K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 10 2018

Gốm Việt Nam thời kỳ sơ khai

Với văn hóa Bắc Sơn (thuộc thời kỳ đồ đá mới), bên cạnh những đồ đá được ghè, đẽo, mài, người ta đã tìm thấy những mảnh gốm có niên đại xa xôi như Sũng Sàm, Bó Lúm, Thẩm Hơi… Đồ gốm còn được liên tiếp phát hiện ở các di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ Tĩnh), Mai Pha, Ba Xã (Lạng Sơn), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Bàu Tró (Bình Trị Thiên) trong giai đoạn bắc cầu từ thời đại đá sang thời đại đồng thau.

Gốm Việt thời kỳ đồ đá

Chất liệu gốm đất nung của giai đoạn này thường thô có pha lẫn cát hoặc bã động vật. Người ta thấy các dấu vết khuôn đan trên gốm tìm được ở di chỉ sơ kỳ đá mới Đa Bút (Thanh Hóa), nhưng phần lớn gốm được nặn bằng tay. Mảnh gốm tìm được thường có những hoa văn đơn giản ở phía ngoài như vạch chéo, văn sóng, văn chải răng lược… Các hoa văn này được tạo ra khi đồ gốm còn ướt, một số được tạo bằng các bàn dập, hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch.

Người ta tính rằng, trong một thời gian dài, ít ra cũng từ lúc phát minh ra đồ gốm đến đầu thời đại đồ đồng, đồ gốm chủ yếu được thành hình bằng tay và làm ra nó là phụ nữ. Các nhà khảo cổ học Liên Xô đã đi tới kết luận rằng 90% số đồ gốm nguyên thủy mang dấu vân tay của phụ nữ. Kết luận này không những phù hợp với gốm nguyên thủy Liên Xô mà còn với cùng loại gốm ấy ở nhiều nước khác trên thế giới.

Với kỹ thuật thành hình bằng tay, phần lớn các đồ gốm cổ đều được nung ngoài trời, nhiệt độ nung thường dưới 7000°C. Cho đến nay, nhiều nước châu Á như Lào, Campuchia, Miến Điện, Nam Trung Quốc hay Việt Nam, có nơi vẫn nung gốm ngoài trời theo cách cổ xưa nhất, tuy cách xếp sản phẩm, xếp củi và nguyên liệu cũng khác nhau ít nhiều.

Các sản phẩm chủ yếu của giai đoạn này là đồ đựng và đun nấu, về cuối ta thấy thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức, tuy nhiên thực dụng là yếu tố hàng đầu của các loại gốm thời đó.

Gốm Việt thời đại đồ đồng

Việt Nam bước vào thời đại đồ đồng cách đây khoảng bốn ngàn năm. Thời đó, bên cạnh đồ đá đã rất hoàn thiện, tinh vi, các nghề thủ công khác như nghề đúc đồng, nghề dệt, nghề mộc, nghề gốm v.v… đã phát triển, mang tính bản địa rõ nét.

Nền văn hóa có thêm ảnh hưởng từ bên ngoài đến, chủ yếu từ Đông Nam Á. Sau một thời gian hình thành khá dài, đồ gốm đất nung bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ, bước phát triển thứ nhất trong lịch sử gốm Việt Nam. Hầu hết các sản phẩm gốm dân dụng được thành hình bằng bàn xoay một cách khá táo bạo, đã tạo nên sự phong phú của các loại hình và kiểu dáng sản phẩm: ngoài nồi chõ dùng để đun nấu, còn thấy vò, bình, chậu, những sản phẩm để chứa đựng, bát, đĩa, chén, mâm bồng dùng trong ăn uống; hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay bằng gốm, đồ trang sức, tượng gà, bò, gốm mỹ thuật. Ngoài ra, còn các đồ dùng trong sản xuất, như đọt xe chỉ, chì lưới đánh cá, bi gốm…

Về trang trí, gốm đất nung chủ yếu các hoa văn hình họa, lấy nét chìm làm phương tiện thể hiện chính. Một số sản phẩm đã được xoa một lớp áo nước đất vàng, đỏ, hoặc lớp đất khác màu, nhưng chưa phải là men. Các hoa văn trang trí và hình dáng sản phẩm gốm có ảnh hưởng đến việc tạo dáng và trang trí trên đồ đồng cùng thời.

Tuy chưa tìm được những lò nung gốm thời kỳ này, nhưng với cách nung già và đẹp, người ta cho rằng những người làm gốm đã biết sử dụng lò khoát hay lò đắp để nung. Những lò này làm bằng đất sét thường, nên sau khi nung, qua một thời gian dài chúng đã bị mưa gió phá hủy.

Thời kỳ đồ sắt

Suốt thời đại đồng thau, qua thời đại đồ sắt, đồ gốm đất nung đã được sản xuất khắp vùng lớn tạm gọi là nước ta thời ấy. Nhiều loại hình và trang trí còn tồn tại đến nay trên sản phẩm gốm đất nung và sành nâu chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó. Tuy chất liệu gốm đất nung còn non lửa và thô sơ, so với gốm đất nung đang sản xuất hiện nay, nhưng về mặt tạo dáng và trang trí chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Vì thế khi nhắc đến đồ gốm đất nung thì tiêu biểu vẫn là của thời đại các vua Hùng (thời đại đồng – sắt sớm).

Hiện vật được tìm trong các di chỉ khảo cổ khác nhau, cho thấy nghề gốm vẫn gắn bó với nghề nông, và nam giới bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong nhiều khâu sản xuất.

Tuy chưa có những nơi làm gốm tập trung lớn, nhưng bước đầu đã hình thành những làng có nghề gốm phát triển hơn, do điều kiện nguyên liệu, thợ giỏi và giao thông. Những làng này đã dần có được phong cách riêng về tạo dáng và trang trí. Người thợ gốm có vị trí xứng đáng trong xã hội. Các sự tích “Nồi hầu”, “Bà chúa Sành” của Hương Canh (Vĩnh Phú) và Quả Cảm (Hà Bắc) nói lên điều đó.

Gốm Việt trong thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc

Từ đầu thế kỷ II TCN, nước ta rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Một thời kỳ lịch sử mới mở đầu: thời kỳ nhân dân ta không chịu khuất phục, luôn vùng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, thời kỳ rèn luyện cá tính Việt Nam, xây dựng tinh thần tự cường chống lại các sự đồng hóa của phương Bắc. Lực lượng sản xuất vẫn lớn lên ngay dưới sự thống trị của phong kiến nước ngoài.

