K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 5 2022

tham khảo nếu sai mk xl nha

Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước. Trong chiến thắng đó, cùng với cả nước và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, có những đóng góp quan trọng của Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên trong suốt chặng đường 21 năm từ 1954 đến 1975.

Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Đảng bộ Hưng Yên đã lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển sản xuất, củng cố hậu phương, từng bước phát triển kinh tế xã hội, đẩy lùi nạn đói, nạn rét, ổn định đời sống cho nhân dân.

Với những thành tựu bước đầu sau gần 1 năm, ngày 23-6-1955, trên báo Nhân Dân số 447, Hưng Yên được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi. Tháng 02-1956, Hưng Yên thực hiện giảm tô, cải cách ruộng đất, phát triển sản xuất. Tháng 7-1956, Hưng Yên được thưởng Cờ tỉnh chống hạn khá nhất miền Bắc của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban hành chính Tả ngạn tặng Cờ luân lưu thi đua sản xuất. Sau ba năm khôi phục và phát triển kinh tế văn hóa, ổn định chính trị xã hội (1954 - 1957), Hưng Yên đã thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước…

Mười năm sau ngày giải phóng (1954 - 1964), bắt tay vào nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên không ngừng phấn đấu vượt mọi thử thách và khó khăn gian khổ giành thắng lợi quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, ra sức thực hiện, hoàn thành kế hoạch 5 năm lần I (1961-1965) căn bản hoàn thành cải tạo, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, củng cố hậu phương, góp phần phát triển kinh tế xã hội miền Bắc, đánh bại âm mưu chống phá của kẻ thù,  sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho cách mạng miền Nam với tinh thần Tất cả vì miền Nam ruột thịt, những thành quả ấy là tiền đề để Hưng Yên thực sự vững bước tiến sang giai đoạn cách mạng mới. Ngày 27-4-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt kêu gọi toàn dân mỗi người làm việc bằng hai, sẵn sàng chi viện cho cách mạng miền Nam.

Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên xác định nhiệm vụ sản xuất đi đôi với chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, củng cố hậu phương vững mạnh để tăng cường sức mạnh về kinh tế, quốc phòng, đáp ứng nhiệm vụ ngày càng lớn của cách mạng, tích cực chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng làng chiến đấu. Toàn tỉnh đẩy mạnh các phong trào thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang, quyết tâm vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa hăng say sản xuất xây dựng cơ sở vật chất, vừa làm tốt nhiệm vụ đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam: Sản lượng nông nghiệp vượt xa chỉ tiêu kế hoạch và năng suất các năm trước, công nghiệp và thủ công nghiêp năm 1966 tăng gấp hơn 2 lần năm 1961, bắn rơi 5 máy bay Mỹ, phong trào xây dựng lực lượng hậu bị, làm công tác phòng không nhân dân và đưa người đi chiến đấu có thành tích lớn. Riêng năm 1966 có 66 đơn vị được chính phủ công nhận là đơn vị Quyết thắng, 8 đơn vị được thưởng Huân chương chiến công. Với những đóng góp trên, năm 1966, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên vinh dự tổ chức đón nhận Cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ Chủ tịch tặng.

Ngày 26-01-1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504- NQ/TVQH hợp nhất Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng. Ngay sau khi hợp nhất, Đảng bộ Hải Hưng tiếp tục lãnh đạo quân dân vừa sản xuất, vừa chiến đấu góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại lần hai và chi viện cho cách mạng miền Nam. Ngày 01-4-1968, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết động viên chính trị toàn dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ: Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ngày 21-3-1971, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị số 78 - CT/TU về việc tăng cường lãnh đạo củng cố các hợp tác xã yếu kém, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc, vừa sản xuất củng cố hậu phương ủng hộ tiền tuyến miền Nam vừa chiến đấu: Tay cày, tay súng và tay búa tay súng.

Ngày 06-4-1972, Mỹ huy động không quân và hải quân ồ ạt đánh phá miền Bắc lần thứ hai. Từ ngày 18 đến ngày 29-12-1972, địch liều lĩnh tiến hành một nấc thang chiến tranh mới cực kỳ tàn bạo, tráo trở. Một lần nữa, quân và dân miền Bắc đã anh dũng, mưu trí, chiến đấu kiên cường, trừng trị thích đáng không quân Mỹ.

