K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Giống : 
Ca dao tục ngữ đều là những câu nói do người đời lưu truyền lại ,tán tụng trong nhân gian .Là bài học,lời dạy ,kinh nghiệm sống ,kinh nghiệm tìm hiểu cachiện tượng thiên nhiên thời tiếtkhi hậu mùa màng 
Khác : 
Ca dao thì có vần có điệu ,rườm rà hơn ,trữ tình hơn 
Tục nmgữ thì không nhất thiết phải có vần có điệu mà tục ngữ ngắn gọn,xúc tích và không có tính rườm rà hay mang tính chất kể nể như ca dao .

Giống :
Ca dao và tục ngữ đều là những câu nói do người đời lưu truyền lại ,tán tụng trong nhân gian .Là bài học,lời dạy ,kinh nghiệm sống ,kinh nghiệm tìm hiểu cac hiện tượng thiên nhiên thời tiết khi hậu mùa màng
Khác :
Ca dao thì có vần có điệu ,rườm rà hơn ,trữ tình hơn
Tục ngữ thì không nhất thiết phải có vần có điệu mà tục ngữ ngắn gọn,xúc tích và không có tính rườm rà hay mang tính chất kể nể như ca dao

24 tháng 7 2023

Ca dao, tục ngữ và thành ngữ là những hình thức diễn đạt đạt truyền thống trong văn hóa dân gian. Dưới đây là sự giống nhau và khác nhau giữa chúng:

Giống nhau:
1. Cả ba đều là hình thức diễn đạt đạt được hệ thống truyền thông của dân gian, được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Cả ba đều mang tính chất ngắn gọn, dễ nhớ và dễ truyền bá.
3. Cả ba đều chứa đựng những tâm lý, quan điểm, kinh nghiệm sống của dân gian.

Khác nhau:
1. Ca dao là thể thơ rút gọn, thường có nhịp điệu và thể hiện qua các câu chữ rút gọn, thường là 4 chữ, 6 chữ hoặc 8 chữ. Tục ngữ và thành ngữ không có yêu cầu về dạng thức.
2. Ca dao thường được dùng để diễn đạt những tình cảm, suy nghĩ, trạng thái tâm lý của con người. Tục ngữ và thành ngữ thường diễn đạt các quy tắc, quan điểm, lời khuyên hoặc mô tả sự thật trong cuộc sống.
3. Ca dao thường có nguồn gốc từ các bài hát dân ca, thường được truyền bá qua các bài hát. Tục ngữ và thành ngữ thông thường được truyền bá qua các câu chuyện, câu chuyện cười hoặc qua lời nói của người lớn.
4. Ca dao thường mang tính chất tổng quát, chỉ quan tâm đến một vấn đề, một sự việc cụ thể. Tục ngữ và thành ngữ thông thường mang tính cụ thể hơn, áp dụng vào những vấn đề, sự việc cụ thể trong cuộc sống hàng ngày.

25 tháng 7 2023

Sự giống nhau của ca dao và tục ngữ, thành ngữ:

+ đều không rõ tác giả, được truyền đạt đến thế hệ sau qua dân gian.

+ đều trình bày ngắn gọn, súc tích, thường bao gồm 1 câu hoặc 2 - 3 câu ngắn.

+ đều có nội dung, ý nghĩa sâu sắc về phẩm chất, chân lý cuộc sống, kinh nghiệm dân gian về thời tiết/ sinh hoạt nhằm giáo dục dạy dỗ mọi người.

Sự khác nhau giữa ca dao và tục ngữ, thành ngữ:

 Nội dungNgôn ngữSử dụng
Ca dao

thường là những bài thơ ngắn, thể hiện những tình cảm, suy nghĩ, kinh nghiệm của người dân.

thường sử dụng ngôn ngữ thơ, có nhịp điệu và âm điệu đặc trưng.dùng trong các tình huống giao tiếp, truyền đạt cảm xúc.
Tục ngữ, thành ngữ là những câu châm ngôn, lời khuyên, hay những ngạn ngữ phổ biến trong xã hội. thường sử dụng ngôn ngữ thông tục, phổ biến trong cuộc sống hàng ngày.truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm sống, hay những lời khuyên.

 

23 tháng 4 2018

 - giống nhau: 
+ cả hai đều dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác. 
+ cả hai đều có tác dụng làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. 
- khác nhau 
+ mối quan hệ của các sự vật trong ẩn dụ là mối quan hệ tương đồng. 
+ mối quan hệ của các sự vật trong hoán dụ là mối quan hệ gần gũi.