Trong quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa với Trung Quốc các nước miền biển phía Nam và Ấn Độ, nhân dân ta đã tiếp thu nhiều kỹ thuật mới. Nghề rèn sắt và đúc đồng ngày càng hoàn thiện, các nghề dệt, đan lát, khảm xà cừ, thủy tinh. Nghề gốm tiếp tục phát triển trên vốn kinh nghiệm cổ truyền, có tiếp thu ảnh hưởng của Trung Hoa. Đồ gốm của giai đoạn này chủ yếu được tìm thấy trong các ngôi mộ gạch một vài khu vực có lò nung gốm và nung gạch ngói như ở Thuận Thành (Hà Bắc), Tam Thợ (Thanh Hóa).

Tháng 1 năm 1937, người ta đã phát hiện được các lò nung gốm nằm rải rác trên cánh đồng dọc hai bên đường từ thị xã Thanh Hóa đi Nông Cống, ở Tam Thọ. Ngoài một số lò gốm thời Lý-Trần, đa số là gốm thuộc thời Hán – Lục Triều (TK II – TK VI), có chỗ mang vết tích hai lò nung chồng lên nhau. Các cuộc khai quật của Viện khảo cổ năm 1969-1970 tại Bãi Định (Ninh Thuận – Hà Bắc) đã tìm thấy nhiều lò gốm được phân thành từng cụm bốn lò, giống nhau về kết cấu, khác nhau về kích thước. Những phát hiện cho thấy trong giai đoạn này đã hình thành những khu vực sản xuất gốm khá tập trung và có tính chuyên hóa hơn.

Về chất liệu, ngoài gốm đất nung có truyền thống từ trước nhưng được trang trí đơn giản hơn, đã có sản phẩm gốm được nung ở nhiệt độ cao thành sành nâu và một số sản phẩm được làm từ đất sét trắng, có tráng men màu xanh nhạt, trên thân của gốm sành xốp sẽ phát triển cao vào thời Lý-Trần.

Về sản phẩm, xuất hiện thêm loại gốm kiến trúc như gạch thường, gạch múi bưởi để xây cuốn, ngói ống hình bán viên trụ, đầu ngói ống có tráng men. Gốm minh khí khá phát triển, như mô hình nhà cửa, giếng và đồ dùng. Ngoài ra, còn các tượng động vật nhỏ như lợn, bò với kiểu nặn sơ sài.

Loại hình đồ gốm gia dụng khá phong phú: vò, bình, bát, đĩa, chén, mâm, nồi rang, chõ, đỉnh, đèn, bình hương, ống nhổ…

Về thành hình, phần lớn các sản phẩm gốm đều làm bằng bàn xoay, nhưng một số khác được làm bằng khuôn in và bằng tay sau đó chắp lại.

Ở thời kỳ này có thêm một số sản phẩm, mang phong cách gốm Hán, hoặc kết hợp hoa văn gốm Việt và hoa văn gốm Hán. Các sản phẩm tạo dáng với nhiều thể phụ thêm, các dạng sản phẩm hình ống cũng xuất hiện nhiều hơn, đặc biệt là loại gốm có nhiều tai gắn ở vai, làm thành một sản phẩm nổi bật trong giai đoạn này là “bình Hán”.

Trên mâm gốm bằng đất nung tìm thấy ở Lạch Trường (Thanh Hóa) ta thấy sự có mặt của hoa văn chuỗi hạt (hình tròn có đường tiếp tuyến), một hoa văn tiêu biểu của gốm gò Mun và nghệ thuật đồ đồng Đông Sơn. Giữa lòng mâm khay lại có 3 con cá chụm đầu, một họa tiết không phải gốc Việt.

Nhiều sản phẩm gốm Hán được cải biên theo phong cách Việt như bình con tiện có hai bên thành gắn hoa văn thao thiết (ta thường gọi là hoa văn mặt hổ phù) đời Hán, đã được cải biên thành hình gắn đầu voi, đầu gà, như các bình tìm thấy ở Hà Bắc, Thanh Hóa.

Rõ ràng theo yêu cầu của phong kiến Trung Hoa, người thợ gốm Việt Nam phải làm sản phẩm theo ý họ nhưng qua chất liệu Việt Nam thì hình dáng và phong cách sản phẩm gốm có biến đổi, nên vẫn bảo lưu và phát triển vốn nghệ thuật cổ truyền từ thời đại trước, đồng thời hấp thụ và dân tộc hóa những yếu tố vay mượn từ bên ngoài.

Thời kỳ độc lập: gốm Lý – Trần

Thế kỷ X đánh dấu một bước ngoặt lịch sử: thời kỳ phục hồi độc lập sau hơn mười thế kỷ đô hộ của phong kiến Trung Hoa, mở ra một giai đoạn phục hưng văn hóa dân tộc.

Suốt bốn thế kỷ từ nhà Lý (Thế kỷ XI-XII) sang nhà Trần (Thế kỷ XIII-XIV), đồ gốm đạt được những thành tựu mới rực rỡ, sản xuất hàng loạt gốm sành xốp và gốm sành trắng một cách thành thục, với kỹ thuật và nghệ thuật cao; sử dụng rộng rãi đất sét trắng và cao lanh trắng để làm xương và men, tạo nên những loại gốm mới, bền để sản xuất các loại đồ đựng và đồ gốm kiến trúc; Các loại men màu như men tráng ngà, men ngọc, men nâu được ổn định về mặt công nghệ, do đó có thể sản xuất hàng loạt, và đặc biệt loại men trắng cũng đã xuất hiện.

Men Lý-Trần chủ yếu vẫn là loại men tro và men đất, men đá chưa được sản xuất bao nhiêu. Các loại men này phần lớn thuộc men có độ trong: trắng dày, khi gặp lửa cao thì chảy thành giọt, gọi là ngấn lệ, một số men rạn rất đẹp do xương và men không có cùng độ co. Độ trong của men chính là độ sâu của gốm.

Màu vẽ xuất hiện lần đầu trên gốm hoa nâu Lý-Trần, mặc dầu mới được sử dụng ở dạng tô. Nhưng với men mầu trang trí, yếu tố hội họa ngày càng thâm nhập sâu hơn vào đồ gốm.