Từ ngày 10-5 đến ngày 30-12-1972, máy bay Mỹ bắn phá ngày đêm mang tính hủy diệt trên địa bàn tỉnh như lần đánh phá thị xã Hưng Yên (07-7-1972), chúng rải thảm bom bằng máy bay B52 xuống hai xã Liên Nghĩa và Thắng Lợi (Văn Giang)..., quân và dân Hưng Yên vẫn kiên cường chiến đấu, chủ động phòng tránh, bảo vệ lực lượng, vừa chiến đấu vừa phục vụ chiến đấu, lao động sản xuất cùng nhân dân miền Bắc làm nên trận Điện Biên Phủ trên không buộc địch phải chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Trong năm 1972, mặc dù phải tiến hành chống chiến tranh phá hoại, Hải Hưng vẫn nỗ lực thực hiện bằng được nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho tiền tuyến. Mặc dù đây là năm chỉ tiêu yêu cầu lớn nhất từ trước, song Hải Hưng đã hoàn thành vượt chỉ tiêu Nhà nước giao. Ba đợt tuyển quân lớn trong năm đều đảm bảo số lượng, chất lượng thời gian giao quân. Việc tuyển chọn dân quân hỏa tuyến và thanh niên xung phong cho yêu cầu quốc phòng cũng đều đảm bảo kế hoạch.

Năm 1973, tỉnh tiến hành nhanh gọn hai đợt tuyển quân chi viện cho chiến trường 12.268 người (chỉ tiêu 11.400 người). Ngoài ra, tỉnh còn tuyển nhiều công nhân lành nghề các ngành và dân công hỏa tuyến phục vụ tại Quân khu IV.  Bên cạnh đó, công tác huấn luyện được sáng tạo gắn với tập trung lực lượng để lao động sản xuất. Năm 1973, Hải Hưng có quang cảnh cả tỉnh là một công trường lao động và những thao trường quân sự bởi vậy sản xuất cũng đạt tiến độ và huấn luyện cũng đạt kết quả cao.

Năm 1974, nhiệm vụ tuyển quân được thúc đẩy, các phong trào Toàn dân bàn việc nước, Toàn dân chi viện cho chiến trường, toàn dân nuôi quân... sôi nổi khắp các địa phương, quân dự bị được chuẩn bị tốt và tự bồi dưỡng sức khỏe tại gia đình sẵn sàng lên đường nhập ngũ. Năm 1974 tỉnh giao ba đợt quân vượt chỉ tiêu 147 người (chỉ tiêu giao của tỉnh là 11.638 người). Công tác quân sự địa phương có bước phát triển tiến bộ đồng đều, 148 xã của tỉnh đạt Quyết thắng, tỉnh Hải Hưng dẫn đầu quân khu, được nhận Cờ thưởng thi đua luân lưu của Chủ tịch nước.

Cuối năm 1974, đầu năm 1975, Bộ Chính trị  họp bàn kế hoạch và quyết định: Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975 và xác định: Cần tăng cường lực lượng, đảm bảo vật chất, kĩ thuật và tinh thần cho chiến trường, chuyển 30 vạn tân binh, động viên toàn quân, toàn dân nêu cao ý chí Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng, đó thực sự là ngọn đuốc soi đường dẫn đến đại thắng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Trước tình hình mới, đầu năm 1975, Hải Hưng được Nhà nước giao chỉ tiêu tuyển quân nhiều gấp hai, ba lần năm 1974, được chia làm ba đợt gồm khoảng 16.000 tân binh vào Nam chiến đấu, hơn 7000 quân xây dựng kinh tế và một lực lượng lớn công an vũ trang bảo vệ miền Bắc. Đảng bộ Hải Hưng tiếp tục phát huy tinh thần vượt khó tiến công, đón bắt thời cơ hạ quyết tâm giao vượt quân số cả năm 1975.

Ngày 15-3-1975, toàn tỉnh đồng loạt giao quân vượt chỉ tiêu cả năm với khí thế, chất lượng cao chưa từng có. Toàn tỉnh đã giao 23.797 người (chỉ tiêu 23.560 người). Tất cả các huyện, thị xã đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiếp đó, Hải Hưng xây dựng các tiểu đoàn Bãi Sậy 1, Bãi Sậy 2, Đoàn 7, Đoàn 8 gồm tổng số 4.647 đồng chí bao gồm lực lượng Dân - Chính - Đảng và lao động các ngành nghề để xây dựng, tiếp quản vùng giải phóng và bổ sung gấp vào Nam cho Bộ Tư lệnh 773 trước Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn. Trong cuộc tiến công ấy, Hải Hưng tự hào hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng nhất là dồn sức cùng cách mạng cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Theo sát những ngày tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy, ở Hải Hưng luôn tưng bừng như những ngày hội lớn, hòa trong niềm tự hào, niềm tin và tin thắng trận dồn dập mỗi ngày.