Chúc bạn học tốt.

23 tháng 4 2018

Giữa ẩn dụ và hoán dụ :
- Giống nhau : Đều gọi tên sự vật hiện tượng khái niệm này bằng tên sự vật hiện tượng khái niệm khác.
- Khác nhau : 
+ Giữa 2 sự vật, hiện tượng trong phép ẩn dụ có quan hệ tương đồng.
Cụ thể là : tương đồng về hình thức, về cách thức, phẩm chất, về chuyển đổi cảm giác.
+ Giữa 2 sự vật, hiện tượng trong phép hoán dụ có quan hệ gần gũi (tương cận)
Cụ thể là : Lấy một bộ phận để chỉ toàn thể, lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng, lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật, lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.

22 tháng 3 2021

Tham khảo nha em:

-Giống nhau: đều dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các sự vật, sự việc khác nhau. 

-Khác nhau:

   + So sánh thường cần đến từ so sánh hoặc dấu hiệu nhận biết phân biệt giữa các vế so sánh và vế được so sánh ( vd như dấu gạch ngang, dấu hai chấm...) So sánh có thể ngang bằng hoặc không ngang bằng.

   + Ẩn dụ không cần từ hay dấu câu phân biệt giữa các sự vật sự việc được nêu ra. Do vậy, ẩn dụ còn được gọi là so sánh ngầm. Phép ẩn dụ giữa các sự vật sự việc thường mang ý nghĩa ngang bằng, tương đương.

3 tháng 10 2021

"Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần"


"Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh như tranh họa đồ"


"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"


" Thân em như thể bèo trôi,
Sóng dập gió dồi, biết ghé vào đâu?"


"Thân em như tấm lụa điều
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương."

"Thân em như thể hoa lài,
Hỡi người quân tử thương ai mà gầy."

3 tháng 10 2021

phép so sánh đâu ạ

 

21 tháng 2

ai mà biết đc

 

21 tháng 2

cóa ai bt ko mik ko bt

 

10 tháng 10 2017
bởi lysbae  

Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Sọ Dừa là một trong những truyện có nhiều giá trị và nhiều nét độc đáo đáng chú ý.

Tuy là một truyện cổ tích thần kỳ, tính chất thần kỳ thấm sâu vào tổ chức kết cấu của tác phẩm từ đầu đến cuối, nhưng không có nhân vật thần kỳ riêng biệt (Tiên, Bụt, Chim thần...) như ở nhiều truyện cổ tích thần kỳ khác (Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Cây khế...).

ở đây yếu tố thần kỳ nằm ngay trong nhân vật chính: Sọ Dừa. Sọ Dừa là người trần có nguồn gốc thần tiên. Về chỗ này, Sọ Dừa và Thạch Sanh có sự giống nhau trong bản chất, nhưng sự thể hiện thì khác nhau rất nhiều.

Ngay từ khi thụ thai, hai nhân vật này đã có sự khác nhau. Bà mẹ Thạch Sanh nằm mơ thấy "rồng ấp" rồi có thai, còn bà mẹ Sọ Dừa thụ thai sau khi phải làm một việc phi thường ghê sợ là: uống nước trong một cái sọ người ở gốc cây trong rừng!

Thạch Sanh sinh ra, lớn lên một cách bình thường, là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, "mặt đỏ mày xanh". Còn Sọ Dừa, sinh ra là một cục thịt tròn lông lốc, có mặt mũi, miệng tai, nhưng không có mình mẩy chân tay!

Bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa còn phải ẩn kín trong cái lốt "sọ" xấu xí gớm ghiếc... Đó là một thử thách cực kỳ to lớn, khó khăn mà nhân vật này phải kinh qua để khẳng định và bộc lộ bản chất tốt đẹp của mình.

Sự phát triển của nhân vật Sọ Dừa ở trong truyện này có thể được phân thành hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn đầu, từ khi sinh ra đến khi cưới vợ. Giai đoạn sau từ khi cưới vợ đến cuối chuyện. Cả hai giai đoạn, Sọ Dừa đều không ngừng nỗ lực vươn lên, vượt qua nhiều khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển.

Ở giai đoạn đầu, Sọ Dừa phải phấn đấu để khẳng định sự tồn tại và phát triển của mình trong hai điều kiện khó khăn, thử thách hết sức lớn: gia đình thì nghèo khó, lại không có cha; bản thân thì phải mang lốt sọ.

