K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

20 tháng 7 2020

no biết

22 tháng 7 2021

Em tham khảo nhé:

Đối với mỗi cuộc đời con người sự sẻ chia trong cuộc sống là điều vô cùng cần thiết. Vậy sẻ chia là gì? Tại sao nó lại quan trọng đến vậy?

Sẻ chia là một dạng tình cảm xuất phát từ trái tim, sự đồng cảm, và tình yêu thương, được thể hiện khi ta biết quan tâm, lo lắng và giúp đỡ những người xung quanh. Nói cách khác, sẻ chia chính là cho đi mà không mong muốn được nhận lại. Bạn biết đấy, cuộc sống là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Biết sẻ chia chắc chắn sẽ giúp bạn phát triển các mối quan hệ xã hội, tạo nên sự gắn kết với những người xung quanh, từ đó không bao giờ cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo. Đồng thời khi ai đó gặp khó khăn, giúp được họ – dù chỉ một chút thôi – chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc và thanh thản hơn rất nhiều.

Trong thực tế, không khó để ta bắt gặp và cảm phục những con người mang trong mình đức tính này. Những tình nguyện viên mang trên mình màu áo xanh tình nguyện, các mạnh thường quân không quản ngại khó khăn đến với vùng bão lũ hay đơn giản hơn là một cậu bé biết dành tiền ăn sáng tặng cho người hành khất…, đó đều là những bông hoa đẹp điểm tô cho vườn đời thêm rực rỡ.

Tuy nhiên, vẫn có một số người sống ích kỉ, chỉ biết nhận lại chứ không biết cho đi. Họ chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình mà không quan tâm đến người khác muốn gì, nghĩ gì, cần giúp đỡ gì. Đứng trước hiện tượng này, tất cả chúng ta cần học cách đồng cảm, sẻ chia với những người xung quanh từ những việc làm nhỏ nhất: gửi lời chào tới bố mẹ trước khi đi học, chúc người bạn cùng bàn một ngày tốt lành khi tới lớp… Như vậy, chắc chắn cuộc sống ý nghĩa hơn rất nhiều. Bởi đúng như một nhà văn Nga từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”.

22 tháng 11 2021

THAM KHẢO

Tình yêu quê hương đất nước trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các thi nhân, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi góp thêm một bông hoa cho vườn văn học yêu nước – bài thơ Việt Nam quê hương ta. Những câu thơ của Nguyễn Đình Thi vút lên sôi nổi, trầm hùng biết bao: 

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập

rờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

       Bốn câu thơ đầu mở ra cảnh thanh bình của làng quê Việt Nam bao đời nay sau lũy tre làng gần gũi thân thương. Để có được sự thanh bình ấy dân tộc ta đã phải trải qua rất nhiều đau thương mất mát và hi sinh: “Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau/ Mặt người vất vả in sâu/ Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”. Càng trong gian khó, phẩm chất và ý chí của con người Việt Nam lại càng ngời sáng hơn, từ những người bé nhỏ bình dị chăm chút làm ăn, khi đất nước lâm nguy họ vụt lớn lên thành những anh hùng bất khuất, kiên trung, không kẻ thù nào có thể khuất phục “chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên”. Điều đó đã lí giải vì sao một dân tộc bé nhỏ như dân tộc Việt Nam lại có thể chiến thắng những kẻ thù sừng sỏ nhất. Vẻ đẹp của những con người gan dạ dũng cảm đó không chỉ là chỉ biết cầm súng chiến đấu mà chính là bản chất hiền hòa, đôn hậu, yêu chuộng hòa bình “Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.Quê hương dưới đôi mắt của nhà thơ Nguyễn Đình Thi hiện lên vô cùng tươi đẹp, chan hòa ánh nắng, nơi có “Hoa thơm, cỏ ngọt bốn mùa trời xanh”, nơi con người biết “Yêu ai yêu trọn tấm lòng thủy chung”, nơi gắn bó bao kỉ niệm của tuổi thơ êm đềm và trở thành phần kí ức không thể xóa nhòa trong tâm trí. Để mỗi khi đi xa thì nỗi nhớ lại càng trào dâng: “Ta đi ta nhớ núi rừng/ Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ”. Nếu không có một tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước thì chắc hẳn không thể viết nên những câu thơ chạm tới miền tình cảm thiêng liêng nhất trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Mỗi lần đọc lại những vần thơ này của nhà thơ Nguyễn Đình Thi, ắt hẳn trong chúng ta không khỏi dấy lên niềm tự hào về quê hương đất nước mình.

