K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặnglẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quít,muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồngnàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thườnglại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải...
Đọc tiếp

Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng
lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quít,
muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng
nàn, tha thiết. Nhưng sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt thường
lại ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không
cần phải là con chim đại bàng bay một làn chín vạn dặm mới là sống. Sự bồng bột Xuân
Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi. Sau khi
đọc đi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi
thấy đây mới thực là Xuân Diệu.
(Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, NXB Văn học, 2000)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích?
Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả đã nhận định điều gì về nhà thơ Xuân Diệu?
Câu 3. Xác định nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong câu: Sau khi đọc đi đọc lại nhà thơ có
tâm hồn phức tạp này, sau khi đã tìm kiếm Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới thực là Xuân
Diệu.
Câu 4. Nhận xét cách sử dụng từ ngữ của tác giả trong đoạn trích.

2
15 tháng 5 2021

......

 

8 tháng 6 2021

Câu 1: Nghị Luận

Câu 2: Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết.

Câu 3: Tìm hiểu được con người Xuân Diệu, nghĩa tình thái ''cảm thấy thật là Xuân''- là sự cảm nhận, đánh giá về con người của Xuân Diệu thật là Xuân

1 tháng 12 2019

Tham khảo

Nhà thơ Hoài Thanh đã từng viết: "Tôi quyết rằng trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần tâm hồn mở rộng như Thế Lữ, mở mang như Nguyễn Nhược Pháp , ảo não như Huy Cận , quê mùa như Nguyễn Bính , kì dị như Chế Lan Viên và hơn cả trên hết là sự ha thiết , cuống quýt, rạo rực và băn khoăn như Xuân Diệu " – một thi nhân tiêu biểu cho phong trào thơ mới với chất thơ trữ tình sâu lắng đã khiến Hoài Thanh phải thốt lên rằng ông là " mới nhất trong các nhà thơ mới" và ông đã bình luận trong quyển Thi Nhân Việt Nam :

"Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này , Xuân Diệu say đắm trong tình yêu , say đắm cảnh trời , sống vội vàng ,sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình . Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết."

Ngay tù buổi đầu bước chân vào làng thơ ,Xuân Diệu dường như đã chọn cho mình một lối đi riêng trong quan niệm sống : sống để yêu , tận hưởng ,tận hiến và tôn thờ tình yêu ! Sống bằng một con tim yêu nồng cháy say mê qua việc thể hiện những vần thơ tình và từ những vần thơ ấy mà " Ông Hoàng thơ tình " đã ban tặng cho nhân gian tuyệt tác tiêu biểu không thể không kể đến trong sự nghiệp đầu tay của ông đó là " Vội Vàng" , " Đây Mùa Thu Tới", "Thơ Duyên", trong tập " Thơ Thơ" (1938) và " Gửi Hương Cho Gió " (1945) . Từ đó đủ thấy nhà thơ đã tìm nguồn cảm hứng chẳng đâu xa là mát chính là ở ngay cuộc sống trần thế này một thiên đường tại mặt đất giống như ông nghĩ . Thật vậy, Xuân Diệu yêu cuộc sống trần thế này với tất cả vẻ bình dị , trong trẻo của thiên nhiên trong sáng và tươi mát :

"Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Cay me ríu rít cặp chim chuyền

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng thuyền"

Xưa nay cảnh vật thiên nhiên thường giữ vai trò quan trọng đối với thanh niên những người đang yêu nhau. Đúng như ý kiến của nhà thơ Huy Cận :"Những người yêu nhau thường hay ra giữa thiên nhiên đó là quy luật . Vì chỉ có kích thước của vũ trụ hoa chăng mới đó được cái không-bờ-bến của xúc động tình yêu " . Dưới mắt của chàng trai trẻ Xuân Diệu " lần đầu rung động nỗi thương yêu" buổi chiều thu ấy thật là đẹp. Chiều đã "mộng" lại còn " hoà thơ" được cảm nhận qua những nét duyên dáng của nhánh lá " nhánh duyên " qua âm thanh của chim chóc cặp đôi ríu rít và một hoà sắc xanh như " Ngọc " mượt mà của bầu trời soi vào vườn lá. Bàng bạc trong khắp không gian trong mọi cảnh sắc ấy là từng thu ngân lên như " tiếng huyền" tuy mơ hồ mà rõ rệt. Đúng là một thứ tiếng âm thanh huyền diệu của đất trời của lòng người. Tuy là chiều thu nhưng giọng điệu không hề buồn.

