K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 12 2021

thay các từ Bé Thu thành từ Tôi

24 tháng 12 2020

bạn tham khảo nhé

Hôm vừa rồi tôi gặp lại bác Ba đồng chí của ba tôi trong chiến trường ác liệt. Bác đưa cho tôi kỷ vật là chiếc lược ngà như lời hứa của ba ngày trở về. Chiến tranh ác liệt khiến ba tôi không thể trở về, tôi lại nhớ về kỉ niệm ngày trước khi được gặp ba. Tự trách mình sao lại hững hờ và vô tâm với ông như vậy.

  

Từ nhỏ tôi đã không biết mặt ba, chưa một lần gặp. Tôi chỉ nhìn bức ảnh ba chụp chung với mẹ để hình dung ra ông. Một hôm, tôi đang vui chơi có một người đàn ông lạ mặt đến trước nhà và tự xưng là ba và còn gọi tên tôi. Tôi vô cùng bất ngờ và lo sợ, người đàn ông này có vết thẹo trên mặt. Tôi sợ hãi, chạy vào nhà gọi má.

Trong thâm tâm của tôi, ông là một người xa lạ. Trong những ngày ba ở nhà tôi đã đối xử thậm tệ, nhất quyết ngăn cản không cho ông ngủ cùng với má con tôi. Tôi còn không làm theo lệnh khi ông bắt trông nồi cơm hay gọi trống không khi mời ba vào ăn cơm. Tôi nhất định không thể dùng tiếng ba thân thương gọi với một người xa lạ. Ông gắp đồ ăn cho tôi nhưng tôi không thích nên đã hất đi và thế là ông đánh tôi. Tức quá tôi chạy sang bà ngoại,vừa khóc vừa kể lại.

Đêm hôm đó bà ngoại mới giải thích cho tôi vết thẹo trên mặt của ba, bà còn kể với tôi do kẻ thù đã khiến khuôn mặt của ba tôi biến dạng. Tôi chợt cảm thấy có lỗi với ba, quay trở về nhà nhưng không đủ can đảm để gọi. Đến khi ông sắp quay trở lại chiến trường, tôi chợt òa khóc và cất tiếng gọi. Tôi khóc, nũng nịu trong lòng ba, không cho ba đi nhưng nhiệm vụ ở chiến trường không thể ở lại. Ba hứa ngày về sẽ tặng cho tôi một chiếc lược ngà.

Ngày hôm nay cầm món quà của ba tặng tôi cảm thấy rất nhớ ông ấy, cảm thấy có lỗi vì những suy nghĩ non nớt trẻ thơ làm ba buồn. Dù ba đã không còn nhưng tình cảm thiêng liêng của ông dành cho tôi tất cả đã gói gém trong món quà: chiếc lược ngà.

24 tháng 12 2020

Tôi đưa tay móc từ trong túi chiếc lược ngà. Xõa mái tóc, tôi khẽ chải. Nó thật êm dịu. Giống hệt như ba tôi đang về chải tóc cho tôi. Ấp cây lược vào lòng, hồi ức xưa bỗng hiện về rõ ràng trước mắt, tôi nghĩ về ba tôi, vừa vui sướng vừa hối hận vô cùng.

Nhà tôi ở Cù Lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa, cạnh gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Ba tôi thoát ly đi kháng chiến, đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm. Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 được kí kết, quân Pháp rút khỏi nước ta. Quân Mỹ liền nhảy vào thế chân Pháp tại miền Nam. Chúng tăng cường viện trợ cho chính quyền ngụy Sài Gòn và kéo dài cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Miền Nam lại tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược.

Ba tôi là một cán bộ kháng chiến. Ba được phân công ở lại miền Nam gây dựng, bám sát cơ sở và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam. Để hoạt động an toàn và bảo vệ lực lượng cách mạng, trong một đêm, ba tôi cùng đoàn cán bộ vượt lên cứ.

Lúc ba rời đi, tôi chưa tròn một tuổi. Sau này lớn lên, tôi chỉ nghe má kể lại và biết mặt ba qua tấm hình nhỏ mà má đã đưa. Tôi nhìn ngắm ba trong tấm hình từng ngày và mong ước một ngày được cùng má lên cứ thăm ba. Nhiều lần má lên cứ thăm ba, tôi đòi theo nhưng má không cho. Má bảo đường đi rất xa. Bọn mật thám lại rình rập theo dõi, rất nguy hiểm nên má không cho tôi theo. Tôi chỉ biết đợi chờ từng ngày.