22 tháng 11 2021

hay đấy 

7 tháng 6 2018

cái này có pải viết văn ko bn ?

Đất nước Việt Nam ta hiện ra trong khổ thơ trên của nhà thơ Nguyễn Đình Thi thật giàu đẹp và đáng yêu, thật nên thơ và hùng vĩ. Sự giàu đẹp và đáng yêu đó đựoc thể hiện qua những hình ảnh: Biển kúa mênh mông hứa hẹn một sự no đủ, cánh cò bay lả rập rờn thật thanh bình, giản dị và đáng yêu. Sự hùng vĩ và nên thơ được thể hiện qua hình ảnh đỉnh Trường Sơn cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đất nước Việt Nam ta tươi đẹp biết nhường nào!

mik vít ngắn nên ko pải bài văn nhé !

7 tháng 6 2018

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.

Từ lâu, 4 câu thơ trên đã đi vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam như một niềm tự hào về quê hương. Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh màu sắc hài hòa, tươi đẹp, rất đặc trưng của làng quê Việt. Giữa nền xanh biếc “biển lúa” là hình ảnh đàn cò trắng chao nghiêng rập rờn. Cánh cò ấy không cao vút tầng không mà “bay lả” giữa cánh đồng, dưới những đám mây mờ bị che phủ bởi đỉnh núi, mở ra khung cảnh về một đất nước thanh bình.

Để có được sự thanh bình ấy, dân tộc ta đã phải trải qua bao đau thương, mất mát, chịu bao gông xiềng của phong kiến, đế quốc. Hình ảnh “mảnh áo nâu nhuộm bùn” như minh chứng cho sự gian lao, tảo tần, cho đức hy sinh của những con người thật thà, chất phác. Trước muôn vàn khổ đau, mảnh đất nghèo biến những con người bé nhỏ thành những anh hùng bất khuất, không chịu lùi bước trước bạo tàn mà “chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên”. Trong mọi hoàn cảnh, lòng yêu nước luôn được đặt lên trên hết.

Chiến thắng của nhân dân ta cũng chính ở tinh thần tự cường và ý chí gan dạ ấy. Vần thơ Nguyễn Đình Thi độc đáo ở chỗ, bên cạnh những cụm từ nhanh, mạnh còn là những gam màu nóng của “áo nâu”, “máu lửa”, “đất đen”, thể hiện bản lĩnh kiên định của người dân chân chất yêu chuộng hòa bình. Cao cả hơn là tính nhân văn được tác giả gói gọn trong câu thơ “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Những con người không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn biết vượt qua mất mát chiến tranh, chịu thương, chịu khó cùng nhau xây dựng đất nước hòa bình, hạnh phúc.

Từ bức tranh làng quê tươi đẹp, thanh bình ở hiện tại, tác giả gợi lại hình ảnh quá khứ hào hùng của dân tộc, để rồi sau đó lại hòa âm điệu nhẹ nhàng, thanh thoát vào nhịp sống mới mẻ. Đó là một Việt Nam chan hòa ánh nắng, nơi “hoa thơm, cỏ ngọt bốn mùa trời xanh”, nơi con người “yêu trọn tấm tình thủy chung”. Đất nước còn mang vẻ hữu tình bởi vô vàn cảnh sắc tươi mới: màu đen đôi mắt trở nên “long lanh” đầy cảm xúc, bàn tay rắn rỏi trong đau thương cũng như có “phép tiên”… Tất cả dệt nên một cuộc sống tinh khôi.

Quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi in dấu tuổi thơ, nơi của những “bâng khuâng chuyến đò” mà đêm đêm vọng câu hò Trương Chi. Mảnh đất “chôn rau, cắt rốn” ấy chan chứa bao nghĩa tình, khiến ai đi xa cũng phải nhớ về. Điệp từ “ta đi ta nhớ” càng nhấn mạnh tình yêu son sắt, sự gắn bó bền chặt:

Ta đi ta nhớ núi rừng

Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ

Từ nỗi nhớ nước non đến nỗi nhớ những điều dung dị, mộc mạc:

Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô

Bát cơm rau muống quả cà giòn tan

“Ta” lớn lên nhờ đồng ruộng và khoai ngô, nhờ bữa cơm đạm bạc của rau muống, quả cà dầm tương. Thức quà của làng quê giản dị mà nuôi nấng biết bao thế hệ nên người. Dù mai này cất bước đến đâu, bữa cơm ấy vẫn luôn hiện hữu như sợi dây gắn kết để gợi nhớ quê hương. Yêu đất nước cũng chính là yêu từ bao điều bình dị như thế.