11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, cờ giải phóng đã tung bay trước tòa nhà chính "Dinh Độc Lập", Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng. Trong thắng lợi vẻ vang ấy, có những nỗ lực không ngừng, có sự đóng góp mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của người dân Hải Hưng nói chung và Hưng Yên nói riêng.

 Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy Hưng Yên không phải là địa bàn trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ, song được sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Hưng Yên đã thành lập các trận địa phòng không ở Tiên Lữ, Mỹ Hào, Văn Giang… và các trận địa phòng không này luôn là nỗi khiếp sợ của kẻ thù. Theo sách Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh, lực lượng vũ trang Hải Hưng đã bắn rơi 85 máy bay Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, thường xuyên đảm bảo giao thông vận tải thông suốt.

Ghi nhận những đóng góp của quân dân Hưng Yên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng và Nhà nước đã phong tặng nhiều danh hiệu cao quý cho các tập thể và cá nhân. Trong đó, tỉnh Hưng Yên cùng với 10 huyện, thành phố đều được Chủ tịch Nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Hàng nghìn bà mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng. Toàn tỉnh có 7.430 gia đình có 3 con nhập ngũ; 26 gia đình có 6 người và 7 gia đình có 7 người nhập ngũ tham gia kháng chiến chống Mỹ; hàng nghìn thương binh, bệnh binh, liệt sỹ, những người đã hy sinh tuổi thanh xuân lên đường chiến đấu với một trong những kẻ thù có sức mạnh vật chất và quân sự lớn nhất trong thế kỷ XX. Họ đã tạc vào lịch sử dân tộc, viết tiếp truyền thống anh hùng - văn hiến, khắc vào niềm tin, lòng tự hào về vùng đất - con người Hưng Yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi!.

6 tháng 1 2022

Giải hộ mik đi . hu hu

6 tháng 1 2022

Tham khảo

- Tạo cơ hội giao lưu văn hóa bản địa và văn hóa của khách du lịch nước ngoài. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ. - Kích thích phát triển cơ sở hạ tầng thông qua hoạt động du lịch. - Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống quý báu của làng nghề.

20 tháng 10 2021

Các bộ lạc ở Việt Nam biết đến thuật luyện kim tương đối sớm từ cách đây khoảng 3.000 - 4.000 năm.

- Trong các bộ lạc thì cư dân Phùng Nguyên biết đến thuật luyện kim sớm nhất, cư dân Sa Huỳnh và Đồng Nai biết đến muộn hơn.

5 tháng 2 2023
 

- Lĩnh vực Ẩm thực: 

- Các truyền thống địa phương thuộc lĩnh vực ẩm thực là: Chả mực Hạ Long, bánh đậu xanh Hải Dương, nhãn Hưng Yên, phở bò Nam Định.

- Truyền thống nấu bánh chưng, bánh giầy vào ngày tết: 

+ Cùng với truyền thuyết xa xưa ấy, chiếc bánh chưng, bánh giầy gói ghém trong đó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước thời bấy giờ.

+ Bên ngoài của chiếc bánh chưng là lá dong gói có sẵn trong tự nhiên, bên trong được chế biến từ gạo nếp, đậu xanh, hành, thịt heo,... đều là những nguyên liệu nấu ăn truyền thống của dân tộc.

5 tháng 2 2023

+ Lĩnh vực nghệ thuật: Quan họ Bắc Ninh, chèo cô Thái Bình, dân ca Thanh Hóa, cải lương...

+ Lĩnh vực ẩm thực: Chả mực Hạ Long, bánh đậu xanh Hải Dương, nhãn Hưng Yên, phở bò Nam Định, nem chua Thanh Hóa.

+ Nghề truyền thống: nghề dệt vải, nghề làm to he, nghề làm gốm, đan giỏ, làm tranh Đông Hồ.

+ Lễ hội: Hội Gióng, hội chọi trâu,...

3 tháng 2 2023

Em chú ý người tuyển dụng có thể là nghệ nhân lão luyện, những yêu cầu cơ bản có thể là sự tỉ mỉ kiên trì và một chút thẩm mĩ,...

2 tháng 1 2022

giáo dục địa phương ?????