Gốm Lý-Trần đã tạo nên sự “chuyển hóa” bước đầu giữa yêu cầu sử dụng với chất liệu. Điều này rất quan trọng, nó phản ánh bước tiến bộ về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, phản ánh tư tưởng duy lý trong quá trình sáng tạo đồ gốm và ứng dụng nó vào đời sống một cách tốt đẹp nhất, phù hợp nhất.

Gốm Lý-Trần, ta có thể chia thành ba nhóm lớn: gốm gia dụng, gốm trang trí và gốm kiến trúc.

Về tạo dáng gốm gia dụng, ngoài việc thừa kế và nâng cao dáng gốm đất nung và sành nâu cổ truyền, nhiều sản phẩm được tạo dáng trên cơ sở những hình mẫu trong thiên nhiên như hoa, quả hoặc dáng của những đồ đồng xưa.

Trang trí của gốm Lý-Trần có một bước ngoặt mới. Nếu hoa văn hình học chiếm vị trí chủ yếu và duy nhất trên gốm đất nung và sành nâu thì trên gốm Lý-Trần lại chỉ ở vị trí phụ. Những họa tiết chính ở đây là hoa, lá, chim, voi, hổ, người. Hoa văn trang trí với cách miêu tả giản dị, mộc mạc, rất gần gũi thiên nhiên và con người Việt Nam.

Một điều cần chú ý là trong việc xây dựng hình tượng các hoa văn trang trí, nét chìm được sử dụng làm đường chu vi. Nhưng nét chìm ở gốm Lý-Trần không còn là nét chìm có hai thành giống nhau để cản sáng như trên gốm đất nung, mà đã được ấn “bè” ra, một bên rõ cạnh, một bên biến dần vào sản phẩm, làm chỗ chảy dồn men, tạo nên độ đậm nhạt cho họa tiết như trên gốm men ngọc, hoặc làm giới hạn để tô nâu.

Đặc biệt lò nung, đã có một bước tiến lớn về kỹ thuật. Người ta đã biết sử dụng các loài lò cóc, lò nằm, có thể cả lò rồng, để nâng nhiệt độ nung cho sản phẩm lên cao từ 1200°C đến 1280°C. Việc sử dụng bao nung, mà ngày nay ta còn tìm được ở một cái giếng cổ tại Tức Mạc (Hà Nam, Bắc Ninh), ở vùng phủ Thiên Trường của nhà Trần, cho thấy người thời đó đã đạt được trình độ sản xuất gốm cao cấp, nhất là gốm men ngọc. Kỹ thuật nung chồng bằng con kê (lòng dong) được sử dụng rộng rãi trong các loại sản phẩm như bát, đĩa. Ngoài những lò gốm gắn liền với làng xã nông nghiệp, đã xuất hiện những cụm lò nung ở Thanh Hóa, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, chứng tỏ sự hình thành những vùng gốm có tính tập trung và chuyên nghiệp hơn.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, nghệ thuật gốm Việt Nam đã bước vào giai đoạn tổng hợp được ba yếu tố cơ bản tạo nên vẻ đẹp của đồ gốm: là hình dáng, hoa văn trang trí, men màu. Những yếu tố trên, cộng với sự phát triển của kỹ thuật và trình độ thẩm mỹ cao, đã khiến cho người thời Lý-Trần sáng tạo nên ba loại gốm nổi tiếng: gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc.

Gốm Việt thời kỳ nhà Lê

Với chiến thắng chống quân Minh năm 1428, nhà Lê ra đời, mở ra một giai đoạn phát triển cao của chế độ phong kiến tập quyền. Về mặt nghệ thuật, giai cấp thống trị có xu hướng đưa mọi hoạt động vào con đường chính thống, với những quy tắc chặt chẽ theo tinh thần của Nho giáo. Nhưng chỉ sau gần một thế kỷ phát triển cực thịnh, nhà nước quân chủ chuyên chế dần dần đi vào cuộc khủng hoảng chu kỳ kéo dài suốt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Tình hình trên, cộng với sự mở rộng thị trường trong nước và việc giao lưu buôn bán với nước ngoài, đã có tác động lớn đến các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có nghề gốm.

Trước hết là sự hình thành các trung tâm sản xuất gốm tính chất chuyên môn hóa đã nổi tiếng:

Bát Tràng (Hà Nội) sản xuất gốm sành xốp và sành trắng;

Thổ Hà (Hà Bắc) làm gốm sành nâu, như chum, vại;

Phù Lãng (Hà Bắc) làm gốm sành nâu có phủ men da lươn;

Hương Cang (Vĩnh Phú) làm chum, vò vại, chĩnh bằng sành nâu;

Đình Trung, Hiển Lễ (Vĩnh Phú) làm chum, vò vại, chĩnh bằng đất nung;

Vân Đình (Hà Sơn Bình) làm ấm đất nồi đất;

Làng Cậy (Hải Hưng) làm gốm sành xốp và sành trắng hoa lam…

Ở miền Trung, có nhiều cơ sở làm gốm nổi tiếng như Lò Chum ở Hàm Rồng (Thanh Hóa); Mỹ Thiện (Quảng Ngãi) làm nồi bằng đất nung; Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam) làm bát đĩa, nồi niêu; ở Bình Định có một số nơi làm bát đĩa và đồ gốm tráng men.

Người ta thường nhắc đến ba nơi làm gốm nổi tiếng từ đó đến nay: Bát Tràng, Thổ Hà và Phù Lãng. Truyền thuyết xưa nói rằng ba làng này do ba người có nghề gốm giỏi đã chọn ngày tốt lập dàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng.

Làng Bát Tràng chuyên làm các hàng sắc trắng (gốm sành trắng); Làng Thổ Hà chuyên làm các loại sắc đỏ (gốm sành nâu); Làng Phù Lãng chuyên làm các loại sắc vàng thẫm (gốm sành nâu có men da lươn).

Các làng gốm lớn đều được dựng ở vùng ven sông để thuận tiện cho việc vận chuyển, sử dụng nguyên vật liệu (đất, than, củi) và thuận tiện cho việc chuyên chở thành phẩm đi các địa phương. Ngoài ra tìm thấy rất nhiều mảnh gốm vỡ trên khu vực thương cảng cổ Vân Đồng.