Mỗi lần ở cứ về, má thường kể cho tôi nghe về ba. Lần nào má cũng nói ba vẫn khỏe, ba nhớ tôi nhiều lắm. Ba còn dặn má về chăm cho tôi thật tốt và dạy cho tôi học viết chữ. Má tôi đâu có biết chữ. Mỗi lần nói thế, má tôi mỉm cười. Má cũng muốn cho tôi học chữ lắm nhưng trong ấp cũng chẳng ai biết chữ cả.

Thời gian đằng đẵng trôi đi. Nỗi mong đợi ba của tôi kéo dài theo con nước. Nước lớn nước ròng đã bao lần mà ba tôi vẫn chưa về.

Bảy năm sau ba tôi mới có dịp trở về. Một buổi sáng, khi ngồi chơi trước sân, ba tôi trở về. Đó là ngày tôi không thể nào quên được. Quá mong mỏi và háo hức gặp lại gia đình, gặp lại con gái, chiếc xuồng chưa kịp cập bờ, ba đã nhảy lên khiến chiếc thuyền chòng chành.

- Thu! Con.

Nghe gọi, tôi giật mình, tròn mắt nhìn. Ba nhìn tôi, đôi mắt rưng rưng xúc động. Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, ba chầm chậm bước tới, giọng lặp bặp run run:

- Ba đây con!

- Ba đây con!

Tôi ngơ ngác, lạ lùng. Tôi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ đó là ba? Rõ ràng là ánh mắt đó rồi! Nhưng người trước mắt tôi lại không giống với ba trong tấm hình mà má đã đưa tôi”. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ba khiến tôi không chắc chắn lắm. Một chút khác biệt cũng khiến tôi hoài nghi. Tôi chớp mắt nhìn ba rồi vụt chạy và kêu thét gọi má tôi.

Trở về sau bao năm mong đợi, ba nghĩ tôi sẽ sung sướng, sẽ gào khóc và chạy vào ôm chặt lấy ba. Nhưng thực tế quá phũ phàng. Ba tôi hụt hẫng, đứng sững lại đó, hai cánh tay buông thõng xuống, nhìn theo tôi đang bỏ chạy.

Vì đường xa, ba chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, tôi đã khiến cho ba hoàn toàn thất vọng. Đêm tôi nhất quyết không cho ba ngủ với má. Ba cũng cố nằm vào giường. Tôi tuột xuống giường, đứng dưới đất chồm lên, nắm tay ba kéo ra. Kéo không được, tôi kê miệng cắn ba một cái đau điếng. Má giận tôi, la tôi, tôi cũng mặc kệ. Trong hoàn cảnh chiến tranh thế này phải trái thật khó phân biệt. Má không nói dối tôi. Nhưng tôi chưa hẳn đã tin má. Ba cũng chịu nhường tôi, ra ngủ ở chõng tre. Cho đến ngày đi, tay ba vẫn còn hằn sâu những dấu răng của tôi.

Suốt ngày, ba chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về tôi. Nhưng càng vỗ về, tôi càng đẩy ba ra. Nhất quyết, tôi không chịu gọi ba. Má có nói đó là ba và bảo gọi “ba”, tôi cũng không gọi. Tôi giận luôn cả má. Có lần má dọa đánh, tôi cũng không sợ. Tôi cứ nói trỏng và cố tránh từ “ba” ra. Ba mong mỏi được tôi gọi “ba” một tiếng nên cứ như vờ không nghe, ngồi im chờ đợi. Tôi vẫn không gọi.

Ba quay lại nhìn tôi vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên ba phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ lại chạy đi mua thức ăn. Mẹ dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Có lẽ mẹ muốn đưa tôi vào tình thế khó phải gọi ba giúp.

Tôi không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, tôi giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua. Nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước được, đến lúc đó tôi mới nhìn lên ba cầu cứu. Ba vẫn ngồi lặng im. Sợ nồi cơm nhão, mẹ về sẽ đánh, tôi nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên nhờ giúp. Vẫn là cái kiểu nói trỏng không.