2 tháng 1 2022

Tham khảo
 

hông ít người thường nhấn mạnh yêu cầu bảo tồn, giữ gìn văn hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa. Điều đó đúng, cần thiết, song có lẽ chưa đầy đủ. Chúng ta hoàn toàn có thể phát huy, phát triển, hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc trong quá trình trên. Bài viết này xuất phát từ suy nghĩ đó, mặc dù đó luôn là một thách thức lớn, đồng thời lại là một thời cơ hiếm có.

1. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục,... Chính quá trình tác động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vào toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang tính toàn cầu đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay. Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm mới của thế giới hiện đại.

Kết quả của toàn cầu hóa là tạo ra những giá trị chung, là sự xích lại gần nhau, đan xen giữa các quá trình của sự phát triển, đặc biệt trên các lĩnh vực quan trọng như kinh tế, khoa học - công nghệ, thương mại,... Tuy vậy, toàn cầu hóa không có nghĩa là tất cả các quốc gia, các dân tộc sẽ tiến tới một sự đồng nhất về mọi mặt, mà ngược lại, toàn cầu hóa chỉ có thể diễn ra khi đồng thời tạo ra những giá trị phổ quát cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, mang lại cho các dân tộc những điều kiện và cơ hội tốt để phát huy và phát triển những giá trị riêng, độc đáo, đặc trưng của dân tộc mình. Và điều đó sẽ diễn ra không phải là hệ quả tự nhiên của toàn cầu hóa, mà nhất thiết phải cần một quá trình cùng điều chỉnh, cùng hợp tác và đấu tranh của các quốc gia, dân tộc tham gia toàn cầu hóa. Nêu không làm được điều này, sẽ diễn ra một quá trình mà các thế lực mạnh và đen tối sẽ lái "con tàu" toàn cầu hóa về hướng làm thui chột, làm yếu đi các giá trị văn hóa riêng của từng dân tộc, sẽ thực hiện mưu đồ áp đặt văn hóa, biến các quốc gia khác thành lệ thuộc, tự đánh mất mình trong thế giới hiện đại.

Ở đây, về mặt văn hóa,  trong quá trình toàn cầu hóa, mỗi dân tộc phải đứng trước và luôn luôn phải xử lý mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa có xu hướng mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát chung với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc. Và đây cũng chính là một đặc điểm riêng trong quan hệ giữa toàn cầu hóa và văn hóa của các dân tộc.

Xin lưu ý rằng, không đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng dân tộc trước tác động của toàn cầu hóa, mà còn có những vấn đề lớn hơn, sâu hơn: phát huy bản sắc dân tộc trong chính quá trình giao lưu, hợp tác văn hóa, phát triển và tự làm giàu có mình hơn, phong phú, hiện đại hơn trong quá trình chủ động giao tiếp và tiếp nhận, "cho và nhận" về mặt văn hóa. Không nhận biết sâu và biện chứng quá trình trên sẽ dẫn tới một cách nhìn phiến diện, với khuynh hướng bảo thủ cho rằng, để đối phó với toàn cầu hóa, mỗi dân tộc trong khi mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, phải đóng cửa về văn hóa, "khư khư" giữ gìn, bảo vệ các bản sắc riêng của mình, không chấp nhận cả cho và nhận, vốn là một quy luật nội tại của sự tồn tại và phát triển của mỗi nền văn hóa dân tộc.

Một hoạt động trong khuôn khổ “Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga” năm 2016 - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

Một hoạt động trong khuôn khổ “Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga” năm 2016 - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

 

2. Xét về mặt lịch sử và đặc trưng văn hóa, văn hóa Việt Nam không hề xa lạ với sự giao lưu, tiếp nhận, tác động lẫn nhau của văn hóa các nước và văn hóa khu vực. Quá trình này diễn ra không ngừng, theo cả chiều dài lịch sử và theo cả không gian, địa - ván hóa.