Đất nước ngày một khang trang, đời sống nhân dân cũng đổi thay rõ rệt. Vậy nhưng, hình ảnh hào hùng trong quá khứ và niềm vui của con người những năm đầu hòa bình sẽ mãi trường tồn với thời gian. Để mỗi chúng ta có thể tự hào rằng, Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn…

27 tháng 7 2021

Đất Nước của Nguyễn Đình Thi là một trong những bài thơ hay của dân tộc, tác phẩm nói đến khung cảnh thiên nhiên và tình yêu với quê hương, đất nước.

Ngay trong đầu đoạn thơ, tác giả đã nói đến khung cảnh thiên nhiên của mùa thu Hà Nội, nơi có những hương cốm thơm ngát, với tiết trời của mùa thu nhè nhẹ, thoáng mát và những cơn gió thổi của hương cốm mới:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Tác giả đang nhớ đến những năm tháng sống ở nơi phố phường Hà Nội, nơi có những cảnh vật gần gũi của mùa thu Hà Nội, của những cơn gió mát hiu hiu của tiết trời mùa thu, nơi có những hương cốm mới, làm tâm hồn của người Hà Nội đang xao xác những cảm xúc và tình cảm của con người, nơi đây, con người như đang hòa quyện với không gian của thiên nhiên, đất trời, nơi có những con phố dài man mác, với những hơi may và cảm xúc vơi đầy, sau lưng là những ánh nắng rơi đầy.

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha!

Mùa thu xưa trong tâm hồn của tác giả ngập tràn những cảm xúc, những trạng thái và rơi những cảm xúc xa xưa, nơi đây mùa thu đã rơi, và mùa thu nay đã khác xa so với mùa thu xưa, đứng giữa núi đồi năm nay, tác giả đang dần cảm nhận được những cảm xúc, trạng thái và tâm hồn của những người thi sĩ, đang say đắm, lòng người trước khung cảnh của thiên nhiên, mùa thu của núi rừng Tây Bắc, của đất trời, của những rừng tre phấp phới, trong tiết trời mùa thu của đất trời.

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Trời xanh là của chúng ta, tất cả không gian của núi rừng, của những cánh đồng thơm mát và cánh đồng đang nặng đỏ phù sa, tất cả nó đang dần thể hiện rõ trong từng khoảng khắc và tâm trạng của con người, cảm giác đó nhẹ nhàng nhưng cũng gắn bó và sâu sắc trong cảm xúc của mỗi người, với cánh đồng đỏ nặng dòng phù sa và con đường bát ngát với những núi rừng mênh mang, con người đang dần cảm nhận được những cảm xúc, gắn bó với những quy luật của cuộc sống, của không gian, mênh mông, ở đó con người như gắn bó với những cảm xúc nhẹ nhàng, sâu nắng, nơi con đường xa xôi, và da diết trong tâm hồn:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Đất nước có nhiều truyền thống tốt đẹp, của những con người đã khuất vì bảo vệ sự nghiệp cho đất nước, cho dân tộc, của những đêm bom đạn rầm rầm đổ, những tiếng cười nói đó vọng lên trong những khoảng khắc, cảm xúc của con người nói chung và tâm hồn của con người nói riêng. Những người chưa bao giờ khuất là những con người anh hùng, họ sống mãi với dân tộc Việt Nam, họ đã hy sinh vì đất nước, vì sự độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

25 tháng 10 2023

Nhắc đến cái tên Nguyễn Đình Thi, người ta nhắc đến một người con Hà Nội đa tài với nhiều tài nghệ đáng nể. Ông không chỉ viết nhạc nổi tiếng với bài Người Hà Nội mà còn viết kịch, viết truyện, viết thơ. Trong đó, tác phẩm thơ được nhiều người biết đến và được phổ thành nhạc là bài thơ Đất nước. Bài thơ là hình ảnh của đất nước Việt Nam trong mùa thu hoài niệm, trong những ngày bom lửa của chiến tranh và trong tầm nhìn về một tương lai mới tươi đẹp.