Câu nói đầu tiên của Sọ Dừa khi mới sinh ra là lời cầu xin mẹ đừng vứt bỏ: "Mẹ ơi! Con là người đấy mẹ ạ! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp!"

Câu nói thật giản dị, đơn sơ nhưng hết sức cảm động và giàu ý nghĩa. Cái lý và cái tình, cái bình thường và cái kỳ diệu đều nằm trong câu nói ấy. Bình thường, vì đó là lời nói tự nhiên của đứa trẻ khi nó biết bà mẹ định vứt nó đi; nhưng rất phi thường, kỳ diệu ở chỗ cái thai mới sinh ra như một "cục thịt tròn lông lốc" mà lại biết nói tiếng người rất rành rọt và thấu tình đạt lí. Nghe câu nói như vậy, bà mẹ nào có thể cầm lòng và đang tâm ném cái thai đi. Bởi vì, bên trong cái dị dạng, khác thường của cái quái thai, lại có cái bình thường, hợp tình hợp lí của tiếng nói con người thực sự.

Thiếu tiếng nói thực sự con người ấy, thì cái quái thai chỉ còn là cái đáng sợ và không một người phụ nữ nào dám nuôi nó cả.

Hành động quan trọng thứ hai, đáng chú ý của Sọ Dừa là việc chàng đòi mẹ xin cho mình được đi chăn dê của nhà phú ông. Chi tiết này chẳng những rất giàu nội dung, ý nghĩa mà còn rất tuyệt vời về giá trị nghệ thuật. Nó vừa thể hiện được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa (lòng thương yêu mẹ, yêu lao động, không sợ khó khăn...) vừa tạo điều kiện, hoàn cảnh để Sọ Dừa và cô gái út của phú ông gặp nhau, yêu nhau và lấy nhau sau này.

Sọ Dừa chẳng những chăn dê được mà còn chăn dê giỏi và điều đó đã chuẩn bị cơ sở vững chắc cho chàng tiến lên một bước mới trong sự phát triển tự nhiên của mình là: lấy vợ!

Tục ngữ Việt Nam có câu:

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà.
Cả ba việc đó đều là khó khăn.

Đối với Sọ Dừa, việc lấy vợ lại càng khó khăn hơn, vì nhà đã nghèo, thân hình lại xấu xí, cổ quái. Vì thế, khi nghe thấy Sọ Dừa đòi lấy vợ, mà lại đòi lấy con gái phú ông, bà mẹ chàng "đang buồn phiền" cũng phải "phì cười" mà nói:

"- Mày thì có ma nó lấy! Mình mẩy chân tay chẳng có mà lại đòi lấy vợ!" Lão phú ông nghe nói thì bĩu môi, trề miệng, cố nén tức giận, bảo với mẹ Sọ Dừa rằng:

"- Con mụ hình thù như thế mà cũng chòi vòi như vậy à?". Và lão thách cưới rất cao, đủ thứ sang trọng trên đời, để Sọ Dừa không sao có thể có được. Đó là một cách từ chối khéo.

Để khắc phục khó khăn này, Sọ Dừa hay đúng hơn là tác giả dân gian không thể không dựa nhiều vào yếu tố thần kỳ, ảo tưởng? Và thế là, chỉ sau một đêm bà mẹ Sọ Dừa đã thấy đổi thay tất cả: nhà cửa, giường nằm, chăn đệm... mọi thứ đều sang trọng, đẹp đẽ hơn cả lời thách cưới của phú ông. Riêng Sọ Dừa thì vẫn chưa khác trước, vẫn ở trong lốt sọ, và lăn đi lăn lại trong tòa nhà mới rộng thênh thang để sai khiến kẻ hầu người hạ. Điều này cho thấy tác giả dân gian sử dụng yếu tố thần kỳ ảo tưởng rất có nguyên tắc, có chừng mực, có tính toán cẩn thận. Làm như vậy để giữ cho câu chuyện phát triển được tự nhiên, tuần tự, từ thấp đến cao, làm cho người nghe hứng thú theo dõi liên tục, không bị nhàm chán. Vả lại, phải để cho chàng trai khôi ngô, tuấn tú Sọ Dừa xuất hiện vào thời điểm đúng nhất, đắt nhất, phải nhất và đẹp nhất. Đó chính là lúc hai vợ chồng chàng nắm tay nhau ra chào và cám ơn hai họ đang dự lễ cưới. Dù là tiểu thuyết, truyện ngắn, hay truyện kể dân gian thì sự sắp xếp, bố trí các sự việc, tình tiết, nhân vật cũng đều rất quan trọng. ở đây, tác giả sắp xếp như thế là hợp lý và có hiệu quả cao nhất.