Lãnh thổ Việt Nam có một đặc điểm lợi thế là nằm trên vùng đất có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau của nhiều nền văn hóa. Ngay từ buổi đầu dựng nước, Việt Nam đã có sự giao thoa giữa văn hóa Đông Nam Á với văn hóa Đông Á và sau này, cũng trong một thời gian dài, là giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ. Đến thời cận đại, xuất hiện và phát triển sự giao lưu, tác động lẫn nhau giữa văn hóa châu Á với văn hóa châu Âu trên lãnh thổ Việt Nam. Chính từ đặc điểm này mà ngay từ đầu và trong toàn bộ quá trình phát triển của mình, văn hóa Việt Nam đã trưởng thành, tạo nên những giá trị độc đáo của dân tộc dựa trên một năng lực rất đặc biệt, đó là vừa tự nuôi dưỡng và phát huy những giá trị của chính mình - văn hóa bản địa, vừa biết tiếp nhận, chọn lọc những giá trị tốt đẹp của nhiều nền văn hóa khác. Tính thống nhất, tính nhiều nguồn và tính đa dạng trở thành đặc trưng của văn hóa Việt Nam, không chỉ vì đất nưóc, dân tộc Việt Nam bao gồm 54 dân tộc đã cùng sống, lao động, xây dựng và sáng tạo từ bao đời nay, mà còn vì đó là một nền văn hóa biết tiếp nhận và làm phong phú cho mình bằng những giá trị của nhiều nền văn hóa trên thế giới, cả Đông và Tây, cả gần và xa,...

Có một đặc trưng hay một quy luật cần nhấn mạnh là, trong quá trình giao lưu, tiếp nhận đó, chỉ có những giá trị văn hóa bên ngoài nào phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam, được chọn lọc và được Việt hóa mới có thể trở thành những thành tố hữu cơ cấu thành văn hóa Việt Nam. Sự chọn lọc và sự sàng lọc để trở thành giá trị văn hóa Việt Nam đã diễn ra không ngừng, thầm lặng và cực kỳ tinh tế trong tiến trình lịch sử và tiến trình văn hóa. Ví dụ, những giá trị tốt đẹp của Phật giáo và Nho giáo, từ những thế kỷ đầu Công nguyên, đã qua quá trình sàng lọc đó để những ý tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo trong sự hòa quyện với khát vọng hướng thiện, yêu thương con người của dân tộc ta trở thành một phẩm giá đặc trưng của con người Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đó là chủ nghĩa nhân văn mộc mạc nhưng sâu sắc và bền vững trong văn hóa Việt Nam. Những giá trị đạo đức xã hội mà Nho giáo truyền bá vào Việt Nam từ hàng ngàn năm đã bắt rễ và hòa đồng với những quan điểm và khát vọng đạo đức của văn hóa bản địa Việt Nam, tạo nên những chuẩn mực vững bền về đạo đức của văn hóa truyền thống, được thể hiện từ trong gia đình, làng xóm đến cộng đồng và đất nước.

Đặc điểm trên của văn hóa Việt Nam không chỉ thể hiện trong quá khứ xa xôi, mà cả trong giai đoạn cận và hiện đại, khi mà sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng, phức tạp hơn. Đó là giai đoạn gặp nhau, tác động lẫn nhau, vừa như là sự "đối chọi" lại vừa như là sự "hấp dẫn" lẫn nhau giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây. Trong tình hình đó, ở Việt Nam đã diễn ra một quá trình rất phong phú, tinh tế để cách tân văn hóa, từng bước hiện đại hóa nền văn hóa truyền thống thông qua tiếp nhận, chọn lọc những giá trị hoàn toàn mới của phương Tây và nỗ lực không mệt mỏi phát huy, giữ gìn những giá trị tốt đẹp, bền vững, phù hợp với sự phát triển của văn hóa dân tộc. Trong mối quan hệ đó, có lẽ, chỉ cần nêu một dẫn chứng mẫu mực là cuộc đời, sự nghiệp văn hóa và những kinh nghiệm ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chứng minh cho bước phát triển và đặc trưng của văn hóa Việt Nam thời kỳ cận và hiện đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cũng để học hỏi, tìm kiếm những gì tốt đẹp nhất của các nền văn hóa lớn trên thế giới, từ đó Người đã chọn lọc để làm phong phú thêm cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Ở Người là sự kết hợp tuyệt vờí những tinh hoa của nhiều nền văn hóa thế giới với những giá trị cao quý và bền vững nhất trong văn hóa dân tộc.

Sự thổ lộ chân thành và đánh giá sâu sắc của Người về những giá trị mà Người chọn lọc và tiếp nhận cho mình trong các học thuyết của Khổng Tử, Giêsu, Các Mác và Tôn Dật Tiên là một minh chứng không chỉ về kinh nghiệm ứng xử văn hóa của bản thân Người, mà có lẽ, trở thành một quan niệm tiếp nhận, chọn lọc, sàng lọc của văn hóa dân tộc ta đối với văn hóa thế giói. Theo Người, Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là thích hợp với điều kiện nước ta. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy.