Cùng với tâm hồn đắm say và lãng mạn trong bài "Vội Vàng" nhà thơ đã viết :

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và nay đây ánh sáng chớp hàng mi"

Trước mắt Xuân Diệu cuộc sống diễn ra vô cùng sôi động "một nguồn nhựa sống bất tuyệt như đang tuôn trào dạt dào ". Điệp từ "này đây" như vang lên thành điệp khúc cho thấy hình ảnh đẹp đẽ và hấp dẫn của thiên nhiên cỏ cây , hoa lá, và cành tơ, khúc tình si của yến anh và cả hàng mi với đôi mắt chớp. Tất cả đều đã hiện ra trong một màu sắc sáng sủa và sinh động thể hiện " một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này"

Là người muốn sống gắn bó, vồ vập với thiên nhiên cỏ cây và con người lại khao khát tình yêu một cách cuồng nhiệt Xuân Diệu muốn tất cả mọi hương sắc thuần tuỳ của trần thế vào lòng mình :

"Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ dạng"

Với nhịp thơ dồn dập , sôi nổi , gấp gáp,khiến cho người đọc như cảm thấy từng nhịp đập rộn ràng của con tim thi nhân ngay phút giây này. Ở đây Xuân Diệu muốn ôm vào cả vòng tay mình cả sự sống mơn mởn , nhà thơ muốn riết mây đưa , muốn say cánh bướm với tình yêu, muốn thâu trong một cái hôn nhiều ……Ngay ở nụ hôn thôi một cái riêng tư giữa hai người với nhau mà thi nhân lại tưởng như trong đó đã thâu tóm cả nước non cây cỏ. Đã vậy lòng khát khao giao cảm niềm say đắm với cảnh trời với tình yêu của thi nhân lại ngày một tăng thêm lên mạnh mẽ và dữ dội :

"Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy anh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!"

Cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể say đắm và thèm khát tình yêu đến nỗi đã khẳng định :

"Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào"

(Bài Thơ Tuổi Nhỏ-Xuân Diệu)

Và rồi để đạt đến vần điệu nồng nàn , mãnh liệt và đắm say đến nhiệt cuồng dữ dội :

"Nên lúc đôi ta kề miệng thắm

Trời ơi ! Ta muốn uống hồn em ! "

(Vô biên -Xuân Diệu )

Yêu đương đắm say đến cuồng nhiệt là vậy nhưng Xuân Diệu cũng tự ý thức được mọi thứ tươi đẹp mãi mãi không là vĩnh hằng muôn thưở , nên người mới " bâng khuâng và rồi để tiếc cả đất trời ", " mau đi thôi mùa trưa ngả chiều hôm " , " khắp tháng năm đều rớm vị chia phôi" ,…. Vì vậy mà Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng , cuống quýt , giục giã để tận hưởng , tận hiến cuộc đời ngắn ngủi của mình :

"Mau đi chứ ! Vội vàng lên với chứ

Em ơi tình non sắp già rồi "

(Giục Giã – Xuân Diệu )

Qua đó cho ta thấy trong cái " vội vàng" của tiếng ca " giục giã" là tiếng gọi vội các cụt thời gian và đất trời ấy vẫn là một tâm hồn yêu đời sâu nặng, yêu cuộc sống một cách thiết tha của Xuân Diệu. Vì vậy, " khi vui cũng như khi buồn thì người đều nồng nàn , tha thiết". Và cũng phải nồng nàn , tha thiết lắm nhà thơ mới nghe được cả tiếng lòng của đôi lứa yêu nhau :

"Buổi ấy lòng tôi nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu"

(Thơ Duyên- Xuân Diệu)

Với tất cả tâm hồn nhạy cảm đầy nồng nàn và tha thiết của mình , Xuân Diệu cũng nghe được cả sự rung động trong "lòng ta " và " ý bạn".

"Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy

Lòng anh thôi đã cưới lòng em "

(Thơ Duyên -Xuân Diệu)

Đó là trong niềm vui nhưng dù trong nỗi buồn , Xuân Diệu cũng không hề lặng lẽ mà vẫn rất nồng nàn và tha thiết và phải chăng ta phải ghi nhận những lời nhận xét sắc đáng của nhà phê bình , nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã viết trong " Nhà văn hiện đại " :" Với những nguồn cảm hứng mới : yêu đương và tuổi xuân , dù lúc vui hay buồn , Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng một giọng văn yêu đời thấm thía". Chính điều này đã khiến nhà thơ nhìn mọi vật trong đời giữa cái thế luôn vận động. Thật vậy, chỉ có đôi mắt xanh non của Xuân Diệu mới ghi nhận nhìn thấy được hình hài của cái lạnh đang luôn trong gió đến , khi mùa thu mới chớm về :

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió"

(Đây mùa thu tới-Xuân Diệu)

Trong thơ hay hay trong cuộc đời mình , Xuân Diệu lúc nào cũng thể hiện một sự tha thiết nồng nàn khác với một bản chất sống mãnh liệt dạt dào. Rất khó có thể cho ta tìm thấy ở nhà thơ tài danh này sự nguội lạnh nhàn nhạt một cách đơn điệu trung bình đều đều,phẳng lặng. Với nhà thơ thì :

"Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm"

(Giục Giã- Xuân Diệu)

Hai câu thơ thể hiện một tấm lòng ham sống,say mê sống đến tha thiết nồng nàn và mãnh liệt của nhà thơ. Một giây phút huy hoàng trong tuổi trẻ còn đáng giá gấp vạn lần khi hối tiếc khi tuổi trẻ đi qua. Và để rồi buồn trong tiếc nuối "le lói " cả trăm năm cõi đời.

Qua nhận định của nhà thơ Hoài Thanh:" Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu , say đắm cảnh trời , sống vội vàng , sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết ". Đúng vậy thơ là cốt lõi tâm tình lời thơ ý thơ viết nên cái hồn cốt cách tâm tư, trái tim của thi sĩ. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ… Và là ham muốn mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu – vội vã với nhịp đập của thời gian.

Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.            Qua việc phân tích đoạn thơ sau, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.“Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mất;Tôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay đi. Của ong bướm này đây tuần trăng mật;Này đây hoa của đồng nội xanh rì;Này đây lá của cành...
Đọc tiếp

Bàn về thơ Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.

            Qua việc phân tích đoạn thơ sau, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

 

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…”

(Trích Vội vàng, Xuân Diệu,  Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr. 22)

1
26 tháng 2 2022

Nếu phải chọn một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1930- 1945), mọi người sẽ không chút ngần ngại, chọn ngay Xuân Diệu, một nhà thơ từng được nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh xem là mới nhất trong các nhà thơ mới. Bàn về thơ của nhà thơ tài danh này, nhà phê bình tác giả quyển Thi nhân Việt Nam cũng đã khắng định:

   Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ  này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết.

   Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu đã được tôn vinh là “Ông hoàng thơ tình” với hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Hai tập thơ này cùng chung một mạch cảm xúc là say đắm tình yêu và khao khát hạnh phúc cuồng nhiệt. Đủ thấy nhà thơ đã tìm nguồn cám hứng lãng mạn ờ ngay cuộc đời trần thế. Thơ Xuân Diệu là thơ của một. tâm hồn rất yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống. Đối với tác giả tập Thơ thơ, điều kì diệu nhất là cuộc sống, điều đẹp đẽ đầy ý nghĩa nhất là con người, tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ ham sống, tha thiết với đời và khao khát tình yêu đến độ mê say. Thật vậy, Xuân Diệu yêu cuộc sống trần thế này với tất cả vẻ bình dị, trong trẻo và nồng nhiệt nhất bằng một trái tim đắm đuối đến phút cuối cùng.

   Hãy để cho tôi được giã từ vẫy chào cõi thực đế vào hư.Trong hơi thở chót đăng trời đất Cũng vẫn si tinh đến ngất ngư

(Không đề)

   Chính vì vậy, nhà thơ đã quan sát, ghi nhận, và phái hiện ra dược những lạc thú của cuộc sống. Hãy nghe chính Xuân Diệu đã tâm sự: "Với long tôi, trời đất chính là mùa: Xuân với Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh... Chữ còn từ Đông sang Xuân, sao mà sung sướng thế! Lạnh chuyển ngược lên ấm, từ một rất khó chịu chuyển ngược sang một điều rất dễ chịu. Theo lộ ấy, Hè sang Thu; hiểu khoái trá cho giác quan, được rời bỏ lửa chói chang mà vào trong nước hiền hòa mát mẻ. Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi. Và ấm hay mát Thu hay Xuân, lòng cũng rạo rực những tiếng mùa ái tình ghé môi gọi mời trong gió.

Dũng là phải ham sống, biết yêu, biết tận hưởng cuộc sống trần thế như Xuân Diệu mới viết nên được những dòng cảm nhận chính xác và tinh tế đến như vậy.