Sự xuất hiện của chàng trai khôi ngô, tuấn tú Sọ Dừa trong lễ cưới đã kết thúc giai đoạn thứ nhất, giai đoạn đội lốt của chàng và mở ra một giai đoạn mới: giai đoạn học hành đỗ đạt và đi sứ.

Ở cô Tấm và nhiều nhân vật chính diện khác trong truyện cổ tích thần kỳ, giai đoạn đầu thường nặng về hiện thực và giai đoạn sau thường mang nhiều yếu tố thần kỳ ảo tưởng. Ở đây, ngược lại, giai đoạn đầu của Sọ Dừa rất phi thường, kỳ ảo, giai đoạn sau (kể từ khi cưới vợ) câu chuyện lại đi gần với hiện thực hơn.

Sọ Dừa đỗ trạng nguyên nhờ trí thông minh và sự chăm chỉ học hành của chàng, chứ không phải "gặp may" hay có sự phù trợ của một lực lượng thần kỳ nào cả.

Việc chàng được nhà vua trưng dụng, bổ làm quan ở kinh kỳ và cử đi sứ nhiều năm cũng là sự phát triển tự nhiên, hợp lý của một người đỗ đạt và có tài năng.

Ba thứ mà chàng trao cho vợ trước lúc đi xa: "Con dao, hòn đá lửa, hai quả trứng gà" đều là những vật dụng thông thường của đời sống người nông dân. Nó thể hiện sự phòng xa, sự lường trước những khó khăn thực tế của một người có trí tuệ và kinh nghiệm, chứ không có gì là thần kỳ ảo tưởng cả. Và về sau, khi vợ chàng lâm nạn, các thứ vật dụng đó đã phát huy tác dụng bình thường của chúng để giúp cho vợ chàng duy trì được sự sống của mình nơi hoang đảo cho đến lúc gặp chàng.

Không có phép thần thông biến hóa gì đặc biệt, nhưng "con dao", "hòn đá lửa" và "hai quả trứng gà" quả thực đã phát huy được những tác dụng kỳ diệu đối với vợ Sọ Dừa. Thiếu chúng thì cô không thể sống để gặp chồng được. Đó là cái kỳ diệu của trí tuệ và kinh nghiệm sống của con người chứ không phải của thần linh tiên bụt phù phép.

Sau khi gặp vợ và biết rõ âm mưu, hành động gian ác, xấu xa, bỉ ổi của hai người chị vợ, Sọ Dừa bình tĩnh và giải quyết rất tế nhị, sâu sắc và cao tay.

Việc chàng để vợ ẩn kín trong phòng riêng, để trực tiếp lắng nghe hai người chị vợ "kể công, kể nỗi" và "liếc mắt đưa tình"..., cho thấy Sọ Dừa quả thực là một người có nghị lực, tài năng và khôn khéo biết nhường nào?

Truyện Sọ Dừa kết thúc với sự việc: Sọ Dừa đưa vợ ra chào hai chị và mọi người đang dự tiệc khiến cho mọi người nhạc nhiên, vui sướng, còn hai người chị thì hoảng hốt run sợ và lẳng lặng lén ra ngoài trốn đi biệt tích.

Đó là cách kết thúc rất hay, rất phù hợp với truyện này. Sự kết thúc có hậu ở đây diễn ra rất tự nhiên, hợp lý nhưng chỉ thật hay khi Sọ Dừa đã có cuộc tiếp xúc và chuyện trò với hai người chị vợ, như chàng đã làm và tác giả dân gian đã xây dựng, sắp xếp.

II

Ngoài Sọ Dừa, truyện này còn có hai nhân vật chính diện nữa là bà mẹ Sọ Dừa và cô gái út nhà phú ông (vợ Sọ Dừa).

Hai người chị vợ Sọ Dừa là nhân vật phản diện. Còn phú ông, có người cũng xếp vào hàng ngũ phản diện với hai người chị. ở đây, người viết không quan niệm như vậy (sẽ nói sau).