Con đường gốm: bắt đầu có dấu hiệu xuất khẩu gốm Việt Nam ra nước ngoài

Nhiều nước châu Á, châu Âu, đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã nhập khẩu gốm Việt Nam với số lượng lớn. Các sản phẩm đó hiện còn đến ngày nay là những hiện vật quý trong các bảo tàng nước họ. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra những kết luận mới về con đường biển thông thương giữa các nước từ Nhật Bản, Việt Nam đến các nước Đông Nam Á, gọi con đường này là “con đường gốm”, thay cho tên “con đường tơ lụa và trầm hương” thường được dùng trước đây.

Nhiều sản phẩm gốm được ghi, bằng cách khắc hoặc viết bằng màu men; ngày tháng, nơi sản xuất và người sáng tạo ra nó. Ngày nay, ta biết được tên ba nghệ nhân: Đặng Huyền Thông, Đỗ Xuân Vi, Nguyễn Phong Lai. Trong nhiều trường hợp còn cả tên người đặt hàng và lý do làm sản phẩm đó.

Gốm giao chỉ & hồng An Nam

Theo cuốn Đồ gốm Nhật Bản (La ceramique Japonaise) của Oneda Tokomosouke (Nhà xuất bản La Roux, Paris năm 1873) thì trong thời gian 1596-1873, ở Nhật Bản có nhiều thợ gốm giỏi bắt chước làm theo đồ gốm cổ Việt Nam, mà họ gọi là gốm Giao Chỉ (Kotchi).

Ta có thể kể ra những loại gốm tiêu biểu cho kỹ thuật và nghệ thuật gốm Việt Nam ở giai đoạn này là gốm hoa lam với các loại bát, đĩa chân cao vẽ hoa màu lam phóng khoáng và chất liệu sành trắng khá thành thục. Loại gốm chạm đắp nổi rất tinh tế, như chân đèn, lư hương, kết hợp với vẽ hoa lam, được làm bằng chất liệu sành trắng hoặc phủ men nhiều màu rất đa dạng và hấp dẫn. Các loại chum, vò, vại, lư hương bằng sành nâu hoặc sành nâu phủ men da lươn có trình độ nghệ thuật tinh tế và có bản sắc riêng. Ngoài ra còn có loại gốm vẽ men mà người Nhật Bản xưa kia trong Trà đạo rất ưa chuộng, gọi là “Hồng An Nam”.

Về mặt kỹ thuật, các loại lò rồng cỡ lớn đã được sử dụng khá rộng rãi, nhiệt độ và chế độ nung, điều khiển lửa tiến bộ và chủ động. Loại men tro trấu, tro cây được dùng nhiều. Kỹ thuật vẽ hoa đã đạt tới độ thành thục.

Nghề gốm xuống dốc dần từ thời Nguyễn Gia Long

Nghề gốm xuống dốc dần từ thời Nguyễn Gia Long. Những lò gốm sành trắng nổi tiếng như Bát Tràng phải chuyển qua sản xuất đồ dành xốp hoặc đồ gốm xương đất đỏ, áo đất trắng, phủ men tro không thấu hết thân ngoài hiện vật.

Ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến đồ sứ men lam Huế, đôi khi trên sản phẩm có có chữ “nội phủ”. Thực ra, các hiện vật ấy đều được nhập từ Trung Quốc theo đơn đặt hàng của triều đình Huế. Cuối thế kỷ XIX, ở Móng Cái (Quảng Ninh) xuất hiện thêm những cơ sở làm đồ sành nâu và đồ sành trắng, nhưng nguyên liệu phần lớn được chở từ Trung Quốc sang và do người Hoa làm.

Năm 1907, Trường Mỹ nghệ đồ gốm và đúc đồng thành lập ở tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), và ở đây đã phát triển một loại gốm men lửa trung, thường được gọi là “gốm Biên Hòa”, với hoa văn khá chi tiết và màu sắc phong phú. Loại gốm này được phát triển sang các vùng Sông Bé và nhiều tỉnh phía Nam. Gốm Lái Thiêu (Sông Bé) nổi tiếng với bát sành xốp “con gà”, được bán rộng rãi từ Nam chí Bắc.

Ở miền Bắc đầu thế kỷ XX, một vài cơ sở đã nhập đôi ba thiết bị làm gốm của nước ngoài và nghiên cứu sản xuất đồ sứ, nhưng kết quả không đáng kể.

Từ 1954 đến nay

Có thể nói gốm sứ Việt Nam bước vào sự chuyển mình mạnh mẽ từ năm 1954, khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc. Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc khôi phục các cơ sở thủ công truyền thống, như các vùng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Phù Lãng…, và tiến hành xây dựng nhiều nhà máy và xí nghiệp sản xuất gốm có chất lượng và sản lượng cao.

Nổi bật nhà máy sứ Hải Dương (Hải Hưng), cơ sở sản xuất sứ đầu tiên của cả nước áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại qua mọi khâu nguyên liệu, thành hình, trang trí, nung… Nhà máy trang trí men cho hàng gia dụng, sản xuất các loại sứ công nghiệp cao cấp, hàng năm đạt sản lượng gần 10 triệu sản phẩm. Tiếp đó là nhà máy sứ Lao Cai (Hoàng Liên Sơn) có công suất nhỏ hơn.

Từ năm 1965, nhiều tỉnh thành đã xây dựng những xí nghiệp sành trắng có sản lượng 5 triệu cái trong một năm như sứ Đường Vòng (Hải Hưng), Sông Hương (Bắc Giang), Ninh Bình, Thanh Hà (Vĩnh Phú)…, cùng với nhiều hợp tác xã gốm lớn như Hợp Thành (Hà Nội), Việt Hưng (Thái Bình), Đông Thành, Ánh Hồng (Quảng Ninh)…

Tính đến 1975, mỗi năm các xí nghiệp gốm ở miền Bắc đã sản xuất khoảng 100 triệu gốm gia dụng, 3,5 triệu sứ điện, 4,3 triệu sành gia dụng và 1,5 triệu gốm mỹ nghệ xuất khẩu.

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam năm 1975, đồ gốm của cả hai miền Bắc Nam đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp mới. Tính đến năm 1980, sản lượng hàng năm đã đạt 143 triệu sản phẩm gốm gia dụng, 5,6 triệu sành gia dụng và 2 triệu gốm mỹ nghệ xuất khẩu. Đó là chưa kể tới các cơ sở sản xuất nhỏ ở địa phương và gốm đất nung.