Bài thơ được viết trong một khoảng thời gian dài từ 1949 đến năm 1955 và có một số đoạn được trích từ các tác phẩm trước của ông như Sáng mát trong như sáng năm xưa hay Đêm mitting, ... Thế nhưng, với tài năng của mình, Nguyễn Đình Thi đã biến nó thành một chỉnh thể thống nhất và để nó trở thành một trong những tác phẩm thơ viết về đề tài đất nước hay nhất trong diễn đàn văn học Việt Nam.

Mở đầu bài thơ, người ta thấy hiện lên trước mắt là một khung cảnh trời thu với những hình ảnh thật hoài niệm của mùa thu Hà Nội:

"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sớm chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

Khi viết bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đang đứng giữa núi trời Việt Bắc, ấy vậy mà ông lại nhớ thương về một Hà Nội xa xôi với mùi hương cốm nồng nàn. Nếu là người Việt Nam, hẳn ai cũng biết Hà Nội đẹp nhất, thơm nhất vào những ngày thu với bầu trời trong xanh và hương cốm làng Vòng thoang thoảng đưa trong gió. Và Nguyễn Đình Thi - người con của Hà Nội cũng không ngoại lệ khi trăn trở nhớ về Hà Nội của ông.

Đứng giữa chiến khu Việt Bắc, giữa một sáng trời thu "mát trong", ông hoài niệm về một Hà Nội cũng từng có trời thu như thế và thoảng đâu trong gió, mùi cốm đưa lại dìu dịu, nồng nàn - nét đặc trưng của mùa thu Hà Nội.

Mùa thu với khung cảnh đất trời Hà Nội cứ dội về tâm trí của ông "tôi nhớ những ngày thu đã xa". Vậy ông nhớ điều gì? Nguyễn Đình Thi nhớ những con phố dài ở Hà Nội, nhớ cái chớm lạnh trên đất trời thủ đô. Làn gió "mát trong" trong lành và hơi se lạnh là cái khiến cho nhà thơ phải thao thức, phải trăn trở nhất lúc này quá khứ và hiện tại đồng hiện với nhau trong từng câu thơ, đọc thơ mà người đọc như cảm tưởng mình đang đứng giữa thủ đô trong một buổi sáng mùa thu lành lạnh vậy. Hình ảnh "hương cốm mới" gợi lên trong lòng chúng ta biết bao hoài niệm về thu Hà Nội với cốm làng Vòng gói trong những chiếc lá sen xanh ngan ngát hương sen, thoảng vào trong gió. Cái mùi hương đặc trưng của thu sẽ chẳng thể nào phai mờ trong tâm trí, như Hữu Thỉnh cũng đã từng nói về hương ổi mùa thu rằng:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Nỗi "nhớ" của người thi sĩ là nỗi nhớ về những năm tháng khi xưa, khi còn được sống giữa lòng Hà Nội để mà tận hưởng cái "chớm lạnh" se se mùa thu kia. Nguyễn Đình Thi đã tinh tế khi đặt "cái chớm lạnh" tức cái lạnh se se trở thành một phần trong nỗi nhớ Hà Nội, bởi đó là đặc trưng, là hương sắc riêng của trời thu Hà Nội. Và hơn thế, hình ảnh "những con phố dài xao xác hơi may" không khỏi khiến chúng ta mường tượng ra những con phố dài cổ kính của Hà Nội. Những con phố ấy hiện lên thật rõ trong tâm trí của nhà thơ dù ông đang ở trên Việt Bắc. Và nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng Nguyễn Đình Thi đã thật tinh tế khi ông đặt ở đây từ Hán Việt "hơi may". "Hơi may" tức là gió lạnh, thế nhưng, ông không dùng hai từ gió lạnh mà lại dùng hai từ "hơi may" khiến câu thơ trở lên đậm một chất tình, vừa êm dịu, nhẹ nhàng mà lại phảng phất đâu đó nỗi buồn. Phải chăng khi nhớ về Hà Nội, Nguyễn Đình Thi nhớ tới một Hà Nội dịu dàng, ngọt ngào như thế?