1. Trước hết hãy nói về bà mẹ của Sọ Dừa. Truyện cổ dân gian Việt Nam đã nói đến nhiều bà mẹ (bà mẹ Gióng, bà mẹ Thạch Sanh, bà mẹ Tống Trân...). Các bà mẹ Việt Nam trong cổ tích (thuộc phe thiện) đều hiền lành, tần tảo, chịu thương, chịu khó và thương yêu con rất mực. Nhưng chịu thương, chịu khó và dầy công lao tình nghĩa với con như bà mẹ Sọ Dừa thì thật là đặc biệt hiếm có.

Người chịu nhiều đau khổ và có vai trò quan trọng nhất trong sự tồn tại và phát triển của Sọ Dừa chính là bà mẹ của chàng. Thánh Gióng chỉ ở với mẹ đến tuổi lên ba, Thạch Sanh cũng mất mẹ từ tấm bé, còn Sọ Dừa ở với mẹ và được mẹ dày công chăm sóc, lo liệu, giúp đỡ liên tục từ khi sinh ra cho đến khi cưới vợ và học hành, đỗ đạt (khoảng hai mươi năm). Nhưng điều đáng nói không phải ở chỗ thời gian dài hay ngắn mà là ở tính chất khó khăn, gian khổ của công việc. Việc nuôi con nói chung đều gian khổ, nhưng có lẽ không bà mẹ nào (dù là trong văn học, nghệ thuật hay trong cuộc đời thực) phải nuôi con khó khăn, gian khổ hơn bà mẹ Sọ Dừa. Bởi vì bà phải nuôi một cái quái thai, trong điều kiện tuổi già, đi ở, chồng chết và hơn nữa lại bị những người chung quanh xa lánh, kinh tởm.

Vậy yếu tố gì đã giúp bà vượt được khó khăn để dũng cảm nuôi con khôn lớn trưởng thành. Đó chính là tình thương, niềm tin và hy vọng.

Hoàn toàn đúng như vậy. Nếu ta chú ý đến những chi tiết đầu tiên của truyện là "vợ chồng bà đã ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con" và "Một hôm bà vào rừng, khát quá đành phải uống nước trong một cái sọ người ở hốc cây" (do cọp bỏ lại từ lâu) thì sẽ có thể rút ra được một điều nhận xét rất thú vị là ở bà mẹ Sọ Dừa có hai "cơn khát" - cơn khát nước nhất thời trong buổi đi rừng và sự "khát con" đang kéo dài gay gắt trong tuổi năm mươi. Và may mắn, kỳ diệu thay, chính thức "nước ở trong cái sọ người" mà bà ngẫu nhiên bắt gặp và vì khát quá, bà phải uống ấy, đã cùng một lúc "giải" được cả hai "cơn khát" cho bà, như truyện đã kể: "uống vào khỏi cổ, bà thấy khoan khoái khác thường, thấm thía đến ruột gan và từ đó bà có thai". Thế là bà có thêm niềm tin và hy vọng để tiếp tục sống và làm việc, kể cả khi người chồng của bà đã qua đời.

Khi sinh ra cái "quái thai" bà đau khổ, buồn phiền, kinh sợ và mất hết niềm tin, hy vọng, bà định ném nó đi. Nhưng không ngờ cái "quái thai" lại biết nói tiếng người và nói một cách rõ ràng, rành mạch, thấu tình đạt lý: "Mẹ ơi! Con là người đây mẹ ạ! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp!".

Tiếng nói ấy đã khơi dậy tình thương, niềm tin và hy vọng cho bà. Không có tiếng nói thấu tình đạt lý ấy của con người (dù là con người trong hình thức "quái thai"), thì làm sao bà mẹ có thể đủ sức lực và can đảm để nuôi nổi Sọ Dừa - một cục thịt tròn lông lốc, không còn mình mẩy chân tay.

Con người không phải là gỗ đá, niềm tin và hy vọng không thể giữ nguyên, nếu thực tế không có gì đổi thay tốt đẹp. Đó chính là lúc bà mẹ Sọ Dừa cảm thấy nản lòng sau bảy tám năm nuôi con vất vả mà con chẳng biết làm gì, hình thù vẫn như cũ. Bà nói với Sọ Dừa:

"Con nhà người ta thì bảy tám tuổi đã biết đi chăn trâu, chăn dê, còn mày thì tao chẳng trông nhờ được gì. Nhà phú ông có một đàn dê cần người chăn mà chưa tìm được người chăn. Giá mày như con người ta mà chăn được thì cũng kiếm thêm được ít gạo bỏ vào nồi". (1)

Nghe bà mẹ phàn nàn như vậy, Sọ Dừa nói ngay: "- Mẹ ơi! Con chăn dê được. Mẹ cứ vào nói với ông chủ đi".

