K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 3 2020

Con người Việt Nam có những nét tính cách truyền thống như lòng yêu nước tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học đã tạo nên lịch sử đặc trưng của Việt Nam.

Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Thái độ coi trọng cộng đồng đã trở thành một nét tính cách truyền thống đặc trưng của con người Việt Nam. Mặc dù tính cộng đồng cao là một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị, song bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng không chấp nhận cá nhân đứng ngoài cộng đồng và cá tính không phù hợp với "Luật bầy đàn" của cộng đồng. Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và quan tâm nhau. Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới mức coi thường hiến pháp và pháp luật như "phép vua thua lệ làng", "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình" thì khó có thể chấp nhận được.

Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa.

Chúc bạn học tốt!

Con người Việt Nam có những nét tính cách truyền thống như lòng yêu nước tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học đã tạo nên lịch sử đặc trưng của Việt Nam.

Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Thái độ coi trọng cộng đồng đã trở thành một nét tính cách truyền thống đặc trưng của con người Việt Nam. Mặc dù tính cộng đồng cao là một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị, song bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng không chấp nhận cá nhân đứng ngoài cộng đồng và cá tính không phù hợp với "Luật bầy đàn" của cộng đồng. Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và quan tâm nhau. Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới mức coi thường hiến pháp và pháp luật như "phép vua thua lệ làng", "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình" thì khó có thể chấp nhận được.

Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa.

23 tháng 2 2020

Tham khảo:

Nha tho Huy Can đã từng viết:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”

Qua biết bao đổi thay của cuộc sống, bao thằng trầm của lịch sử dân tộc, con người Việt Nam vẫn giữ trong mình những nét đẹp riêng, những phẩm chất riêng. Suốt chặng đường tiến tới Chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đã tình nguyện làm những thư kí trung thành, ghi chép một cách đầy đủ và chân thực những vẻ đẹp rạng ngời của con người Việt Nam.

Vẻ đẹp đầu tiên và cũng là lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, của ý thức sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do, giống như ai đó đã từng viết:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu ta cần chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Ý chí độc lập dân tộc đã vượt qua tình yêu quê hương, để hwongs trọn tình yêu ấy cho đất nước. Người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã sẵn sàng dứt áo ra đi, để một lòng hướng trái tim ra tiền tuyến:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Suốt chặng đường kháng chiến chống Pháp, những người lính cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Lí tưởng cao đẹp nhất của họ là giữ vững độc lập tự do của Tổ quốc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Hay như hình ảnh cuối của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

“Trái tim” – hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe vì sự nghiệp thống nhất đất nước. “Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận, trái tim sẵn sàng hy sinh cho “trái tim” của biết bao con người khác cũng là anh em, cũng chung dòng máu Việt. Để rồi không chỉ là “trái tim” nơi tiền tuyến cam go khốc liệt, mà ngay cả “trái tim” nơi hậu phương cũng một lòng trọn niềm tin kháng chiến:
“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội…”