   Cũng với tâm hồn đắm say và lãng mạn, trong bài Vội vàng nhà thơ đã viết:

   Của ong bướm này đây tuần tháng mật

   Này đây hoa của đồng nội xanh rì

   Này đây lá của cành tơ pha phất

   Của yến anh này đây khúc tình si

   Và này đây ánh sáng chớp hàng mi...

                                     (Vội vàng - Xuân Diệu)

   Trước mắt Xuân Diệu, cuộc sống diễn ra vô cùng sôi động, một nguồn nhựa sống bất tuyệt như đang tuôn trào dào dạt. Hai tiếng “này đây” lặp đi lặp lại nhiều lần như cho thấy những hương màu cùa mùa xuân mà nhà thơ đang trưng bày ra dãy là nhiều, là dọn sẩn món ngon của bữa tiệc trần gian không sao kể cho xiết được. Này đây, này đày... là những hình ảnh đẹp đẽ và hấp dẫn của thiên nhiên cây cỏ, lá cua cành tơ, khúc tình si của yến anh và cả hàng mi với đôi làn mắt chớp. Tất cả đều đă hiện ra trong một sắc màu sáng sủa và sinh động thể hiện “một nguồn sống dào dạt đắm say chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.

   Là người gắn bó với sự sống, vồ vập trước mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, cây cỏ và con người lại khao khát tình yêu một cách cuồng nhiệt. Xuân Diệu muốn ôm cả hương sắc của trần thế vào lòng mình.

   Ta muốn ôm

   Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

   Ta muối riết máy đưa và gió lượn

   Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

   Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

   Và non nước, và cây, và cỏ rạng...

   Đoạn thơ này với nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, trào tuôn khiến người đọc không khói liên tương đến nhịp rộn ràng cùa trái tim thi nhân phút nầy. Xưa nay, đả mấy ai có được cái ham muốn nhiệt cuồng và mãnh liệt đến như vậy. Ở đây Xuân Diệu muốn ôm vào vòng tay mình cả sự sống... mơn mởn, nhà thơ muốn net mây đưa, muốn say cánh bướm, muốn thâu trong một cái hôn nhiều... Ngay trong nụ hôn thôi, đó là cái riêng từ giữa hai người với nhau mà thi nhân lại tưởng như trong đó đã thâu tóm cả nước non, cày cỏ. Đã vậy, lòng khát khao gợi cảm, niềm say đắm với cánh trời với tình yêu của thi nhân lại ngày một tăng lên mạnh mẽ và dữ dội.

   Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

   Cho no nê thanh sắc của thời tươi

   Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn cào

(Vội vàng-Xuân Diệu)

   Cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể say đắm  thèm khát tình yêu đến nỗi đã khẳng định:

   Làm sao sống được mà không yêu

   Không nhớ  không thương một kẻ nào

(Bài thơ tuổi nhỏ - Xuân Diệu)

   Trong thơ tình của thi nhân này còn biết bao vần điệu nồng nàn, mãnh liệt và đắm say đến độ nhiệt cuồng, dữ dội:

Anh nhớ tiếng.

   Anh nhở hình

   Anh nhớ ảnh

   Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!

(Tương tư chiều - Xuân Diệu)

   Nên lúc môi ta kề miệng thắm

   Trời cà!

   Ta muốn uống hồn em!

(Vô biên- Xuân Diệu)

   Tuy Xuân Diệu đã khẳng định “cái tôi” một cách mạnh mè bằng khát vọng tận hưởng hạnh phúc trần gian như thế, nhưng do lúc bấy giờ thiếu một quan niệm biện chứng về thế giới, nhà thơ chỉ thấy thời gian là biến suy, là tàn tạ, là phôi pha và chỉ thấy ở cuối chặng đường đời là cái già, cái chết là sự hư vô:

   Tóc ngời mai mốt không đen nữa

   Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi

   Già nua đã bó sẵn hai tay

   Hôm ấy trông ta gượng ánh ngày

   Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc,

   Ta ngồi góp lực nhớ hôm nay.

(Hư vô-Xuân Diệu)

   Già sẽ đến, giơ tay xua ánh sáng

   Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương

   Và dần dà càng rõ rệt bộ xương

   Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất.

(Thanh niên -Xuân Diệu)

   Chẳng khác chi một người có vật báu, lòng luôn nơm nớp lo sợ mất nó. Xuân Diệu cũng vậy. Say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, thi nhân rất sợ mất nó, vì biết rằng tuổi xuân sẽ qua đi, cuộc đời sờ mất đi. Vì thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng, cuống quýt giục giã để tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình:

   Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

   Em ơi em: tình non sắp già rồi

   Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi

   Mau với chứ, thời gian không đứng đợi ...