Có thể nhận xét khái quát về những đặc điểm phát triển của gốm đất Việt giai đoạn này:

  • Sự hình thành loại chất liệu sứ với các kỹ thuật sản xuất và trang trí hiện đại. Sản phẩm sứ của nhà máy sứ Hải Dương đã được dùng rộng rãi trong nước và xuất khẩu đi nhiều nước, như Liên Xô, Cu Ba, Ba Lan, Mông Cổ…
  • Ở miền Bắc, các xí nghiệp và hợp tác xã sản xuất sành trắng được xây dựng ở hầu khắp các tỉnh thành, phát huy thế mạnh của vùng mình về truyền thống và nguyên liệu. Các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Nam Bộ, phát triển loại sành xốp lửa trung và đã tạo được một vùng gốm có phong cách riêng. Các cơ sở sành nâu, đất nung cũng được chú ý ở các địa phương. Chưa bao giờ cả 5 loại chất liệu gốm lại được sản xuất với số lượng lớn và phong phú như hiện nay.
  • Ngành gốm ngày càng được phát triển bởi các cán bộ và công nhân được đào tạo chính quy. Trường đại học Bách khoa Hà nội đầu những năm 60 đã cho ra trường các kỹ sư hóa silicat chuyên về ngành gốm, làm cho đội ngũ kỹ thuật gốm ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên môn.
  • Về mặt nghệ thuật, từ năm 1959 khoa gốm trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội đã mở khóa trung cấp đầu tiên, và từ 1965 đã đào tạo ở trình độ đại học. Có thể nói, lần đầu tiên ngành gốm Việt Nam có hàng trăm họa sỹ chuyên ngành đóng góp sáng tác của mình cho sản phẩm gốm. Từ những năm 1960, lò gốm của trường Mỹ thuật Công nghiệp đã tìm tòi, khôi phục các loại men ngọc, men máu bò cổ truyền, còn tìm thêm ra nhiều loại men mới từ các khoáng chất. Nhà trường đã trở thành một trung tâm đào tạo, một trung tâm nghiên cứu nghệ thuật gốm, cung cấp mẫu cho nhiều cơ sở gốm ở phía Bắc.

Trên đây là những vấn đề chung nhất của nghề gốm và các mốc phát triển của gốm Việt Nam. Những phần sau sẽ đi sâu vào các loại gốm nổi tiếng và những đặc trưng nghệ thuật của từng loại.

Hk tốt

15 tháng 10 2018

Thời kì nào v?

16 tháng 3 2019

Nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại đã gây ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực điêu khắc và kiến ​​trúc. Ở phương Tây, nghệ thuật của Đế chế La Mã chủ yếu bắt nguồn từ hình mẫu của nghệ thuật Hy Lạp. Ở phương Đông, công cuộc chinh phục của Alexander Đại đế bắt đầu nhiều thế kỷ giao lưu trao đổi lẫn nhau giữa các nền văn hóa Hy Lạp, Trung Á và Ấn Độ, kết quả là ở nghệ thuật Hy Lạp -Phật giáo, với ảnh hưởng xa đến Nhật Bản. Sau thời kỳ Phục hưng ở châu Âu, thẩm mỹ nhân văn và các tiêu chuẩn kỹ thuật cao từ nghệ thuật Hy Lạp đã là nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ châu Âu. Cũng vào thế kỷ 19, các truyền thống cổ điển bắt nguồn từ Hy Lạp thống trị nghệ thuật của thế giới phương Tây.

Nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại thường được chia theo phong cách thành bốn giai đoạn: hình học, Cổ xưa, cổ điển, và Hy Lạp hóa. Niên đại của phong cách hình học thường được đặt vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên, mặc dù trong thực tế ít biết về nghệ thuật ở Hy Lạp trong giai đoạn 200 năm trước đó(theo truyền thống được gọi là kỉ nguyên Hy Lạp tăm tối), thời kì thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đã chứng kiến ​​sự phát triển chậm của phong cách cổ xưa như được minh chứng bằng kiểu tranh vẽ men đen trên đồ gốm. Sự khởi đầu của các cuộc chiến tranh với Ba Tư (từ năm 480 trước Công nguyên đến năm 448 trước Công nguyên) thường được coi là sự phân chia giữa giai đoạn cổ xưa và các thời kỳ cổ điển, và Triều đại của Alexandros Đại Đế (từ năm 336 TCN đến năm 323 TCN) được coi là thời điểm chia tách thời kì cổ điển khỏi thời kì Hy Lạp hóa.

Trong thực tế, không có quá trình chuyển đổi mạnh từ một thời kì này tới một thời kì khác. Các hình thức nghệ thuật phát triển với tốc độ khác nhau trong các phần khác nhau của thế giới Hy Lạp, và như trong bất kỳ thời đại, một số nghệ sĩ làm việc với phong cách sáng tạo hơn hơn những người khác. Truyền thống địa phương đặc thù, bảo thủ trong đặc điểm, và các điều kiện của văn hóa địa phương, cho phép các nhà sử học xác định được nguồn gốc của bất cứ sự thay đổi nghệ thuật nào.

 1 . Công cụ sản xuất được cải tiến như thế nào  Em có nhận xét gì về trình độ sản xuất công cụ của người thời đó ? 2 . Thuật luyện kim đã được phát minh như thế nào ? Theo em , phát minh này có ý nghĩa như thế nào ?Thời đó người ta đã bt làm những việc gì ( mk suy nghĩ hihi)3. Nghề nông trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện thế nào ? Theo em hiểu , vì sao từ đây con...
Đọc tiếp

 1 . Công cụ sản xuất được cải tiến như thế nào  

Em có nhận xét gì về trình độ sản xuất công cụ của người thời đó ? 

2 . Thuật luyện kim đã được phát minh như thế nào ?

 Theo em , phát minh này có ý nghĩa như thế nào ?

Thời đó người ta đã bt làm những việc gì ( mk suy nghĩ hihi)

3. Nghề nông trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện thế nào ?

 Theo em hiểu , vì sao từ đây con người có thế định cư lâu dài ở đồng bằng ven sông lớn ?