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thổi tình yêu nước vào bài thơ, để bà mẹ Tà-ôi có khát vọng đất nước được giải phóng, được thấy Bác Hồ, để truyền tình yêu ấy vào tiềm thức của đứa con. Trong lời ru của mẹ có ước mơ của riêng bà và cũng là ước mơ của cả dân tộc về giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng. Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước còn là sự hy sinh, xả thân quên mình vì bầu trời hòa bình như nhân vật anh Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”của Nguyễn Quang Sáng. Dù yêu thương con vô hạn, dù chưa được hưởng trọn cái tình yêu, cái tiếng gọi ba của bé Thu nhưng vì đất nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, anh Sáu đã quyết định ra đi để làm tròn bổn phận, làm tròn nhiệm vụ của một người lính, một thành viên trong gia đình và tiếp nối tình yêu đó trên con đường Cách mạng bằng nỗi nhớ, để rồi “trong trận càn của địch, anh bị hy sinh”. Thật xót xa và đớn đau! Thế mới biết chiến tranh đã cướp đi bao mái ấm gia đình, bao niềm hy vọng về đất nước đang bỏ dở…
Vẻ đẹp của con người Việt Nam còn được xây dựng trên mặt trận lao động. Đó alf vẻ đẹp của tình thần lao động hăng say, của tinh thần làm chủ cuộc sống, của ý thức xây dựng Tổ quốc làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Bằng cách sống có lí tưởng, dám ước mơ, biết vươn lên có ý nghĩa để cống hiến, để thành người có ích với cộng đồng, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lao động bình thường, lặng lẽ vô danh ở núi rừng bạt ngàn Tây Bắc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao khi đang ở độ tuổi hai mươi bảy. Đang là thanh niên – cái thời gian thỏa sức vui chơi, chạy nhảy mà anh lại chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào náo nhiệt, rời xa gia đình để gắn bó với công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất,… phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Một công việc đầy khó khăn khắc nghiệt nhưng không vì vậy mà anh bỏ bê, lơ đãng mà ngược lại, anh làm việc đầy say mê và đầy trách nhiệm. Vẫn biết công việc ấy là gian khổ nhưng “thiếu nó anh buồn đến chết mất” vì đó là niềm vui và nguồn sống của anh. Đối với anh, hạnh phúc là khi được lao động, cống hiến hết mình vì đất nước. Xây dựng đất nwocs ngày giàu mạnh hơn, với anh đó là một niềm vui. Không chỉ anh mà cả ông họa sĩ già day mê nghệ thuật, cô kĩ sư trẻ mới ra trường, bác lái xe vui tính vởi mở, ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học…đã lao động âm thầm, lặng lẽ mà đầy ý nghĩa bởi công việc của họ đã cống hiến vì đất nước, vì mọi người. Trên mặt trận lao động, con người Việt Nam luôn dốc lòng dốc sức, nhiệt tình xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ tiêu biểu sau Cách mạng tháng Tám như thế. Mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời, Huy Cận đã cất lên bài ca về những người dân chài với đức tính cần cù và tinh thần lạc quan trong lao động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Không còn là từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm để “kéo xoăn tay chùm cá nặng”, góp phần làm giàu cho đất nước. Chi tiết “căng buồm” của tác giả đã lột tả hết thảy tinh thần phấn khơi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển:
Câu hát căng buồn với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Vẻ đẹp của họ chính là góp tay xây dựng đời thêm hạnh phúc ấm no. Góp sức nhỏ bé để làm một điều ý nghĩa và lớn lao, đó là niềm vinh hạnh, niềm vui.
Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống ấy, người Việt Nam còn được biết đến với vẻ đẹp trong tâm hồn sâu kín, đời sống nội tâm phong phú, tình cảm dào dạt bao la. Đến với “Đồng chí” của Chính Hữu, người đọc sẽ biết rõ hơn tình đồng chí đồng đội trong chiến đấu gian lao. Cùng là người bạn tâm giao trên chiến hào, họ chia sẻ ngọt bùi “đêm rét chung chăn” để trở thành “đôi tri kỉ”. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp, tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu và giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Dù khó khăn cực khổ đến đâu, họ cũng đâu quản ngại bởi bên cạnh họ đã có bàn tay của người đồng đội thân thương:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Nắm lấy bàn tay để trao truyền sức mạnh, nắm lấy bàn tay để sưới ấm cả không gian núi rừng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Một khung cảnh thơ mộng, nói lên cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó. Nhưng kháng chiến đâu phải chỉ dành tình cảm cho người bạn tri âm tri kỉ là đủ; họ - những người chiến sĩ vẫn dành riêng cho một góc nhỏ trái tim mình, ngoài tình yêu đất nước còn là tình yêu gia đình, tình phụ tử, mẫu tử thiêng liêng. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện như thế. Những tưởng chiến tranh sẽ để lại đâu đó trên cuộc đời một mái ấm hạnh phúc, nhưng không, chiến tranh là toàn bộ bi kịch. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe tiếng gọi “ba” một cách không trọng vẹn. Bom đạn làm thay đổi hình hai anh Sáu, ngỡ rằn bom đạn đã cắt đứt hẳn tình yêu cha trong lòng đứa con gái ngây thơ, nhưng bất ngờ làm sao cái giây phút chia xa lại rạo rực trong lòng bé Thu một tình cha con vỡ òa, sâu nặng. Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng về tình phụ - tử mà bom đạn kẻ thù không thể nào tàn phá nổi. Chính vì thế mà cái lúc hấp hối, anh Sáu “đưa tay vào túi, móc cây lược”, đưa cho người bạn với ánh mắt năn nỉ cầu xin, làm giúp anh cái tâm nguyện cuối cùng là trao lại kỉ vật ấy cho đứa con gái nơi quê nhà đang mong ngóng. Chiếc lược ngà mãi sẽ là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầu máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng bạn đọc của ngày ấy, và của cả hôm nay.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam nơi hậu phương còn là tình bà cháu thiêng liêng ấm áp. Nhà thơ Bằng Việt đã để lại cho thi đàn văn học Việt một lời thơ đẹp với cảm xúc dào dạt nhắc lại kí ức một thời gian khổ - đói nghèo chiến tranh:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Bếp lửa hiện lên trong sương sơm, “nồng đượm”, mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về gia đình, đứa cháu thương bà khốn kể xiết. Chiến tranh – nhiều cảnh ngộ khác nhau, người bà đã thay thế vị trí người mẹ để chăm chút, để nuôi dạy đứa cháu nhỏ:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc…

Mỗi câu thơ như đã tô đậm thêm những phẩm chất cao quý của người bà kính yêu. Cùng với bà, hình tượng “bếp lửa” cũng đã bùng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa ”dai dẳng” với niềm tin bất diệt… Mỗi vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu, bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu, biết bao niềm yêu thương, bao ước mơ, hoài bão… Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi thay, dù “có ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng tình thương nhớ bà trong lòng người cháu vẫn mãnh liệt và thiết tha. Qua bài thơ, ta càng thấy rõ tình cảm gia đình là một tình cảm tha thiết của con người Việt Nam. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm ồn vô cùng ấp áp và thiêng liêng của dân tộc suốt chiều dài kháng chiến cứu nước và giữ nước.