 

Đứng vững trên mảnh đất Việt Nam, xuất phát từ khát vọng chung của dân tộc để giữ gìn, phát huy, khẳng định bản sắc dân tộc đồng thời tiếp nhận qua sàng lọc những giá trị của văn hóa nhân loại, cả Đông và Tây, cả quá khứ lịch sử và hiện đại là phẩm chất, là đặc trưng của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu và hợp tác văn hóa.

 

3. Những đặc điểm, kinh nghiệm lịch sử trong tiến trình đó của văn hóa Việt Nam được thể hiện đặc biệt rõ trong hoạt động thực tiễn nhằm mở rộng và phát triển hợp tác quốc tế về văn hóa của chúng ta những năm đổi mới, những năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và những nghị quyết gần đây, đặc biệt là Nghị quyết 33- NQ/TW vừa qua.

Thành tựu nổi bật của hợp tác quốc tế về văn hóa trong những năm qua là đã triển khai toàn diện các lĩnh vực hợp tác, giao lưu văn hóa, thông tin đối ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều địa bàn, từng bước phát triển sang tất cả các châu lục. Ví dụ, mấy năm gần đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa là chúng ta đã tạo được sự hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ và châu Phi. Đồng thời, chúng ta cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức hợp tác đa dạng, phong phú, phù hợp với từng khu vực, từng nước. Đây là bước phát triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác quốc tế về văn hóa, qua đó đã làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nưóc ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu biết và xích lại gần nhau hơn nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính ưu việt của hợp tác quốc tế về văn hóa mà chúng ta đã và đang khai thác, phát huy, qua đó, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, con người và cuộc sống Việt Nam thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu biết rõ hơn, đúng hơn.

Trong sự hợp tác đa dạng đó, chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài, đã chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo được một số sản phẩm, ấn phẩm, công trình văn hóa, chương trình nghệ thuật có chất lượng cao phục vụ công tác giao lưu và hợp tác, được trình diễn, triển lãm ở nước ngoài. Thời gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về văn hóa, nghệ thuật tại các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế. Cùng với lực lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, lực  lượng   đông đảo hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng của các tổ chức và đoàn thể cũng đã góp phần làm phong phú, đa dạng sự giao lưu văn hóa của nước ta với cả ở trong và ngoài nước.

Những năm gần đây, chúng ta cũng đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật của các nước tại Việt Nam, trong đó có một số hoạt động lớn, có tính quốc tế như Liên hoan phim châu Á - Thái Bình Dương, Tuần phim châu Âu, Festival Huế, Tuần lễ văn hóa Nga ở Việt Nam, Triển lãm văn hóa - nghệ thuật ASEAN, các trại điêu khắc quốc tế,... Đây là một bưóc phát triển mới, mở ra triển vọng lớn để Việt Nam trở thành một địa chỉ văn hóa quen thuộc của sự giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và quốc tế.

Nhiều văn bản hợp tác quốc tế về văn hóa với các nước và với các tổ chức quốc tế được ký kết và triển khai thực hiện.

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế...

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế... Ảnh: TCCS


 

Chúng ta cũng đã tạo được ngày càng nhiều các sản phẩm thông tin đối ngoại để giới thiệu có sức thuyết phục về diện mạo đổi mới, những thành tựu của Việt Nam với nhân dân các nước, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và với người nước ngoài ở Việt Nam. Sự phối hợp giữa văn hóa với du lịch, hàng không, thương mại trong các hoạt động ở nước ngoài, cả kinh tế, văn hóa, du lịch, thông tin..., là một dấu hiệu mới, có tác dụng tốt, tạo nên sức mạnh chung và qua đó, góp phần tăng cường hợp tác đầu tư kinh tế, thương mại.

Tuy vậy, nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa vẫn còn một số mặt yếu kém, bất cập. So với yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và giao lưu quốc tế, công tác này chưa đáp ứng được đầy đủ và chưa phát huy mạnh mẽ tiềm năng văn hóa von có của dan tộc. Số công trình, tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị của ta được giới thiệu ra quốc tế còn quá ít, trong khi đó sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, không phù hợp với văn hóa và đặc tính con người Việt Nam của nước ngoài lại xâm nhập nước ta khá lớn. Trong giao lưu và hợp tác văn hóa, còn có biểu hiện thiếu chủ động, nhiều sơ hở trong quản lý. Hoạt động giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết về đất nước, về văn hóa Việt Nam chưa đạt yêu cầu và sự mong đợi của đồng bào.