Ba vẫn ngồi im như không nghe. Nghe bác Ba nói cơm mà nhão, má về thế nào cũng bị đòn, tôi càng bối rối hơn. Bác gợi ý bảo tôi gọi ba, ba sẽ giúp. Tôi còn bé nên không thể bê nổi nồi cơm để chắt bớt nước. Tiếng cơm sôi như thúc giục vào lòng tôi. Tôi nhăn nhó muốn khóc, hết nhìn nồi cơm, rồi lại nhìn lên ba và bác Ba. Suy nghĩ một lát, tôi lấy cái ghế đứng cao lên, dùng vá chắc bớt nước cứu được nồi cơm. Vừa múc tôi vừa lầm bầm trách móc.

Đến bữa cơm, ba gắp cho tôi một miếng trứng cá và bảo tôi ăn. Ba nhìn tôi với ánh mắt trìu mến. Tôi không quan tâm vì lúc đó tôi ghét ba vô cùng. Chỉ vì ba mà má giận tôi. Ba lại gây khó tôi đủ thứ. Tôi lầm lì lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ, ba vung tay đánh vào mông tôi, mắt trừng trừng và hét lên:

- Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?

Tôi vẫn ngồi im lầm lì, đầu cúi gằm xuống. Rõ ràng là ba đang cố thân thiện với tôi. Nhưng chỉ bởi tôi quá hoài nghi, một mực không chấp nhận, quyết cự tuyệt ba đến cùng. Không ai biết lí do tại sao. Chỉ có mình tôi hiểu điều đó. Sự phản ứng của tôi là một sự bướng bỉnh đáng ghét. Không hiểu sao lúc ấy tôi lại không nói ra điều mình đang nghĩ. Nếu nói ra chắc ba đã hiểu, má cũng hiểu và giải thích cho tôi hiểu.

Tôi cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Tôi không muốn ăn nữa. Không ai thương tôi hết! Tôi sẽ sang với ngoại. Tôi nhảy xuống bến, nhẩy xuống xuồng, mở lòi tói và cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to để mọi người biết, rồi lấy dầm bơi qua sông. Tôi méc với ngoại mọi chuyện. Chiều đó, mẹ sang dỗ dành tôi cũng không chịu về. Mẹ kể lể với ngoại về hành động của tôi. Ngoại rất buồn.

Đêm ấy, nằm trong lòng ngoại, ngoại dò hỏi vì sao tôi lại đối xử với ba như vậy. Lúc này, mọi tâm tư trong lòng tôi như vỡ òa ra. Tôi nói nhỏ với ngoại, người đàn ông đó rất giống ba nhưng lại khác ba vì có vết sẹo ở trên mặt, còn ba thì không có.

Đến lúc này, ngoại mới vỡ lẽ ra và hiểu tận tấm lòng của tôi. Ngoại ôm chặt tôi thủ thỉ rằng ba đi chiến đấu, chiến trường khốc liệt, kẻ thù tàn bạo. Vết sẹo đó do bom đạn của kẻ thù gây ra. Ba đã anh dũng chiến đấu, vào sinh ra tử. Ba là một người can trường, chiến đấu vì sự bình yên của xóm làng, vì hòa bình của đất nước. Lâu lắm ba mới về. Ngoại khẳng định đó là ba tôi.

Bây giờ tôi mới hiểu ra tất cả. Tôi thấy hối hận quá. Giá mà tôi nói ra điều đó sớm hơn. Giá mà có ai đó hiểu được suy nghĩ của tôi và nói cho tôi biết sự thật ấy. Tôi nằm thở dài và suy nghĩ. Tôi sẽ xin lỗi ba. Nhất định rồi. Tôi sẽ xin ba tha thứ và sẽ gọi “ba”, sẽ ôm ba vào lòng, kể cho ba nghe chuyện ở nhà. Nhưng sáng mai ba phải đi rồi. Nỗi lo lắng khiến tôi thao thức không sao ngủ được.