Con người Việt Nam hiện lên trong các tác phẩm văn học hiện đại vừa mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vừa mang vẻ đẹp của con người mới dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm phác họa vẻ đẹp của con người Việt Nam bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ ngợi ca và trân trọng hết mình. Qua đó cho thấy văn học hiệc đại phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, có sự kế thừa và phát huy những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ của con người Việt Nam.

Chúc bạn học tốt!

4 tháng 3 2020

bạn tham khảo ở đây nhé

Con người Việt Nam có những nét tính cách truyền thống như lòng yêu nước tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học đã tạo nên lịch sử đặc trưng của Việt Nam.

Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Thái độ coi trọng cộng đồng đã trở thành một nét tính cách truyền thống đặc trưng của con người Việt Nam. Mặc dù tính cộng đồng cao là một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị, song bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng không chấp nhận cá nhân đứng ngoài cộng đồng và cá tính không phù hợp với "Luật bầy đàn" của cộng đồng. Người Việt rất coi trọng tình nghĩa, như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và quan tâm nhau. Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới mức coi thường hiến pháp và pháp luật như "phép vua thua lệ làng", "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình" thì khó có thể chấp nhận được.

Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học, cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa.

chúc bạn học tốt!

4 tháng 3 2020

cảm ơn bạn

3 tháng 12 2018
Qua bài thơ " Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến hiện lên rất rõ ràng. Hai câu đầu nói về sự xinh đẹp của họ. " Trắng " của làn da, " tròn " là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu. Vẻ đẹp nội tâm được bộc lộ rõ trong cụm từ " tấm lòng son " , sự trong trắng, tròn trịa trong cách ứng xử, tấm lòng thủy chung son sắt. Thành ngữ " Ba chìm bảy nổi " được tác giả biến đổi thảnh " Bảy nổi ba chìm " , từ đó ta thấy thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến chìm nổi bấp bênh, lênh đênh không tự quyết định được số phận của mình. Cuộc sống của họ sướng hay khổ đều phải phụ thuộc vào người khác và sự may rủi. Câu cuối là lời khẳng định dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn giữ tấm lòng thủy chung son sắt cùng với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Qua bài thơ, Hồ Xuân Hương đã gián tiếp lên án xã hội phong kiến.
8 tháng 10 2017

Ca dao - dân ca là "tiếng hát đi từ trái tim lên miệng", là thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao - dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân, nhất là những người lao động Việt Nam. Rất tự nhiên, tâm hồn, tình cảm con người bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm, ân nhhĩa đối với những người ruột thịt trong gia đình. Truyền thống văn hoá Việt Nam rất đề cao gia đình và tình nghĩa gia đình. Bài ca tình nghĩa gia đình trong kho tàng ca dao - dân ca Việt Nam vô cùng phong phú.

Đây có thể là lời ru con của mẹ, nói với con ; là lời người con gái lấy chồng xa quê hướng về quê mẹ, nói với mẹ ; là lời của cháu nói với ông bà, lời nói nghĩa tình ngân lên một khúc hát nhiều bè, …Những câu hát về tình cảm gia đình trong ca dao - dân ca Việt Nam chúng ta đẹp như một bản hợp ca vừa chân thành, thân mật, ấm cúng, vừa thiêng liêng, trang trọng, xuyên thấm từ đời này sang đời khác.Tình cảm đó còn là lời nhắc nhở về thái độ vào cách cư xử với người trên , đặc biệt là công lao dưỡng dục của cha mẹ:

Công cha như núi ngất trời

, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài hiển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi !

Sáu tiếng mở đầu ngân theo ba nhịp như khúc dạo nhạc nhẹ nhàng, thủ thí của một bài hát ru. Đây là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon, đồng thời nhắc nhở công lao trời biển của cha mẹ đối với con và bổn phận, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Mẹ sinh ra con, dành tất cả những dòng sữa thơm ngọt nuôi phần xác của con và hằng đêm cất tiếng ru êm dịu rót thêm những dòng sữa âm thanh nuôi lớn phần hồn của con. Là những người con, mỗi chúng ta ai mà chẳng đã từng dược nghe lời ru của mẹ để rồi cùng với sữa mẹ, những bài hát ru ấy đã nuôi lớn chúng ta, hoàn thiện cho ta những bước trưởng thành cả tâm hồn và thể xác.. Đây không phải là lời giáo huấn khó khăn về chữ hiếu mà là những tiếng nói tâm tình truyền cảm, lay động trái tim chúng ta

Trong gia đình , tình cảm anh em luôn là một niềm hạnh phúc đối với những người trong gia đình. Anh em hòa thuận , yêu thương , đùm bọc nhau sẽ giúp cho gia đình ấy hạnh phúc bền lâu :

Anh em nào phải người xa,

Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.