Thế là niềm tin và hy vọng của bà mẹ Sọ Dừa lại được củng cố!

Việc Sọ Dừa chăn dê được và chăn dê giỏi, được phú ông hài lòng, khiến cho niềm tin và hy vọng của bà tăng lên. Đến khi Sọ Dừa cưới được vợ và thi đỗ trạng nguyên thì bà hoàn toàn mãn nguyện. Vì tình thương con của bà không phụ công bà, niềm tin và hy vọng của bà đã được chứng minh. Bà sẽ yên lòng nhắm mắt xuôi tay. Hình tượng nhân vật bà mẹ Sọ Dừa được xây dựng thật công phu, phong phú và trọn vẹn.

2. Người con gái út của phú ông (vợ Sọ Dừa) cũng được xây dựng rất độc đáo và thành công.

Chi tiết quan trọng đáng chú ý trước hết ở nhân vật này là việc đem cơm cho Sọ Dừa. Khác với hai người chị, cô đi đến tận nơi, đưa cơm cho Sọ Dừa một cách tử tế. Nhờ vậy mà cô thấy được đúng con người thật của Sọ Dừa (một chàng trai khôi ngô tuấn tú, thổi sáo rất haỵ..). Và tình yêu đã đến với cô một cách rất tự nhiên, hợp lý. Có thể nói con mắt "tinh đời" và tấm lòng nhân hậu của cô đã giúp cô chọn được một người chồng lý tưởng. Điều đáng nói là người chồng cô chọn là "một đứa ở", một đứa ở hình thù dị dạng khác thường. Không có con mắt "tinh đời" nhìn rõ được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa thì làm sao cô con gái út của phú ông có thể hành động như thế được?

Nhưng con mắt của cô chỉ mới "tinh đời" trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân, còn trong lĩnh vực khác cô tỏ ra rất ngây thơ, ngờ nghệch. Vì thế mà cô đã bị hai người chị đánh lừa và hãm hại trong cuộc đi chơi thuyền lúc chồng cô đi sứ chưa về.

Việc cô giữ gìn và sử dụng tốt ba thứ chồng dặn (con dao, hòn đá lửa, hai quả trứng gà) để vượt qua hiểm họa, duy trì sự sống trên hoang đảo cho đến lúc gặp chồng - thể hiện rất rõ khả năng, nghị lực và phẩm chất của cô (sự dũng cảm, kiên trì, tháo vát, niềm tin, tình yêu chung thủỵ..).

Tác giả dân gian hầu như không để ý đến sự căm giận của nhân vật này đối với hai người chị gái. Cho nên sau khi từ hoang đảo về nhà, người vợ Sọ Dừa chỉ làm theo lời chồng một cách ngoan ngoãn, dễ thương.

3. Hai người chị vợ Sọ Dừa, tuy là hai nhưng tính cách, hành động chỉ là một. Cả hai đều ích kẻ hại nhân, thiếu lương tâm và tình người. Ban đầu họ kinh ghét Sọ Dừa bao nhiêu thì về sau họ lại ham muốn chàng bấy nhiêu. Nhưng họ ham muốn Sọ Dừa không phải vì tình yêu mà chỉ vì giàu sang địa vị. Trong truyện cổ tích Việt Nam, có khá nhiều nhân vật phản diện thuộc các "hạng", "cỡ" khác nhau, trong đó hai người chị của Sọ Dừa đáng liệt vào loại nhân vật phản diện "có hạng". Đang tâm đẩy em vào bụng cá, rồi lại hô hoán là em bị chết đuối. Khi Sọ Dừa về, cả hai còn tranh nhau kể lại chuyện xưa, rồi giả bộ thương em "khóc thút thít" nhưng "không quên luôn tay sửa mái tóc và thỉnh thoảng đưa mắt tống tình quan trạng". (2)

Đoạn này, tuy lời có khác nhau đôi chút giữa các địa phương và các sách sưu tầm truyện dân gian, nhưng nội dung tính cách và hành động của hai người chị thì cơ bản là như thế.