4. Do sức sống nội tại và bản lĩnh của văn hóa Việt Nam, do đã từng trải nghiệm qua một quá trình lịch sử lâu dài biết sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngoài vào Việt Nam, và do đường lối chỉ đạo phù hợp với quy luật, nên từ những năm đổi mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế, nền văn hóa đương đại Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đại hơn. Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn lên hiện đại hóa của dân tộc ta.

Tuy vậy, từ kinh nghiệm lịch sử và từ thực tiễn những năm gần đây, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến tác động tiêu cực của xu hướng toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa.

Toàn cầu hóa kinh tế, thông qua hợp tác quốc tế, chuyển giao cống nghệ và các quá trình kinh doanh, quản lý, tổ chức, thông qua tài trợ và đầu tư, thương mại..., một vài thế lực đã và đang có mưu đồ sâu xa, thực hiện sự tấn công vào chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức và tâm lý,... của đất nước ta.

Xuất hiện sự áp đặt vô hình một số giá trị văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa Việt Nam. Xuất hiện và len lỏi phát triển vào văn hóa dân tộc những “giá trị” văn hóa theo khuynh hướng xã hội công nghiệp hiện đại và mặt trái của kinh tế thị trường như chủ nghĩa thực dụng kinh tế, lối sống tiêu thụ, hưởng thụ, khát vọng tiền tài, tư tưởng kỹ trị và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, sự sùng ngoại và đua đòi những lối sống và thị hiếu thấp kém, xa lạ, không phù hợp với dân tộc, những tệ nạn xã hội nguy hiểm như ma tuý, mại dâm,...Thực tiễn đó cho chúng ta rút ra một bài học, một kinh nghiệm quan trọng rằng, không thể xem thường những tác động tiêu cực của sự tấn công, sự “áp đặt” văn hóa đó.

Thời gian qua, ở nước ta đã diễn ra không ít sự đảo lộn các giá trị văn hóa, trong đó các giá trị văn hóa tốt đẹp, truyền thống như trọng tình nghĩa, ưu tiên về mặt đạo đức, vị tha, trung thực,... bị lấn lướt, xâm hại, sự lên ngôi của những giá trị ngoại lai, xa lạ trong một bộ phận quần chúng, sự lộn xộn, lúng túng, bị động, không bình yên trong đời sống tinh thần, trong lối sống và thị hiếu, trong đạo đức, đặc biệt những biến động phức tạp của các lĩnh vực tâm linh, tôn giáo,...

Toàn cầu hóa như một cơn lốc mạnh. Mặc dầu đã có sự chuẩn bị, song chúng ta chưa lường hết được tác động phức tạp của quá trình đó, vì vậy, văn hóa của chúng ta đang chịu những sức ép, sự va đập mạnh và sâu, đang đứng trước những thử thách gay gắt chưa từng có.

 

Tỉnh táo nhận thức thực trạng và thách thức đó, có chiến lược và giải pháp hữu hiệu để vượt qua nó, đứng vững và phát triển, đó là công việc to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta đối với nhiệm vụ xây dựng ríên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 

Nhận thức sâu sắc đặc điểm, thách thức và quy luật đó của quá trình toàn cầu hóa, cần phải khẳng định rằng, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa, trước những thách thức và tác động phức tạp của mặt trái toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa, chúng ta sẵn sàng và chủ động mở cửa, hội nhập, hòa mình vào xu thế chung của thế giới hiện đại, đồng thời đứng vững trên những nguyên tắc quan trọng, làm cơ sở cho việc tranh thủ thời cơ, vượt qua trở ngại, thách thức và tự lực, chủ động xây dựng văn hóa dân tộc bằng sức mạnh, bản lĩnh, cốt cách của chính dân tộc ta.

Mở cửa, hội nhập, giao lưu và hợp tác nhằm tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, đồng thời phải bảo vệ, bảo toàn các giá trị tốt đẹp, cao quý, bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam. Ở đây, trong văn hóa dân tộc thể hiện phép biện chứng giữa sức mạnh nội sinh và năng lực tiếp nhận, đón nhận, hay nói cách khác, phụ thuộc vào chính bản lĩnh, sức mạnh của dân tộc ta trong tiến trình hội nhập và giao lưu quốc tế. "Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác".