Kết thúc những hình ảnh hoài niệm về Hà Nội khi xưa là hình ảnh của người vệ quốc quân trên đường ra đi vì chí lớn. Người chiến sĩ ấy ra đi với quyết tâm lớn;

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

Ra đi vì chí lớn, quyết tâm lớn, không hề ngoảnh đầu lại, nhưng trong tâm hồn người chiến sĩ ấy là nỗi lưu luyến quê hương đến vô cùng. Những nắng những lá rơi đầy, vương đầy trên bậc thềm khiến cho lòng người càng bâng khuâng tha thiết hơn. Nỗi buồn tràn đầy khắp tâm tư người chiến sĩ nhưng chẳng hề làm lung lay cái ý chí quyết tâm của mình.

Khổ thơ đầu tiên là những hoài niệm về một Hà Nội êm đềm trong tâm trí nhà thơ. Đó là một Hà Nội những ngày còn hòa bình, còn êm dịu trước chiến tranh!

Kế tiếp theo là những dòng thơ về hiện tại, về mùa thu của đất trời trên chiến khu Việt Bắc đồng thời nó cũng thể hiện sự chuyển biến tâm trạng của tác giả. Nếu như ở đoạn thơ phía trên, Nguyễn Đình Thi thể hiện một mùa thu đầy hoài niệm, phảng phất nỗi buồn thì ở đoạn thơ này, người ta lại thấy một niềm vui phơi phới trong từng dòng thơ:

"Mùa thu nay đã khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa đất trời
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Ngay từ những câu thơ đầu của đoạn thơ này, người ta đã thấy niềm vui lan tỏa trong từng câu chữ. Nguyễn Đình Thi khẳng định "Mùa thu nay đã khác rồi", lời khẳng định chắc nịch, chứa chan niềm vui sướng, hân hoan, phấn khởi. Khổ thơ trước là sự hoài niệm, là nỗi buồn phảng phất thì ở khổ thơ này, niềm vui như được nhân lên gấp bội. Cuộc sống mới ở giữa núi rừng Việt Bắc đã cho nhà thơ nguồn cảm hứng dạt dào. Ông viết :

"Tôi đứng vui nghe giữa đất trời
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha"

Một câu thơ mà có đến ba động từ liên tiếp, thể hiện sự tập trung tới cao độ của nhà thơ khi hướng về đất nước, hướng về Tổ quốc của mình. Thêm vào đó, ông sử dụng ở trong đoạn thơ này hình ảnh "rừng tre" - đây là hình ảnh vốn là biểu tượng cho con người Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam. "Rừng tre" ấy đang "phấp phới" trong làn gió mát rượi của mùa thu, trong niềm vui phấn khởi. Cả một "rừng tre" to lớn là thế, ấy vậy mà Nguyễn Đình Thi lại sử dụng từ láy "phấp phới" để chỉ, một từ vốn chỉ dành cho những thứ mềm mại, mỏng manh, nhẹ nhàng trong gió. Điều này thể hiện niềm vui dạt dào trong tâm hồn nhà thơ cũng như trong tâm hồn của con người Việt Nam.

Tiếp theo sau, Nguyễn Đình Thi lại kể về hình ảnh của trời thu, của sắc thu. Vẫn màu xanh ấy thế nhưng, thu ở đây "trong biếc tiếng nói cười", nó là màu xanh trong của hi vọng, của hạnh phúc tràn đầy của những con người được làm chủ đất nước của mình.

"Trời thu thay áo mới
Trong biếc tiếng nói cười thiết tha"

Và niềm vui ấy còn càng trào dâng mạnh mẽ hơn với niềm tự hào về một đất nước giàu có, tươi đẹp:

"Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa '

Mỗi lời thơ là một lời giới thiệu, một niềm tự hào to lớn về Tổ quốc của mình. Chẳng thế mà nhà thơ liên tục khẳng định "đây là của chúng ta", lời khẳng định chắc nịch về chủ quyền của đất nước. Và những dòng thơ tiếp theo như một lời giới thiệu về non sông Tổ quốc mình với sự giàu có và tươi đẹp.

Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tươi vui, xen lẫn hào hùng- cảm hứng sử thi bát ngát. Ở đó chúng ta thấy được một mùa thu mới mẻ, mùa thu của hạnh phúc được làm chủ quê hương của mình.

Những dòng thơ tiếp theo là hình ảnh của một đất nước trong chiến tranh với bao đau thương, mất mát, thế nhưng, xen lẫn là niềm tự hào về truyền thống đánh giặc của cha ông.