Yêu nahu như thể tay chân

Anh em hòa thuận ,hai thân sum vầy.

Lời răn bảo dùng cách so sánh khéo léo. Tình anh em, yêu thương, hoà thuận, trên kính dưới nhường như tay gắn bó với chân, sự gắn bó bằng đường gân, mạch máu. ông bà, cha mẹ luôn mong muôn con cái trong một nhà thương yêu, giúp dỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau như tay với chân trong một cơ thể. Cái cơ thể ấy chính là gia đình. Người tiêu biểu cho gia đình chính là cha mẹ. Tình cảm anh em nằm trong tình thương yêu của cha mẹ. Vì thế, anh em hoà thuận sẽ đem lại niểm vui, hạnh phúc cho cha mẹ. Lời ca kết lại, nhưng cảm xúc và ước vọng vẫn tiếp tục mở ra,cứ ngân lên, lan toả mãi trong lòng người...

“Nhớ mẹ” hay “nhớ quê hương’’? Có lẽ hai nỗi nhớ ấy hòa làm một. Mẹ là mái đình, bến nước, cây đa… Mẹ là tất cả. Cô gái theo chồng nhớ mẹ cũng như con người đi xa nhìn lại mái nhà quen thuộc. Nỗi đau ấy là bất tận. Ai cũng có một người mẹ, bất cứ người nào xa quê, cái nhớ trước hết vẫn là nhớ mẹ. Mỗi khi nhớ mẹ có lẽ người ta thường ngân nga câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

.

Nghĩ về quê hương là nghĩ về mẹ, bóng hình mẹ đã tạc vào hình bóng quê hương. Ta thấy hiện lên hình ảnh cô gái lấy chồng xa quê, nhớ quê, nhớ gia đình...Chắc là nhớ lắm, nhớ quá nên cứ chiều chiều và chiều nào cũng vậy cô ra ngõ sau ngậm ngùi ngóng về quê mẹ.Kín đáo, thầm lặng nhưng da diết của chiều muộn – đó là nét tê nhị thể hiện nỗi nhớ của các cô gái trong ca dao khi đã đi lấy chồng. Giữa một không gian trải dài vô tận, một con người đang mang tâm trạng nhớ thương bỗng cảm thấy mình lẻ loi, cô độc vô cùng. Lúc này con người mà cô mong mỏi nhất không thể là ai khác ngoài người mẹ thân thương. Người mẹ sẽ là điểm tựa dịu dàng nhưng vững chắc nhất cho cô gái, bởi vậy, cô càng mong càng nhớ hơn. Cô chọn một không gian riêng của mình, một mình sống trong tâm tưởng. Buổi chiều, ngõ sau, ta như thấy một cái nhìn trăn trối của cô gái về phía chân trời xa, ở đó có mẹ già đang sớm trưa lụi hụi một mình. Giá như cô được chắp thêm đôi cánh để về bên mẹ, để lại là đứa con bé bỏng của mẹ. Giá như… tất cả chỉ là ước mơ.

Có thể nói ca dao - dân ca là "tiếng hát di từ trái tim lên miệng". Trong những "tiếng hát trái tim" ấy, những lời ru, những bài ca về tình nghĩa gia đình bao giờ cùng dịu dàng, chân thành, đằm thắm nhất. Từ tình cảm cha mẹ, con cái, tình anh em đến tình cảm ông bà, con cháu, tình ruột thịt, huyết thống,... tất cả đều đáng trân trọng và cần phải vun trồng mãi mãi tươi tốt. Song đạo lí Việt Nam lại luôn nhắc nhở "tình" phải gắn liền với "nghĩa". Tinh yêu thương, lòng nhớ ơn cha mẹ, ông bà, tình thân đoàn kết anh em ruột thịt chỉ có giá trị khi con người biết làm những việc nhân nghĩa, có những hành động cụ thể thiết thực đề ơn đáp nghĩa những bậc sinh thành, những người gần gũi ruột thịt từng hi sinh cả cuộc đời cho sự sống của mình. Và thiêng liêng cao cả hơn nữa là có thực hiện được tình nghĩa gia đình tốt đẹp thì chúng ta mới rèn giũa được những tình cảm rộng lớn khác như tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng bào, lòng nhân ái, tình thương con người,...