Cần phải tiếp tục khẳng định đây là nguyên tắc, đồng thời là bản lĩnh của dân tộc ta trong quá trình thực hiện giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Ở đây, hội nhập và giao lưu để vừa bảo vệ, làm bền vững hơn các bản sắc văn hóa, vừa làm phong phú hơn, giàu có hơn, hiện đại hơn bản sắc đó và toàn bộ nền văn hóa của chúng ta.

Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa, các giá trị văn hóa của bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh nghiệm lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng, các yếu tố nội sinh về văn hóa của chúng ta phải giữ vai trò quyết định. Nội lực của chúng ta càng mạnh, chúng ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có nghĩa là nội lực đó sẽ chỉ phối các quan hệ với các yếu tố ngoại sinh, quyết định chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có đủ trình độ, bản lĩnh để "đồng hoá" các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố của chính nền văn hóa dân tộc, thành chất xúc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn hóa đó.

Như vậy, hội nhập và giao lưu văn hóa không phải là phép cộng các yếu tố văn hóa bên trong và các yếu tố văn hóa bên ngoài, mà phải là quá trình tích hợp biện chứng, sinh động, nhuần nhuyễn để tạo ra một nền văn hóa thuần Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần “thuần tuý Việt Nam”.

Bản chất thực sự tốt đẹp của giao lưu văn hóa quốc tế, giữa các nền văn hóa với nhau thể hiện ở sự đối thoại bình đẳng và rộng mở. Thế giới đã gặp phải nhiều loại xung đột khác nhau: quyết liệt, dai dẳng, mất và còn, phải đương đầu với nhiều xung đột mới gay gắt hơn, tàn nhẫn hơn, đau đớn hơn do các thế lực hiếu chiến, cường quyền gây ra. Song, như UNESCO đã khẳng định về bản chất giữa các nền văn hóa không có xung đột mà chỉ có đối thoại mà thôi. Toàn cầu hóa góp phần làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, làm phong phú thêm các nền văn hóa. Chính sự đối thoại cởi mở và bình đẳng là nguồn lực tạo ra sự phong phú và tính độc đáo của mỗi nền văn hóa. Nhận thức sâu sắc và vận dụng một cách chủ động tính quy luật đặc thù đó của hội nhập và giao lưu văn hóa, chúng ta cần kiên trì xác định nguyên tắc hợp tác bình đẳng, đối thoại cởi mở để vừa cho và vừa nhận văn hóa. Nguyên tắc này không phải là kết quả chủ quan của người lãnh đạo văn hóa, mà về bản chất, là việc đúc kết từ bản thân quy luật đặc thù của sự tồn tại và phát triển văn hóa nước ta, như các Nghị quyết của Đảng đã xác định văn hóa Việt Nam là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để “không ngừng hoàn thiện mình”.

Trên cơ sở nguyên tắc đó, chúng ta hoàn toàn không chấp nhận một mưu đồ lợi dụng toàn cầu hòa để áp đặt những giá trị của các nước lớn, của các thế lực cường quyền vào nước ta. Đồng thời, trong quá trình hợp tác và giao lưu, chúng ta chủ trương loại bỏ những yếu tố văn hóa ngoại lai, không phù hợp và trái với văn hóa dân tộc, với khát vọng vì sự phát triển của con người Việt Nam thời kỳ hiện đại, từ đó, chúng ta kiên quyết "ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy" từ bên ngoài vào nước ta.

Ở đây, tư cách chủ động hội nhập và giao lưu văn hóa là một đòi hỏi cao đối với quá trình chỉ đạo hợp tác quốc tế về văn hóa, và đó là một cuộc đấu tranh không hề đơn giản để một mặt, chống lại sự áp đặt văn hóa của các thế lực cường quyền, và mặt khác, phê phán và khắc phục căn bệnh tự ti, bắt chước, lai căng, hoa mắt trước một số sản phẩm văn hóa của nước ngoài.

Những định hướng và yêu cầu trên là cơ sở để chúng ta thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, thực hiện nhiệm vụ hợp tác và giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa.

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
19 tháng 11 2023

Ví dụ: 

- Truyền thống quan họ ở Bắc Ninh.

- Hiện nay, ở Bắc Ninh vào dịp đầu xuân mỗi năm đều tổ chức Hội Lim, nhằm giữ gìn phát huy truyền thống quan họ ở đây. 

- Việc giữ gìn phát huy truyền thống này có khó không, khi mà nhiều loại nhạc trẻ ra đời?