Sáng hôm sau tôi theo ngoại về nhà thật sớm. Bà con bên nội, bên ngoại đến rất đông. Ba tôi phải lo tiếp khách, không chú ý đến tôi nữa. Còn má thì lo chuẩn bị đồ đạc cho ba. Má xếp từng chiếc áo, gói ghém đồ đạc vụn vặt vào cái túi nhỏ, cứ mãi lúi húi bên chiếc ba lô.

Tôi như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba. Tôi muốn nói với ba nhưng ngại quá. Mọi người lúc ấy rất đông. Tôi không đủ can đảm để bước tới. Tôi nghĩ về những hành động của tôi mấy ngày trước. Ba sẽ không giận tôi chứ? Chắc ba không giận tôi đâu! Tôi nhón gót định chạy tới chỗ ba thì ba lại quay đi chào khách. Tôi đành đứng đó chờ đợi.

Nhưng ba đã chuẩn bị xong. Nhìn ba khoác ba lô lên vai và bắt tay hết mọi người tôi biết ba sắp đi. Tôi sợ hãi vô cùng. Tôi muốn thét lên “Ba ơi con đang ở đây! Con xin lỗi ba!”. Nhưng có cái gì đó chôn chặt chân tôi dưới đất không thể nhúc nhích được. Cho đến khi ba quay lại nhìn tôi. Đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu của ba đang nhìn tôi. Lòng tôi bỗng rộn rã vui mừng.

- Thôi! Ba đi nghe con! - Ba tôi khe khẽ nói.

Chỉ cần có thế thôi. Nó như xóa đi khoảng cách giữa tôi và ba. Nó xé tan bức màn đen tối che phủ. Nó kết nối tôi và ba lại. Tôi chờ khoảnh khắc ấy cả buổi sáng nay. Quá sung sướng, tôi kêu thét gọi “ba…a..a..” tha thiết. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người có mặt hôm đó. Không ai có thể ngờ rằng tôi lại nhận ba lúc này. Đó là tiếng “ba” mà tôi cố đè nén trong bao nhiêu năm nay. Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ lòng tôi. Vừa kêu tôi vừa chạy xô tới bên ba. Nhanh như một con sóc, tôi chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba tôi, thút thít khóc.

Tôi không muốn cho ba đi. Nhất định không cho ba đi. Ba bế tôi lên dỗ dành. Tôi càng ôm chặt lấy ba hơn. Tôi hôn ba cùng khắp. Tôi hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nữa. Chỉ tại nó mà tôi không chịu nhận ba. Chỉ tại nó mà ba tôi phải khổ tâm mấy ngày qua. Tôi hôn lên vết sẹo thật nhiều để nhắc nhở mình phải ghi nhớ, phải thương ba nhiều hơn nữa.

Lúc ấy, ba xúc động quá, không nói được lời nào. Ba đã khóc. Ba rút khăn lau nước mắt, hôn lên mái tóc tôi rồi vỗ về. Ba hứa rằng ba đi rồi ba sẽ về với tôi.

Tôi thét lớn không chịu, hai tay nó siết chặt lấy cổ ba. Tôi lại bướng bỉnh. Tôi không muốn ba đi. Sợ ba sẽ đi mất. Sợ hai tay không thể giữ được ba, tôi dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba. Vừa cố gắng ôm ba thật chặt, vừa không ngừng gọi “ba ơi” và khóc thảm thiết. Nước mắt tôi ướt đầm cả hai vai áo ba. Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh không ai cầm được nước mắt.

Thời gian nghỉ phép ngắn ngủi. Cuộc chuyển giao lực lượng giữa hai miền đang diễn ra. Ba chưa biết sẽ ở lại hay phải tập kết ra Bắc nên phải trở về đơn vị để kịp nhận lệnh. Thế là đã đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về. Lúc tụt xuống tôi còn cố hôn ba thêm cái nữa và dặn ba nhớ mua cho tôi cái lược. Ba ôm hôn tôi thật lâu và hứa sẽ trở về với một cây lược thật đẹp.

Sau đó ba trở lại miền Đông. Ba là cán bộ đoàn thể nên không đi tập kết mà ở lại tiếp tục bám sát cơ sở. Sau hiệp định, quân Mỹ lật lọng phản ước. Chúng tăng cường lực lượng ở miền Nam với âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh. Từ đó, tôi cũng không nhận được tin gì của ba.