   Gấp đi em anh rất sợ ngày mai

(Giục giã - Xuân Diệu)

   Ở bề sâu của cái “vội vàng", của lời “giục giã" ấy vần là một tâm hồn yêu đời sâu nặng, yêu cuộc sống một cách thiết tha của Xuân Diệu. Chính vì thế khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết. Tâm hồn của nhà thơ luôn khát khao được giao cảm với đời, say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời. Với tất cả tâm hồn mình, người đã bao lần lắng nghe những tiếng nói “huyền diệu” của đất trời:

   Hãy lắng nghe em khúc nhạc thơm

   Say người như rượu tối tăn hôn

   Như hương thấm tận qua xương tủy

   Âm điệu thần tiên thẩm tận hồn

(Huyền diệu-Xuân Diệu)

   Phải nồng nàn và tha thiết lắm nhà thơ mới nghe được cả tiếng lòng của đôi kẻ yêu nhau:

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

   Lẫn đâu rung động nỗi thương yêu

(Thơ duyên-Xuôn Diệu)

   Với tất cả tâm hồn nhạy cảm đầy nồng nàn và tha thiết của mình, Xuân Diệu cũng nghe được cả sự rung động trong lòng ta và trong ý bạn.

   Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy

   Lòng anh thôi đã cưới lòng em

(Thơ duyên-Xuân Diệu)

   Đó là trong niềm vui. Nhưng ngay trong nổi buồn, Xuân Diệu cũng không hề lặng lẽ mà vẫn rất nồng nàn và tha thiết. Chính điều này đã khiến nhà thơ nhìn mọi vật trong đời giữa cái thế luôn vận động. Thật vậy, chỉ có đôi mắt xanh non của Xuân Diệu mới nhìn thấy sự “rùng mình” của ánh trăng khi nghe tiếng đàn lạnh lẽo giữa đêm thu:

   Linh lung ánh sáng bỗng rung mình

   Vì nghe nương tử trong câu hát

   Đã chết đêm rằm theo nước xanh!

(Nguyệt cầm - Xuân Diệu)

   Cũng chính đôi mắt ấy đã phát hiện ra hình hài của cái lạnh đang luồn trong gió đến, khi mùa thu mới chớm về:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

(Đây mùa thu di-Xuân Diệu)

   Trong thơ mình và ngay cả trong đời mình, Xuân Diệu lúc nào cùng thể hiện một sự tha thiết nồng nàn hay nói khác, một chất sống mãnh liệt dào dạt. Không thể tìm thấy ở nhà thơ tài danh này sự nguội lạnh hay sự nhàn nhạt một cách đơn điệu trung bình, đều đều, phẳng lặng. Với nhà thơ thì:

   Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

    Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

(Giục giã -Xuân Diệu)

   Phải hiểu là hai câu thơ này không thể hiện sự hưởng lạc hay gấp gáp mà chính là thể hiện một tấm lòng ham sống, say mê sống đến độ tha thiết, nồng nàn dạt dào và mãnh liệt của chính bán thân nhà thơ.

Tổng kết lại , đúng như nhận định của Hoài Thanh: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đái ngắn ngủi của minh. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết" Suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật cua mình, tình yêu đối với cuộc sống, với con ngươi với tuổi trẻ và tình yêu trong lòng của nhà thơ vẫn luôn luôn dạt dào và mãnh liệt. Chính vì vậy mà “ông Hoàng của thơ tình” đã khám phá được nhiều biến thất tình  của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể hiện được trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đứng lại bao nhiêu là tinh hoa (Thế Lữ).

 

 

18 tháng 1 2018

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích.

2. Thân bài:

- Cảm nhận tình yêu cuộc sống của Xuân Diệu qua đoạn thơ

Về nội dung

* Xuân Diệu đã phát hiện ra thiên đường ngay trên mặt đất, không xa lạ mà rất đỗi quen thuộc ngay trong tầm tay của chúng ta:

- Đó là bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, niềm vui và sức sống, được thể hiện qua hàng loạt các hình ảnh : ong bướm, hoa lá, yến anh, tuần tháng mật...

   +) Màu sắc: màu xanh rì của đồng nội, màu của lá non, màu của cành tơ phơ phất...=> Gợi hình ảnh non tơ, mơn mởn.