4. Nhân vật phú ông trong truyện này nên được đánh giá như thế nào? Có người xếp nhân vật này vào loại phản diện như hai người chị vợ Sọ Dừa. Như thế không khách quan và không công bằng, hợp lý. Căn cứ vào lời nói, việc làm của phú ông trong truyện thì thấy nhân vật này không có một tội ác hay một sự cản trở có hại nào cho Sọ Dừa cả. Trái lại, phú ông đã từng bước chấp nhận những yêu cầu, nguyện vọng của hai mẹ con Sọ Dừa. Nếu không như vậy thì làm sao Sọ Dừa có thể được làm công việc chăn dê và được cưới cô gái út của phú ông làm vợ? Còn việc phú ông, lúc đầu không tin Sọ Dừa có thể chăn dê được cũng như việc lúc đầu không muốn gả con cho Sọ Dừa nên đã thách cưới rất cao... là những việc rất tự nhiên, dễ hiểu, không nên và không thể trách cứ, lên án phú ông. Ngay cả mẹ Sọ Dừa, lúc đầu cũng không tin là Sọ Dừa có thể chăn dê được và khi nghe Sọ Dừa đòi bà đi hỏi con gái phú ông cho chàng, bà cũng phải "phì cười" kia mà? Bà không chỉ "phì cười" mà còn nói: "Mày thì có ma nó lấy! Mình mẩy chân tay chẳng có mà lại đòi lấy vợ!". Cho nên không thể xếp phú ông vào loại nhân vật phản diện như hai người chị. Và cái công thức "chính diện - phản diện", "phe thiện - phe ác" cũng không nên và không thể áp dụng một cách máy móc, khiên cưỡng cho mọi truyện cổ tích.

14 tháng 10 2017

vì sợ đứa là trốn con ts thì là con của ngọc hoàng

22 tháng 2 2023

Điểm giống: Cả 2 đều là những người hiền lành, thật thà, lương thiện

Điểm khác:

Thạch Sanh:

Dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu với cái ác để bảo vệ cái thiện

Có sức mạnh vô biên

Người em trong Cây khế:

Không có sức mạnh như Thạch Sanh

 

25 tháng 2 2023

- Điểm giống nhau:

+Tốt bụng, ngây thơ, hay giúp đỡ người khác.

+Có người anh tham lam (báo đời).

+Đều mất bố mẹ.

+Đều có người anh phải trả giá sau nhưng việc làm tham lam độc ác.

+Đều gặp 1 con chim lạ vãi đạn (Thạch Sanh gặp đại bàng dưới hang, Người em gặp con chim thần gì đó).

+Điều có kết cục tốt đẹp (Main mà lị).

-Điểm khác nhau:

+Thạch Sanh mồ côi từ bé còn Người em thì bố khi trưởng thành (Mẹ hông biết nhe).

+Thạch Sanh đi lập chiến công như giết rắn, giết chim,... Còn Người em thì đi làm giàu :))

+Thạch Sanh đi từ đáy xh lên bằng cách lập chiến công và đi lật mặt thèn anh trời đánh, còn Người em thì thì giàu do...bán khế.

+Thạch Sanh có anh kết nghĩa còn Người em có anh ruột.

Còn nhiều lắm nhưng nhiêu đây thôi hihi

 

 

So sánh giữa hai bậc danh y ta thấy Tuệ Tĩnh và Thái y lệnh có rất nhiều điểm giống nhau:

  • Cả hai người đều sống ở thời đại nhà Trần.
  • Đều là những y đức nổi tiếng được mọi người trọng vọng.
  • Đều yêu thương và chăm sóc những người bệnh nghèo khổ.
  • Không phân biệt người bệnh giàu hay nghèo, bản lĩnh trước uy quyền.

Khác nhau: Các mâu thuẫn và tình huống ở truyện nói về Thái y lệnh gay gắt và căng thẳng hơn.

  • Nhà quý tộc cho mời Tuệ Tĩnh nhưng người ta khiêng thằng bé gãy chân con nhà nông dân đến. Tuệ Tĩnh chủ động trong lựa chọn.
  • Thái y lệnh đi ngay khi hay tin người đàn bà màu chảy như xối, vừa lúc đó có lệnh vào cung chữa cho quý nhân bị sốt. Thái y lệnh từ chối uy quyền, chấp nhận chịu tội. Tuệ Tĩnh và Thái y lệnh là hai tấm gương lớn về y đức về tấm lòng cao cả của người thầy thuốc