4. Hãy điểm lại những nét mới về công cụ sản xuất và ý nghĩa của việc phát minh ra thuật luyện kim 

5. Theo em , Sự ra đời của nghề nông trồng lúa nước có tầm quan trọng như thế nào .

6 . Hãy trình bày sự đổi thay trong đời sống kinh tế của con người thời kỳ này so với người thời hòa bình bắc sơn 

7. Hãy so sánh rìu đá hoa lộc , rìu đá phùng nguyên và hoa văn trên gốm hoa lộc ? và cho biết nhận xét của em về nó 

 Giúp mk với cô  giáo mk bắt làm vì hội giảng  . Ai nhanh mk tik cho mk ko còn thời gian đâu nếu ai nghĩ được câu gì thì cứ viết vào cho mik và viết luôn câu trả lời nữa nha 

 SGK Lịch Sử 6 ( T 30 , 31 , 32 ) . MK cảm ơn các bạn trước

2
23 tháng 10 2017

1. Công cụ sản xuất được cải tiến : gồm :

- Rìu đá có vai, lưỡi đục , bàn mài đá và mảnh cưa đá

- Công cụ bằng xương , bằng sừng

- Đồ gốm

- Chì lưới bằng đất nung

- Xuất hiện đồ trang sức

Nhận xét :

- Loại hình công cụ (nhiều hình dáng và kích cỡ).
- Kĩ thuật mài (mài rộng, nhẵn và sắc).
- Kĩ thuật làm đồ gốm (tinh xảo, in hoa văn hình chữ s nối nhau, cân xứng, hoặc in những con dấu nổi liền nhau).
- Hai phát minh lớn : thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước.
2.

-Nhờ sự phát triển của nghề làm đồ gốm, người Phùng Nguyên, Hoa Lộc đã phát minh ra thuật luyện kim.
-Kim loại được dùng đầu tiên là đồng.
-Ở Phùng Nguyên, Hoa Lộc và các di chỉ khác cùng thời trên khắp nước ta, người ta đã phát hiện được nhiều cục đồng, xỉ đồng, -dây đồng, dùi đồng. Thuật luyện kim đã được phát minh.

Việc phát minh ra thuật luyện kim có ý nghĩa quan trọng :
- Tạo ra nguyên liệu làm công cụ, vật dụng mới khá cứng, có thể thay thế đồ đá.
- Đúc được nhiều loại hình công cụ, dụng cụ khác nhau.
- Công cụ sắc bén hơn, đạt năng suất lao động cao hơn nhiều so với công cụ đá.
—> Việc phát minh ra thuật luyện kim đã làm thay đổi sức sản xuất, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, đưa con người ra khỏi thời nguyên thủy, bước sang thời đại văn minh

3.

Nghề nông trồng lúa nước ra đời ở đồng bằng ven sông, suối,biển,thung lũng.

Cây lúa trở thành cây lương thực chính ở nước ta

=> Cuộc sống con người ổn định hơn,định cư lâu dài,cây lương thực chính

Từ đây con người có thể định cư lâu dài ở đồng bằng ven các con sông lớn vì :
Việc phát minh ra thuật luyện kim và phát minh nghề nông trồng lúa nước đã tạo điều kiện :
- Lúa gạo trở thành lương thực chính của người Việt Nam.
- Con người chủ động hơn trong trồng trọt và tích lũy lương thực.
- Từ đó con người có thể yên tâm định cư lâu dài, xây dựng xóm làng (vùng đồng bằng ở các con sông lớn như sóng Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai) và tăng thêm các hoạt động tinh thần, giải trí.

4.

- Những nét mới về công cụ sản xuất:
+ Loại hình công cụ (nhiều hình dáng và kích cỡ).
+ Kĩ thuật mài (mài rộng, nhẵn và sắc).
+ Kĩ thuật làm đồ gốm (tinh xảo, in hoa văn hình chữ s nối nhau, cân xứng, hoặc in những con dấu nổi liền nhau).
+ Đa dạng nguyên liệu làm công cụ : đá. gồ, sừng, xương và đặc biệt là đồng.
- Ý nghĩa của việc phát minh ra thuật luyện kim :
Việc phát minhra thuật luyện kim có ý nghĩa hết sức to lớn không chỉ đối với người thời đó mà cả đối với thời đại sau này. Nhờ thuật luyện kim mà có được công cụ khá cứng , có thể thay thế đồ đá. Đúc được nhiều loại hình công cụ, dụng cụ khác nhau. Hình thức công cụ đẹp hơn, chất liệu bền hơn, mở ra con đường tìm nguyên liệu mới.

5.

- Lúa gạo trở thành lương thực chính của người Việt Nam.
- Con người chủ động hơn trong trồng trọt và tích lũy lương thực.
- Từ đó con người có thể yên tâm định cư lâu dài, xây dựng xóm làng (vùng đồng bằng ở các con sông lớn như sóng Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai) và tăng thêm các hoạt động tinh thần, giải trí.

6.

Đạt được trình độ cao trong sản xuất, thể hiện ở:
- Công cụ sản xuất được cải tiến.
- Hai phát minh lớn : thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước. Con người yên tâm định cư lâu dài, xây dựng xóm làng.

7.

Rìu đá hoa lộc

Được in hoa văn các loại : có hình chữ S nối nhau , những đường cuộn theo hình tròn hay hình chữ nhật,những đường chấm nhỏ li ti...

Mình chỉ làm được từng đó thôi ^^

12 tháng 12 2017

1. Công cụ sản xuất được cải tiến như thế nào?

  • Công cụ được mài sẵn toàn bộ, có hình dáng cân xứng.
  • Được tìm thấy ở Phùng Nguyên ( Phú Thọ), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Lung Leng ( Lon Tum) cách đây khoảng 4000 – 3500 năm.
  • Làm gốm có hoa văn trang trí đẹp.

2. Thuật luyện kim đã được phát minh như thế nào?

  • Nhờ sự phát triển của nghề làm gốm, người Phùng Nguyên – Hoa Lộc đã phát minh ra thuật luyện kim.
  • Kim loại được dùng đầu tiên là đồng.
  • Nhiều cục đồng, xỉ đồng, dây đồng được tìm thấy ở Phùng Nguyên – Hoa Lộc.