   +) Âm thanh: khúc tình si của yến anh

- Bức tranh thiên nhiên ấy còn được vẽ lên với vẻ xuân tình: mối quan hệ của thiên nhiên, cảnh vật được hình dung trong quan hệ như với người yêu, người đang yêu, như tình yêu đôi lứa trẻ tuổi, say đắm. Các cặp hình ảnh sóng đôi như ong bướm, yến anh càng làm bức tranh thiên nhiên thêm tình ý.

=> Xuân Diệu đã khơi dậy vẻ tinh khôi, gợi hình của sự vật, nhà thơ không nhìn sự vật ấy bằng cái nhìn thưởng thức mà bằng cái nhìn luyến ái, khát khao chiếm hữu.

- Bức tranh thiên nhiên đời sống con người càng đằm thắm, đáng yên hơn khi:

“Mỗi……môi gần”

=> Với Xuân Diệu cuộc sống là vui và mùa xuân là đẹp nhất.

* Tâm trạng của nhà thơ

- Niềm sung sướng hân hoan, vui say ngây ngất trước vẻ đẹp của cuộc sống trần gian.

- Tâm trạng vội vàng, nuối tiếc thời gian, nuối tiếc mùa xuân ngay cả khi sống giữa mùa xuân.

Về nghệ thuật

- Mới mẻ trong cách nhìn, cách cảm nhận cuộc sống; quan niệm thẩm mĩ hiện đại; phép điệp, liệt kê, so sánh, chuyển đổi cảm giác.

- Cấu trúc dòng thơ hiện đại.

3. Kết Bài: Đánh giá

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu.

Tình yêu đời của Xuân Diệu đem đến quan niệm nhân sinh tích cực.

Câu 1: (8,0 điểm)Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về quan niệm sống của Xuân Diệu trong đoạn thơ sau:“Ta muốn ômCả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiềuVà non nước, và cây, và cỏ rạng,Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,Cho no nê thanh sắc của thời tươi;-Hỡi xuân hồng, ta muốn...
Đọc tiếp

Câu 1: (8,0 điểm)

Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về quan niệm sống của Xuân Diệu trong đoạn thơ sau:

“Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

(Vội vàng- Xuân Diệu)

Câu 2: (12,0 điểm)

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân)- một minh chứng tiêu biểu cho nhận

xét: “… Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời

tầm thường, tăm tối, khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp …”.

(Sách Ngữ văn 11 tập 1, nâng cao, nhà xuất bản Giáo dục, trang 150)

1
31 tháng 12 2019

Câu 1: Quan niệm sống vội vàng, sống để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời trần thế ở ngay thì hiện tại

- Nhận định tính đúng đắn của quan niệm ấy.

- Vì sao em đồng ý / không đồng ý.

- Nêu biểu hiện (có ví dụ, dẫn chứng)

- Phản đề: Có phải lúc nào cũng sống vội vàng.

- Liên hệ bản thân.

Câu 2:

Chứng minh bằng tác phẩm Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân.

- Vấn đề: Nhà văn Nguyễn Tuân nhìn thấy cái đẹp ở những số phận tầm thường, tăm tối, cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp (chứng minh bằng quản ngục và Huấn Cao)

23 tháng 3 2021

Bạn tham khảo dàn ý nhé:

a) Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

+ Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, được mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ tình cháy bỏng, nồng nàn.

+ Bài thơ Vội vàng là một sáng tác rất tiêu biểu của Xuân Diệu nói lên tiếng lòng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời.

- Khái quát nội dung khổ cuối: Thể hiện khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống được cảm nhận qua các giác quan cơ thể hết sức tinh tế và sâu sắc.

b) Thân bài

* Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên được hiện lên một lần nữa

- Các hình ảnh mây, gió, nước, bướm, cây cỏ… hiện lên với sức sống căng tràn, tươi mới

=> Cái “mơn mởn” của sự sống khiến tác giả như tham lam “muốn ôm” lấy tất cả.

- “mau đi thôi” : câu cảm thán thể hiện sự tận hưởng thiên nhiên, tận hưởng thời gian và cuộc sống

=> Khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được yêu thương.

* Luận điểm 2: Biểu hiện của cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt

- Câu thơ "Ta muốn ôm" chỉ có ba chữ được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ

 

-> Hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó.

- Từ ôm đến riết, đến say, đến thâu, đến cắn...

- Rất nhiều cảm giác: chuếnh choáng, đã đầy, no nê...

-> Cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn.

- Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần), cho (3 lần)

=> Nhà thơ muốn ôm ghì, siết chặt cuộc sống trong vòng tay của mình vì sợ mất nó, muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất, tận hưởng những gì non nhất, ngon nhất của sự sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, non nước, cây và cỏ rạng.

=> Sự vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống của nhà thơ.

* Luận điểm 3: Sự cảm nhận của tác giả qua các giác quan của cơ thể.

- Tác giả cảm nhận cuộc sống và thiên nhiên qua thị giác, khứu giác, thính giác,…

+ Thị giác: cảm giác mơn trớn của thiên nhiên

 

+ Khứu giác: cảm nhận mùi hương đẹp đẽ của thiên nhiên

+ Thính giác: cảm nhận được âm thanh của thiên nhiên

- Tác giả tận hưởng bằng tất cả các giác quan để rồi lịm đi trong niềm mê đắm ngây ngất: "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi"

-> Tình yêu cuồng nhiệt, mãnh liệt của tác giả.

* Đặc sắc nghệ thuật

- Giọng thơ yêu đời vồ vập thấm vào từng câu từng chữ

- Câu ngắn dài đan xen linh hoạt, nhịp thơ nhanh mạnh

- Hàng loạt các điệp từ, điệp ngữ tuôn trào hối hả, dồn dập

c) Kết bài

- Khái quát ý nghĩa của đoạn thơ cuối đối với tác phẩm.

- Cảm nhận của bản thân.

Ví dụ: Vội vàng là lời tự bạch của Xuân Diệu trước cuộc đời lúc bấy giờ, khắc họa rõ nét gương mặt riêng của con người thi nhân, trong đó đoạn cuối bài thơ chính là những nét tiêu biểu, sinh động nhất của hồn thơ ấy. Đoạn thơ đã đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời và sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với cuộc đời.

23 tháng 3 2021

Xuân đương tới....cũng mất

ví dụ 3 câu này trong đoạn 2 nè bạn

23 tháng 3 2021
Mùa xuân của thiên nhiên có sự tuần hoàn lặp lại, nhưng mùa xuân của con người chỉ có một lần duy nhất, qua rồi thì không lấy lại được. Quy luật bước đi tuyến tính của thời gian quá tàn nhẫn và lạnh lùng mà không một ai có thể ngăn cản được.Xuân Diệu luyến tiếc mùa xuân, luyến tiếc cuộc đời, lòng yêu sống, ham hưởng thụ những gì tốt đẹp nhất thôi thúc ông hướng đến triết lý mới mẻ: Hãy tận hưởng bằng tất cả tâm hồn và thể xác khi còn có thể!
1. Tìm hiểu bài thơ “Vội vàng” – Xuân Diệu- Tìm hiểu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác của Xuân Diệu?- Tìm hiểu bài thơ “Vội vàng”:+ Hoàn cảnh sáng tác, bố cục của bài thơ?+ Ước muốn đoạt quyền tạo hóa được nhà thơ thể hiện như thế nào qua 4 câu thơ đầu?+ Phân tích bức tranh thiên đường trên mặt đất qua 9 câu thơ tiếp theo?+ Quan niệm về thời gian của nhà thơ qua 17 câu thơ...
Đọc tiếp

1. Tìm hiểu bài thơ “Vội vàng” – Xuân Diệu

- Tìm hiểu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác của Xuân Diệu?

- Tìm hiểu bài thơ “Vội vàng”:

+ Hoàn cảnh sáng tác, bố cục của bài thơ?

+ Ước muốn đoạt quyền tạo hóa được nhà thơ thể hiện như thế nào qua 4 câu thơ đầu?

+ Phân tích bức tranh thiên đường trên mặt đất qua 9 câu thơ tiếp theo?

+ Quan niệm về thời gian của nhà thơ qua 17 câu thơ tiếp?

+ Khát khao giao cảm, hòa nhập qua 9 câu thơ cuối?

2. Tìm hiểu bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận

- Tìm hiểu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác của Huy Cận.

- Tìm hiểu bài thơ “Tràng giang”:

+ Hoàn cảnh sáng tác, bố cục của bài thơ?

+ Phân tích ý nghĩa nhan đề và lời đề từ của bài thơ?

+ Phân tích bức tranh thiên nhiên trong khổ 1?

+ Phân tích bức tranh thiên nhiên trong khổ 2?

+ Phân tích bức tranh thiên nhiên trong khổ 3?

+ Phân tích bức tranh thiên nhiên trong khổ 4?