Như chúng ta đã biết, Việt Nam đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc chiến chống quân xâm lược mà gần đây nhất là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Dù có bao nhiêu quân giặc, có mạnh mẽ đến đâu đều bị nhân dân ta đánh bại, làm nên những chiến thắng vẻ vang. Truyền thống đánh giặc ấy không phải chỉ mới có mà nó đã phát triển và được gìn giữ từ bao nhiêu thế hệ trước, từ trận Bạch Đằng đánh quân Nam Hán, đến hai cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên, chúng ta chưa bao giờ chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù nào! Nói về truyền thống đánh giặc là nói về niềm tự hào rất đỗi lớn lao của dân tộc Việt Nam ta, những lớp người Việt Nam, lớp này kế tiếp lớp khác luôn đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc dù có phải chịu bao đau thương, bao mất mát, hy sinh. Mỗi lời thơ của tác giả như một lời nhắc nhở chúng ta về đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của cha ông.

"Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về"

Khơi dậy lên trong lòng mỗi người đọc chúng ta một niềm tự hào dân tộc rất đỗi hào hùng, bởi đất nước của chúng ta là "nước những người chưa bao giờ khuất", chưa bao giờ chúng ta chịu lùi bước trước một kẻ thù nào. Từng tiếng nói "Sát Thát' của cha ông cứ vẳng lên trong đêm, vẳng lên những lời thề "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

Không phải dễ dàng chúng ta mới tự hào về truyền thống ấy, bởi chúng ta đã phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh cứu quốc, bao mất mát hy sinh, đau thương :

"Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
...
Đã bật lên những tiếng căm hờn"

Nguyễn Đình Thi đã sử dụng ở đây một loạt những hình ảnh đau thương mà chiến tranh gây lên cho dân tộc ta, nào là "dây thép gai đâm nát trời chiều", nào là "những cánh đồng quê chảy máu", ... Tất cả đều là những điều bình dị ở quê hương của chúng ta, nó êm ả là thế cho đến khi bị quân thù giày xéo, chúng đã biến chúng thành biển máu, biển nước mắt. Hình ảnh nhân hóa "cánh đồng quê chảy máu" hay "dây thép gai đâm nát trời chiều" đều nhấn mạnh sự đau thương cùng cảm giác bi phẫn, đau đớn đến nghẹn ngào của tác giả. Ôi, chiến tranh, lũ giặc tàn ác đã cướp đi tất cả những yên bình, những hồn hậu của quê hương ta ! Lũ giặc ấy đã khiến cả những "gốc tre hồn hậu" nhất cũng phải "bật lên những tiếng căm hờn"!

Thế nhưng, xen lẫn trong đau thương, người ta vẫn thấy hiện lên ở đó một nét thi vị, một sự lãng mạn của người chiến sĩ. Trong những đêm hành quân giữa rừng sâu, người chiến sĩ trẻ tuổi ấy không thể không nhớ tới người con gái mà mình yêu thương đang ở nơi quê nhà. Và bỗng đâu, đêm hành quân ấy bỗng trở lên thi vị hóa vô cùng :

"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu"

Còn gì lãng mạn, thi vị hơn thế nữa khi mà tình yêu đôi lứa hòa cùng với tình yêu đất nước, thống nhất trong một tình yêu lớn lao của những người con đất Việt? Nó đã trở thành động lực giúp những người chiến sĩ có thêm sức mạnh để chiến đấu, sớm giành lại độc lập để trở về bên những người thân yêu. Hình ảnh này, chúng ta cũng từng được thấy trong thơ Quang Dũng, khi ông miêu tả những người lính trẻ Hà thành đang hành quân "Tây Tiến":

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Chúng ta - những người Việt Nam hiền lành, trung hậu, thế nhưng không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù dù chúng có mạnh mẽ, có những vũ khí tối tân đến thế nào! Chính vì thế mà sự tàn bạo chúng đặt lên đầu nhân dân ta càng khủng khiếp và man rợ bấy nhiêu, bởi chúng muốn đàn áp, muốn nhấn chìm đi những khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Ở tại khổ thơ tiếp theo này, nhà thơ đã liệt kê cho chúng ta thấy được sự dã man của quân thù, những tội ác mà chúng đã gieo rắc cho nhân dân ta :

"Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da"

Những hình ảnh ấy thật đau đớn làm sao, cho chúng ta thấy được sự tàn ác của bè lũ kẻ thù. Và chính những đau thương ấy, sự khốc liệt ấy vừa khiến ta phải căm hờn vừa rèn giũa cho chúng ta - những người Việt Nam ý chí, sức mạnh, phẩm chất tạo nên những người anh hùng.