Mấy năm sau, một buổi chiều, có người nói với má rằng ba tôi đã hy sinh. Cái tin dữ đó khiến tôi rụng rời chân tay và khóc thật nhiều. Má cũng khóc thật nhiều. Má cố giấu tôi chuyện đó nhưng tôi đã nghe được rồi. Người ta nói trong một trận càn ác liệt, ba tôi bị một viên đạn bắn xuyên qua ngực. Ba đã chiến đấu anh dũng cho đến hơi thở cuối cùng. Đồng đội đã bí mật chôn cất ba ở trong rừng. Ba đã để lại cho tôi một chiếc lược ngà, chiếc lược nhỏ xinh, răng lược đều tăm tắm khác dòng chữ nhỏ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba".

Tới tận bây giờ, khi áp chiếc lược vào lòng tôi thầm hứa sẽ sống xứng đáng với ba, với má, với Tổ quốc thiêng liêng. Quân giặc hung bạo, cuộc chiến có thể kéo dài. Bom đạn có thể ngăn cách tôi với ba nhưng không thể nào giết chết được tình yêu ba và lòng yêu nước trong tôi.

18 tháng 10 2016

Bạn tham khảo nhé

Bài làm

Thông minh vốn là quý thật của con người. Sự thông minh và trí khôn dân gian giúp con người vượt qua những thách đố oái ăm, có được nguồn trí thức cần thiết cho cuộc sống. Câu chuyện Em bé thông minh là tôi kể ra đây sẽ thể hiện điều đó. Chuyện như sau.

Thuở xưa có vị vua nọ sai một viên quan đi dò la khắp nơi tìm người tài giỏi. Viên quan đi thật nhiều nơi, đến nhiều chỗ, đến đâu cũng ra những câu đố oái ăm để hỏi mọi người. Thế nhưng viên qua thấy vẫn chưa có người nào thông minh, lỗi lạc.

Một hôm, viên quan cưỡi ngựa đi qua một cánh đồng làng, chợt thấy bên đường có hai cha con nhà nọ đang cày ruộng. Quan bèn dừng lại hỏi:

- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Câu hỏi thật khó nên người cha chỉ biết ngẩn ra, chưa tìm được cau trả lời cho viên quan. Thấy thế, đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi lại quan rằng:

- Thế xin hỏi lại ông câu này đã. Ông cho tôi biết ngựa của ông đi một ngày được mấy bước thì tôi sẽ cho ông hay trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe cậu bé hỏi vậy thì há hốc mồm sửng sốt, chưa biết đáp sao cho ổn. Quan thầm nghĩ, nhất định nhân tài có ở đây rồi, cha phải đi tìm đâu cho tốn công sức. Quan bèn hỏi tên, quê quán của hai cha con rồi một mạch về tâu vua.

Nghe chuyện, vua mừng lắm. Nhưng, để biết chính xác hơn, vua cho thử tài một lần nữa. Vua sai ban cho làng có em bé ở ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh nuôi làm sao cho ba con trâu đực ây đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải nộp đủ, nếu không thì cả làng bị tội.

Khi nghe tin này, cả làng đều lo lắng. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn ra tán vào nhưng vẫn chưa tìm được cách giải quyết. Mọi người đều lo cho tai họa sắp tới. Việc đến tai em bé con người dân cày, em liền bảo cha:

- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu nấu thúng gạo nếp để dân làng ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu, một thúng gạo, ta xin làng làm tổn phí cho cha con mình trẩy kinh lo liệu việc này.

- Đã ăn thịt trâu còn lo liệu thế nào? Mày đừng có bày dại mà bay mất đầu, con ạ!

- Cha cứ mặc con lo liệu, liệu thế nào cũng xong xuôi mọi chuyện.

Người cha ra đình trình bày ý kiến với dân làng. Mọi người nghe nói đều sứng sốt, đến nước cùng, họ nghe theo nhưng bắt cha con phải làm giấy cam đoan, rồi ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cho con lên đường vào kinh thành. Đến hoàng cung, người con bảo cho đứng đợi ở ngoài còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc nức nở. Vua sai lính đưa em bé vào, phán hỏi:

- Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?