 

1
19 tháng 2 2021

1. Tìm hiểu bài thơ “Vội vàng” – Xuân Diệu:

Tham khảo:

1,

Nhà thơ tình Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại Tỉnh Bình Định, nước Việt Nam. Thi sĩ Xuân Diệu được mệnh danh là "Ông hoàng thơ tình". Ông là một cây đại thụ của thơ ca Việt Nam và được xem là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của thi ca Việt Nam. Trong suốt quá trình sáng tác, Xuân Diệu đã viết khoảng 450 bài thơ và còn một số lớn tác phẩm chưa được công bố. Ông còn là một nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng của văn học Việt Nam. Thơ của Xuân Diệu xoay quanh đề tài ca ngợi quê hương đất nước, tình yêu và thiên nhiên... Thơ của ông phong phú về giọng điệu, có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. 

2,

1. Xuất xứ

- Rút ra trong tập Thơ Thơ

- Là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp thơ Xuân Diệu trước Cách mạng

2. Bố cục

- Phần 1 (câu 1 đến câu 29): lí do phải sống vội vàng

- Phần 2 (còn lại): biểu hiện của cách sống vội vàng

2. Tìm hiểu bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận:

1,

-  Huy Cận (1919-2005) quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

- Thuở nhỏ ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học.

- Năm 1939 ra Hà Nội học ở Trường Cao đẳng Canh nông.

- Huy Cận là nhà thơ lớn, một đại biểu xuất sắc của phong trào Thơ Mới với hồn thơ ảo não.

- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí.

2,

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939

- Cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la, vắng lặng

2. Bố cục

- Phần 1 (khổ 1): cảnh sông nước và tâm trạng buồn của thi nhân

- Phàn 2 (khổ 2 + 3): cảnh hoang vắng và nỗi cô đơn của nhà thơ

3,

* Ý nghĩa nhan đề:

– Gọi Tràng Giang để tránh trùng lặp với Trường Giang, con sông dài trong thơ đường.

– Tràng Giang gợi hình ảnh mênh mông sông nước, dòng sông được mở rộng vô biên.

– Nhan đề vừa gợi ra ấn tượng khái quát và trang trọng, vừa có chút cổ điển.

=>Tràng Giang gợi âm hưởng dài, rộng, ngân vang trong lòng người đọc, ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

* Ý nghĩa lời đề từ:

– Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ của tác giả.

+ Nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la.

+ Hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, nỗi niềm của cái tôi.

– Lời đề từ chính là khung cảnh để tác giả triển khai toàn bộ cảm hứng.

4,

Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó gợi lên hình ảnh những con sóng lồng lên nhau và dòng nước cuốn trơi đi xa. Trên dòng dông hình ảnh con thuyền lững lờ xuôi mái nước song song. Dòng sông rộng lớn là thế sao lòng người đầy ắp nỗi buồn. Thuyền và nước luôn gắn liền với nhau thuyền đi được là nhờ nước xô đi thế mà trong thơ Huy Cận lại thấy thuyền và nước chia lìa, bị xa cách nghe đầy xót xa gợi trong lòng nhà thơ buồn trăm ngả, "Trăm" là số nhiều chỉ nỗi buồn dài vô hạn. Hình ảnh "củi khô" chỉ sự cô đơn nhỏ bé, "lạc" mang nỗi buồn vô định trôi nổi, lênh đênh trước cảnh thiên nhiên rộng lớn gợi cho người đọc thấy được cảnh cô đơn trống vắng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông còn người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng trước mắt nhà thơ lại hiện ra những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Hình ảnh bèo trôi dạt gợi sự bấp bênh, trôi nổi không biết đi đâu về đâu vô định hướng giữa dòng sông. Ở đây tác giả không chỉ một hay hai cái bèo mà "hàng nối hàng". Hình ảnh gợi cho người đọc đau xót, cô đơn trước thiên nhiên mênh mông rộng lớn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

"Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật."

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Hết nhìn xung quanh, nhìn ra xa và nhà thơ lại tiếp tục nhìn ra bầu trời:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Câu thơ giúp người đọc hình dung ra những núi mây trắng xóa được ánh nắng chiếu vào nhìn như được dát bạc. Động từ "đùn" sử dụng rất tài tình những đám mây như có nội lực bên trong từng lớp mây cứ đùn ra đùn mãi.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Hai câu thơ cuối chúng ta bắt gặp nét tâm trạng hiện đại của nhà thơ:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Từ láy "dờn dợn" kết hợp với cụm từ "vời con nước" cho thấy nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.