

Câu 1. Vì sao cô bé buồn tủi khóc một mình trong công viên ?

a. Vì cô không có quần áo đẹp.

b. Vì cô không có ai chơi cùng.

c. Vì cô bị thầy giáo loại ra khỏi dàn đồng ca.

Câu 2. Cuối cùng trong công viên cô bé đã làm gì ?

a. Suy nghĩ xem tại sao mình không được hát trong dàn đồng ca.

b. Cất giọng hát khe khẽ hết bài này đến bài khác cho đến khi mệt lả.

c. Ngồi trò chuyện với cụ già.

Câu 3. Cụ già đã nói gì và làm gì ?

a. Cụ nói : “Cháu hát hay quá ! Cháu đã cho ta cả một buổi chiều thật vui vẻ.”

b. Cụ khuyên cô bé cố gắng tập luyện để hát tốt hơn.

c. Trong nhiều năm, cụ vẫn đến công viên ngồi chăm chú lắng nghe cô bé hát.

Câu 4. Tình tiết bất ngờ gây xúc động nhất trong câu chuyện là gì ?

a. Cụ già đã qua đời.

b. Cụ già vẫn lắng nghe và động viên cô hát lại là một người bị điếc, không có khả năng nghe.

c. Cô bé đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng.

5. Nhận xét nào đúng nhất để nói về cụ già trong câu chuyện ?

a. Là một người kiên nhẫn.

b. Là một con người hiền hậu.

c. Là một con người nhân hậu, luôn biết quan tâm, chia sẻ, động viên người khác . 
 

6
29 tháng 6 2020

Câu 1: c

Câu 2: b

Câu 3: c

Câu 4: b

Câu 5: c

29 tháng 6 2020
Câu 1Câu 2Câu 3Câu 4Câu 5
cbabc
25 tháng 5 2018

Chuyển những câu đơn sau thành câu ghép (có đủ chủ ngữ, vị ngữ có cấu trúc là một đoạn văn)

Râu tóc bạc trắng. Da dẻ hồng hào. Đôi mắt sâu. Đôi mắt sáng. Cái miệng móm. Đôi môi nở nụ cười.

trả lời:Râu tóc ông bạc trắng,da dẻ hồng hào,đôi mắt sâu và sáng,cái miệng tuy móm nhưng luôn nở nụ cười.

25 tháng 5 2018

bác có Râu tóc bạc trắng da dẻ hồng hào 

bác có Đôi mắt sâu.đôi mắt sáng

bác có Cái miệng móm đôi môi nở nụ cười.