Em bé vờ vĩnh đáp rằng:

- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cho con đẻ được nhờ.

Nghe nói, vua và các quan đều bật cười. Vua lại phán:

- Mày muốn có com thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực sao mà đẻ được.

Em bé như mở cờ trong bụng. Em đáp:

- Thế sao làng của con lại bị lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!

Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra giết thịt mà ăn với nhau à?

Em bé tươi tỉnh đáp:

- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc vua ban, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và các triều thần chịu đứa bé là thông minh, lỗi lạc. Nhưng vua còn muốn thử em một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé nhờ cho lấy cho mình một cái kím may rồi đưa cho sứ giả, bảo rằng:

- Ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Sứ giả về tâu vua, vua thán phục tài trí của cậu bé rồi lập tức cho gọi ca hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.

Cùng thời gian đó, có một nướng láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên ta có nhân tài hay không, họ sai sứ giả đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rộng hai đầu, đố làm sao xâu một sởi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích của cuộc đi sứ ở nước ta, vua quan đưa mắt nhìn nhau, chẳng tìm ra câu giải đáp. Không trả lời được câu đố oái ăm tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự khuất phục của mình đối vơi nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút, có người lấy sáp bôi vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu... Nhưng tất cả đều vô hiệu. Bao nhiêu nhà thông thái, bao nhiêu trạng nguyên được triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình mời sứ thần ra ở công quán để có thời gian hỏi ý kiến em bé thông minh nọ.

Khi viên quan mang dụ chỉ đến thì em bé còn đùa nghịch ở sau nhà. Nghe nói việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên rằng:

Tang tình tang, tình tính tang

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng

Bên thời lấy giấy mà bưng

Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang

Tang, tình tang...

Em bé bào thêm:

- Cứ theo cách đó là xâu được ngay!

Viên quan mừng rỡ vội trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói rất vui mừng, mọi người vơi đi những lo toan trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sởi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước sự thán phục của sứ giả láng giềng.

Thế là, em bé được vua ban làm Trạng Nguyên và được vua cho dinh thự ở một bên hoàng cung để vua tiện hỏi han.

Sự thông minh của em bé đã làm nên việc lớn. Trí thông minh của em đã giúp ích cho gia đình, giúp ích cho quê hương, đất nước.

15 tháng 12 2016

Có ông vua nọ, vì muốn tìm người hiền tài nên đã cho toi la một viên quan đi dò la khắp cả nước. Viên quan ấy đến đâu cũng ra những câu đố oái oăm, hóc búa để thử tài.

Một hôm đi qua cánh đồng làng kia, viên quan thấy hai bố con đang làm ruộng bèn hỏi một câu rất khó về số đường cày con trâu cày được trong một ngày. ông bố không trả lời được, cậu con trai nhanh trí hỏi vặn lại khiến viên quan thua cuộc. Biết đã gặp được người tài, viên quan nọ về bẩm báo với vua. Vua tiếp tục thử tài, bắt dân làng đó phải làm sao cho trâu đực đẻ ra trâu con. Bằng cách để cho nhà vua tự nói ra sự vô lí trong yêu cầu của mình, cậu bé đã cứu dân làng thoát tội. Cậu tiếp tục chứng tỏ tài năng bằng cách giải các câu đố tiếp theo và được nhà vua ban thưởng rất hậu.

  

Vua nước láng giềng muốn kéo quân sang xâm lược nhưng trước hết muốn thử xem nước ta có người tài hay không bèn cho sứ giả mang sang một chiếc vỏ ốc vặn thật dài và đố xâu sợi chỉ qua. Tất cả triều đình không ai giải được lại tìm đến cậu bé. Với trí thông minh khác người, lại sống gần gũi với thực tế, cậu bé vừa chơi vừa giải đố, kết quả là tránh được cho đất nước một cuộc chiến tranh. Nhà vua thấy thế bèn xây dinh thự ngay cạnh hoàng cung để cậu ở cho tiện việc hỏi han đồng thời phong cho cậu làm trạng nguyên.

4 tháng 1 2021

Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ  kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!

        Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.

Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:

- Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.

Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:

- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!

         Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mới sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về  tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.

Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta  ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.

Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.

          Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.

Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.

Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.

13 tháng 3 2022

tham khảo

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích em liên tưởng ngay đến những ông bụt, bà tiên, những vị thần giúp đỡ người tốt trong lúc nguy nan cấp bách hay đau khổ. Một trong những truyện cổ tích em được đọc nhiều lần và nhớ rõ từng chi tiết chính là truyện Cây tre trăm đốt.

Câu chuyện Cây tre trăm đốt kể về một lão nhà giàu và một anh nông dân nghèo. Lão nhà giàu tuy có tiền nhưng lại rất keo kiệt, chỉ biết ăn của người, anh nông dân nghèo phải đi cày thuê ruộng cho lão nhưng lão lại không muốn trả tiền liền nghĩ ra cách dỗ dành anh chịu khó cày bừa đủ ba năm sẽ gả con gái cho. Anh nông dân tính thật thà liền tin ngay, chăm chỉ làm lụng cả vụ lúa mùa đến vụ lúa chiêm, kiếm cho lão nhà giàu không biết bao nhiêu là thóc lúa.

Đến hạn ba năm trôi qua, lão nhà giàu không muốn gả con gái cho anh nông dân nên lừa anh đi chặt cây tre đủ 100 đốt về làm đũa cho cả làng ăn cỗ. Anh nông dân khờ tưởng cây tre trăm đốt có thật nên vào rừng chặt nhưng làm gì có cây tre nào đủ 100 đốt, may thay anh là người thật thà lại ăn ở tốt nên được trời thương, có một ông lão dạy anh đọc câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất". Từ 100 đốt tre có thể liền thành một cây tre cao vút thẳng tắp, anh nông dân đã thành công có được cây tre đủ 100 đốt.

Thế nhưng khi mang tre về anh nông dân biết mình đã bị lừa, lão nhà giàu đang mở tiệc linh đình gả con gái cho tên nhà giàu khác. Thấy vậy anh ta liền đọc câu thần chú "khắc nhập" nhốt cả lão nhà giàu và những tên nhà giàu khác vào trong cây tre, lúc sau khi lão đã hứa gả con gái thì anh nông dân mới đọc "khắc xuất" để họ được ra ngoài.

Quả thực những người tốt sẽ luôn gặp điều lành, may mắn giống như câu "Ở hiền gặp lành" còn những người xấu ác trước sau gì cũng phải chịu quả báo cho những việc mình đã gây ra.

13 tháng 3 2022

tham khảo :