=> Việc phát minh ra thuật luyện kim có ý nghĩa rất lớn. Con người đã tìm được nguyên liệu chế tạo cộng cụ vừa tốt hơn, cứng hơn, vừa có thể làm được những loại công cụ mà nguyên liệu đá hoặc đất sét không đáp ứng được. Đồng thời mở ra một thời đại mới trong lĩnh vực chế tạo công cụ của loài người.

3. Nghề trồng lúa nước ra đời ở đâu và trong điều kiện nào?

  • Di chỉ Hoa Lộc – Phùng Nguyên đã tìm thấy dấu tích của nghề nông trồng lúa ở nước ta.
  • Điều kiện: Công cụ sản xuất được cải tiến, Ở vùng đồng bằng, ven sông lớn đất đai màu mỡ.
  • Cây lúa trở thành cây lương thực chính.
14 tháng 11 2018

2,Sự ra đời của nghề nông trồng lúa nước có tầm quan trọng:

- Lúa gạo trở thành lương thực chính của Việt Nam.

- Con người chủ động hơn trong trồng trọt và tích lũy lương thực.

- Từ đó con người có thể yên tâm định cư lâu dài, xây dựng xóm làng ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Đồng Nai,...) và tăng thêm các hoạt động tinh thần, giải trí.

3,Bảng sự thay đổi trong đời sống kinh tế của con người thời kì người Phùng Nguyên - Hoa Lộc so với người thời Hòa Bình - Bắc Sơn

Nội dung

Người Hòa Bình - Bắc Sơn

Người Phùng Nguyên - Hoa Lộc

Công cụ lao động

- Công cụ đá: rìu, bôn, chày. Biết mài đá.

- Dùng tre, gỗ, xương, sừng làm công cụ và đồ dùng cần thiết.

- Có hình dáng cân xứng hơn, nhiều hình dáng và kích cỡ.

- Công cụ được mài rộng, nhẵn và sắc hơn.

- Nguyên liệu làm công cụ đa dạng như đá, gỗ, sừng, xương và đặc biệt là đồng.

Ngành nghề sinh sống

- Trồng trọt.

- Chăn nuôi.

- Trồng trọt: đặc biệt nghề nông trồng lúa nước ra đời.

- Chăn nuôi.

- Đánh cá.

Nghề thủ công

- Làm đồ gốm.

- Làm đồ trang sức bằng vỏ ốc, vòng đá, chuỗi hạt bằng đất nung,…

- Đồ gốm có nhiều hoa văn đẹp, tinh xảo hơn, in hoa văn hình chữ S nối nhau, cân xứng, hoặc in những con dấu nổi liền nhau,...

- Làm đồ trang sức.

Nơi ở

- Chủ yếu ở các hang động, mái đá, họ biết làm các túp lều lợp bằng cỏ hoặc lá cây.

- Định cư lâu dài, xây dựng xóm làng ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Cả,…

14 tháng 11 2018

thanhs very much !

29 tháng 8 2016

Tóm tắt nội dung bài Thánh Gióng

Tháng Gióng ra đời kì lạ như thế nào?

Thánh Gióng lớn lên kì lạ như thế nào?

Thánh Gióng đánh giặc xong thì làm gì?

Truyện có ý nghĩa gì?

Tóm tắt:Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Đã lên ba tuổi, cậu chẳng biết nói cười.Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Sau khi ăn hết "bảy nong cơm, ba nong cà" do bà con gom góp mang đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm lập hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.
31 tháng 8 2016
1. Truyền thuyết Thánh Gióng có nhiều nhân vật (bố mẹ, dân làng, vua, sứ giả...) nhưng nhân vật chính là Thánh Gióng. Nhân vật này được xây dựng bằng rất nhiều chi tiết tưởng tượng có tính chất kì ảo: sinh ra khác thường (bà mẹ chỉ ướm vào vết chân lạ mà thụ thai); thụ thai đến mười hai tháng; ba tuổi mà chẳng biết đi đứng, nói cười; khi giặc đến thì bỗng dưng biết nói và lớn nhanh như thổi, sức khoẻ vô địch; đánh tan giặc lại bay về trời.2. Các chi tiết đặc biệt trong truyện thể hiện rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất. tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói đòi đi đánh giặc. Chi tiết này chứng tỏ nhân dân ta luôn có ý thức chống giặc ngoại xâm. Khi có giặc, từ người già đến trẻ con đều sẵn sàng đánh giặc cứu nước. Đây là một chi tiết thần kì: chưa hề biết nói, biết cười, ngay lần nói đầu tiên, chú bé đã nói rất rõ ràng về một việc hệ trọng của đất nước. Thứ hai, Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh giặc. Gióng không đòi đồ chơi như những đứa trẻ khác mà đòi vũ khí, những vật dụng để đánh giặc. Đây cũng là một chi tiết thần kì. Gióng sinh ra đã là một anh hùng và điều quan tâm duy nhất của vị anh hùng đó là đánh giặc. Thứ ba, bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé. Gióng là đứa con của nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, dạy dỗ. Sức mạnh của Gióng là sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của tinh thần đồng sức, đồng lòng. Thứ tư, Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ. Đây cũng là chi tiết thể hiện sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của dân tộc. Khi hoà bình là những người lao động rất bình thường, nhưng khi chiến tranh xảy ra, sự đoàn kết đã hoá thành sức mạnh bão tố, phi thường, vùi chôn quân giặc. Thứ năm, Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc. Gậy sắt là vũ khí của người anh hùng. Nhưng khi cần thì cả cỏ cây cũng biến thành vũ khí.. Thứ sáu, Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng lên trời. Gióng cũng như nhân dân hay chính là nhân dân, đánh giặc vì lòng yêu nước, căm thù giặc, sẵn sàng hi sinh thân mình mà không đòi hỏi được khen thưởng hay ban cho danh lợi.3. Ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng: Thánh Gióng là hình tượng tiêu biểu của người anh hùng chống giặc ngoại xâm.Gióng được sinh ra từ nhân dân, do nhân dân nuôi dưỡng. Gióng đã chiến đấu bằng tất cả tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của nhân dân. Sức mạnh của Gióng không chỉ tượng trưng cho sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân, đó còn là sức mạnh của sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên, bằng cả vũ khí thô sơ và hiện đại.Từ truyền thống đánh giặc cứu nước, nhân dân ta đã thần thánh hoá những vị anh hùng trở thành những nhân vật huyền thoại, tượng trưng cho lòng yêu nước, sức mạnh quật khởi của dân tộc.4*. Sự thật lịch sử được phản ánh trong truyện Thánh Gióng là thời đại Hùng Vương. Trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã khá phát triển, người dân Văn Lang đã tạo nên cả một nền văn minh rực rỡ, đồng thời cũng luôn luôn phải chống giặc ngoại xâm phương Bắc để bảo vệ đất nước. Bên cạnh việc cấy trồng lúa nước, nhân dân thời bấy giờ đã có ý thức chế tạo vũ khí chống giặc từ chất liệu kim loại (bằng sắt). Truyền thuyết cũng phản ánh: trong công cuộc chống ngoại xâm, từ xa xưa, chúng ta đã có truyền thống huy động sức mạnh của cả cộng đồng, dùng tất cả các phương tiện để đánh giặc.