Tôi là Khoai, là một người nông dân hiền lành. Nhà tôi nghèo, bố mẹ lại mất sớm nên tôi phải đi ở cho một lão nhà giàu trong làng. Nhà lão ta rất nhiều ruộng vườn, trâu bò, của cải nhưng lão chưa thoả mãn. Thấy tôi hiền lành, khoẻ mạnh, chăm chỉ lại thạo việc đồng áng, lão ta muốn tôi làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão ta gọi tôi đến và khôn khéo nói với tôi:-Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn, ba năm nữa ta sẽ gả con gái và cho hai vợ chồng một nửa gia tài.Nghe lão dỗ ngon dỗ ngọt, tôi tưởng lão nói thật và cứ thế quần quật làm việc cho lão. Sau ba năm, nhờ công sức của tôi, lão có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được trâu bò, ruộng vườn. Rồi một hôm, lão lại gọi tôi đến và bảo với tôi một cách thân mật:-Con thật có công với nhà ta. Con đã chịu khó ba năm trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.Tôi mừng quá bèn hăm hở xách dao lên rừng. Tôi không hề biết rằng lão nhà giàu đã không giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một lão nhà giàu khác trong vùng. Hôm tôi lên rừng cũng chính là hôm hai lão nhà giàu chuẩn bị làm lễ cưới cho con trai, con gái cùa chúng. Sau này nghe mọi người kể lại tôi mới biết ràng: ở nhà, hai lão nhà giàu hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm, suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre dài đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ”.Tôi hì hục trèo đèo, lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm, nhưng chi thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Thất vọng quá, tôi ngồi bưng mặt khóc. Bỗng nhiên có ai đặt tay lên vai tôi và một giọng êm ái cất lên:-Làm sao con khóc giữa rừng vậy?Nghe tôi kể lể sự tình, Bụt cười, bảo:-Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập, khắc nhập” thì có ngay cây tre trăm đốt thôi!”.Nói xong, Bụt biến mất. Tôi làm đúng lời Bụt bảo. Quả nhiên cả trăm đốt tredính liền với nhau thành một cây tre dài trăm đốt thật! Tôi sung sướng nâng cây tre lên vác về. Nhưng cây tre dài quá, vướng bờ bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Không biết làm thế nào, tôi cùng chỉ biết ngồi khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:-Có cây tre trăm đốt rồi, sao con còn khóc?Tôi nói với Bụt là cây tre dài quá không thể vác về nhà được. Bụt liền ân cần bảo:-Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất” thì những đốt tre ấy sẽ rời ra!Tôi làm theo lời Bụt và đúng là cả trăm đốt tre rời ra thật. Tôi kiếm dây buộc thành hai bó, gánh về.Lúc về tới nơi, thấy hai họ đang ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, tôi mới biết là lão nhà giàu lừa mình. Tôi giận lắm nên không nói gì cả. Tôi lẳng lặng xếp một trăm đốt tre nổi nhau và hô: “Khẳc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Ai cũng ngạc nhiên, trầm trồ thán phục. Lão chủ cũng chạy lại gần cây tre để xem, tôi đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”. Lão ta bị dính chặt vào cây tre, cố giãy giụa nhưng không tài nào rứt ra được. Lão thông gia thấy vậy, chạy lại định gỡ cho lão chủ nhà. Đợi lão tới gần, tôi lại đọc: “Khắc nhập, khắc nhập”. Thế là lão ta cũng bị dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy tôi xin tôi gỡ ra cho. Lão chủ hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho tôi ngay hôm đó. Lúc bấy giờ, tôi mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng rời ra thành trăm đốt. Tôi làm lễ cưới với cô gái xinh đẹp con lão nhà giàu đó. Hai vợ chồng tôi sống với nhau hạnh phúc đến đầu bạc răng long.

TK:

 

Tôi là Sọ Dừa. Khi mẹ sinh ra, tôi không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt tôi đi, thì tôi liền nói:

- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.

Vì thương tôi nên mẹ đã để lại nuôi, đặt cho tôi cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, tôi vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Mẹ liền nói với tôi:

- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.

Tôi liền bảo với mẹ:

- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.

Nghe vậy, mẹ tôi liền đến hỏi phú ông. Từ đó tôi đến ở nhà phú ông. Ngày ngày, tôi lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Tôi thấy phú ông mừng ra mặt.

Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho tôi. Hai cô chị độc ác nên thường hắt hủi tôi. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với với tôi.

Một hôm, tôi biến thành người, ngồi thổi sáo trên lưng trâu thì tiếng động, biết có người nên tôi lại hóa về hình dáng cũ. Từ đó, cô út càng chăm sóc tôi nhiều hơn, có thức ăn ngon lại giấu đem cho tôi.

Cuối mùa ở, tôi liền về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Mẹ tôi ửng sốt lắm, nhưng thấy tôi năn nỉ mãi nên cũng sang hỏi phú ông. Khi trở về, bà nói rằng phú ông yêu cầu phải sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới đồng ý gả con gái. Tôi nói với mẹ cứ yên tâm.

Đến ngày hẹn, mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông liền hỏi ba cô con gái xem có ai đồng ý, thì chỉ có cô út.

Trong ngày cưới, tôi cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, tôi biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú sang đón cô út về làm vợ. Hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua cử tôi đi sứ. Trước khi đi, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, tôi nghe thấy tiếng con gà trống gáy vang ba lần:

- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Tôi hạ lệnh cho thuyền vào xem, thì gặp lại vợ mình. Vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc. Tôi đưa vợ về nhà, mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai người chị của vợ tôi tranh nhau kể chuyện nàng gặp phải rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Tôi không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Nhìn thấy em mình đã trở về bình an, họ xấu hổ bỏ về.

16 tháng 4 2022

sau bn viết rõ chứ Tham khảo ra nhé,chứ viết Tk ai hiểu???