III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Tóm tắt: Vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, có tiếng là phúc đức nhưng mãi không có con. Một hôm bà vợ ra đồng ướm chân vào một vết chân to, về thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu con trai khôi ngô. Đã lên ba tuổi, cậu chẳng biết nói cười.Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta, cậu bé bỗng cất tiếng nói xin được đi đánh giặc. Cậu lớn bổng lên. Sau khi ăn hết "bảy nong cơm, ba nong cà" do bà con gom góp mang đến, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra diệt giặc. Roi sắt gãy, Gióng bèn nhổ cả những bụi tre bên đường đánh tan quân giặc.Giặc tan, Gióng một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi rồi bay thẳng lên trời. Nhân dân lập đền thờ, hàng năm lập hội làng để tưởng nhớ. Các ao hồ, những bụi tre đằng ngà vàng óng đều là những dấu tích về trận đánh của Gióng năm xưa.2. Lời kể: Khi kể cần chú ý: câu chuyện hầu hết được tái hiện lại qua lời người kể chuyện. Tuy nhiên, lời người kể qua các giai đoạn, các tình tiết cũng có giọng điệu khác nhau.- Đoạn mở đầu kể chậm, rõ (lời dẫn chuyện).- Đoạn tiếp theo (từ "Bấy giờ có giặc Ân" đến "những vật chú bé dặn"): giọng kể nhanh thể hiện tình hình đất nước nguy cấp.- Đoạn thứ ba ("Càng lạ hơn nữa" đến "mong chú giết giặc, cứu nước"): kể bằng giọng ngạc nhiên, về việc chú bé lớn nhanh kì lạ.- Đoạn kể Thánh Gióng đánh giặc, sau đó bay thẳng lên trời: giọng kể nhanh, thể hiện niềm cảm phục.- Đoạn cuối kể bằng lời dẫn chuyện, giọng trầm (chú ý ngữ điệu lặp cấu trúc: "Người ta kể rằng" và "Người ta còn nói" thể hiện niềm tự hào).3. Nhân vật Thánh Gióng gắn với nhiều hình ảnh đẹp và để lại nhiều ấn tượng. Trong đó có lẽ hình ảnh Gióng “bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ…” để đòi đi đánh giặc và hình ảnh Gióng oai hùng khi xông trận có thể xem là những hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất của nhân vật này.4. Hội thi thể thao của các nhà trường hiện nay sở dĩ được mang tên là Hội khoẻ Phù Đổng là vì những người tổ chức mong muốn thế hệ trẻ hôm nay phát huy được sức mạnh và tinh thần của Thánh Gióng năm xưa. like cho mình đi 
24 tháng 6 2018

Truyền thuyết "Sự tích Hồ Gươm" ra đời vào thời điểm lịch sử nào?

1.Trước khi quân Minh xâm lược nước ta (1407).
2.Trong thời kỳ kháng chiến chống giặc Minh (1407-1427).
3.Sau chiến thắng chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn.
4.Sau khi Lê Lợi dời đô từ Tây Đô về kinh thành Thăng Long.

k mình nha các bạn!^_^

24 tháng 6 2018

năm 1886 , thế kỉ 15 , thời Lê Mạt

mn giải câu hỏi bài thánh gióng giúp mik nhé, mik cảm ơn mn rất nhiều 1. Nêu thời gian, địa điểm, hoàn cảnh diển ra các sự việc trong câu chuyện. 2. Thánh Gióng đã ra đời một cách kì lạ như thế nào ?3. Chỉ ra ý nghĩa của các chi tiết sau:    a. Câu nói của chú bé: " Ông về tâu với vua, đức cho ta một con ngựa sắt, làm cho ta một bộ giấp bằng sắt và rèn cho ta một cái roi sắt, ta nguyện phá tan lũ giặc này.".b. Bà...
Đọc tiếp

mn giải câu hỏi bài thánh gióng giúp mik nhé, mik cảm ơn mn rất nhiều 

1. Nêu thời gian, địa điểm, hoàn cảnh diển ra các sự việc trong câu chuyện. 

2. Thánh Gióng đã ra đời một cách kì lạ như thế nào ?

3. Chỉ ra ý nghĩa của các chi tiết sau:

    a. Câu nói của chú bé: " Ông về tâu với vua, đức cho ta một con ngựa sắt, làm cho ta một bộ giấp bằng sắt và rèn cho ta một cái roi sắt, ta nguyện phá tan lũ giặc này.".

b. Bà con hàng xóm vui lòng gom góp gạo thóc để nuôi chú bé.

c. Chú bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt.

d. Ngựa sắt phun ra lửa, roi sắt quật giặc chết như ngả rạ và những con cụm tre cạnh đường quật giặc tan vỡ.

e. tráng sĩ đánh xong, cởi giáp sắt bỏ lại và bay thẳng lên trời.

4. Chiến công phi thường mà Thánh Gióng đã làm nên là gì? Em hãy nêu ý nghĩa của mình về tượng Thánh Gióng.

5. Theo em, chủ đề của truyện Thánh Gióng là gì ?

6. Lời kể nào trong truyện Thánh Gióng hàm ý rằng câu chuyện đã thực sự xảy ra trong quá khứ? Nhận xét về ý nghĩa của lời kể đó.

7. Viết kết nối với đọc 

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) về một hình ảnh hay hành động của Thánh Gióng đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc nhất.

các bn giải giúp mik nhé, mik cảm ơn rất nhiều 

0