Ở hai khổ thơ này, nhà thơ đã sử dụng tương phản hai hình ảnh : tội ác của kẻ thù với sự đau thương cùng sức sống của dân tộc ta để khẳng định những phẩm chất anh hùng, đồng thời khẳng định niềm tin, lòng yêu nước, yêu hòa bình của dân tộc ta :

"Xiềng xích bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà"

Cuối cùng để khép lại một bài thơ về đề tài đất nước, Nguyễn Đình Thi đã kể về một đất nước trong niềm vui xây dựng Tổ quốc và trong khát vọng hướng tới tương lai.

Sau chiến tranh, công cuộc đầu tiên cần thiết lập lại đó là công cuộc xây dựng lại Tổ quốc bằng công nghiệp, bằng lao động. Hình ảnh những tiếng kẻng gọi quân cùng làn khói nhà máy bay lên giữa trời thu như khẳng định được sức mạnh của dân tộc ta, khẳng định sự cố gắng xây dựng Tổ quốc của nhân dân ta. Đông từ "ôm đất nước" như cái ôm thật chặt của chính tác giả, bao trọn tình yêu của mình dành cho tất cả con người Việt Nam, ôm trọn những đau thương để giờ đây những con người ấy trở thành bất khuất, trở thành những anh hùng. Phảng phất ở đây là niềm tự hào mạnh mẽ khi chúng ta - một đất nước nhỏ bé đã vươn dậy từ những đau thương mà tiến lên xây dựng một tương lai sáng ngời cho dân tộc mình.

Cuối cùng, những hình ảnh tươi sáng, đẹp đẽ như "trời đất mới, ánh bình minh" được Nguyễn Đình Thi sử dụng như một hình ảnh gợi lên ngày mai tươi sáng của dân tộc ta. Những con người Việt Nam ta, từ sau chiến tranh, đi lên "như nước vỡ bờ", mạnh mẽ, dữ dội, cố gắng hết sức giành lấy tự do cho chính mình.

Khép lại bài thơ là một hình ảnh vô cùng hùng vĩ, hào hùng, đẹp đẽ :

"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"

Hai câu thơ nhưng lại là hai hình ảnh đối lập "bùn, máu" với ánh sáng "chói lòa" làm sáng ngời lên ý chí của con người Việt Nam, tinh thần không chịu khuất phục của dân tộc Việt Nam.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ ca ngợi về Tổ quốc, về con người Việt Nam. Nhà thơ đã miêu tả đất nước trong hành trình đi lên từ những đau thương của chiến tranh cho tới khát vọng về một tương lai tương sáng, khi con người Việt Nam được làm chủ quê hương của mình, cùng nhau phát triển đất nước. Sâu bên trong từng câu chữ là niềm tự hào của tác giả về truyền thống của cha ông qua bao thế hệ và nhắc nhở mọi người về truyền thống "uống nước nhớ nguồn". Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh mang sức gợi lên, giàu chất thơ, lồng trong tình yêu nước sâu sắc. Ngôn từ thơ giản dị , chan chứa yêu thương, niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, các biện pháp nghệ thuật cũng được sử dụng hết sức linh hoạt và nhuần nhuyễn.

Bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài đất nước trong nền thơ ca Việt. Bài thơ đã khẳng định tên tuổi của Nguyễn Đình Thi, để ông xứng đáng góp mặt trong những nhà thơ xuất sắc nhất của văn đàn thơ của dân tộc ta.

17 tháng 11 2021

                          Làm

   Trong tất cả các bài hát , bài em thích nhất là bản '' Sonate ánh trăng '' của Bét-to-ven.

   Nó rất hay và làm rung động lòng người .

   Em rất yêu thích bài hát .

( đây là 1 bài văn có đủ 3 phần mở bài , thân bài và kết bài )

25 tháng 11 2018

Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912 tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Dương ( nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Là con trai út trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước, ông giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn nhỏ ( 14 tuổi).

Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912 tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Dương ( nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Là con trai út trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước, ông giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn nhỏ ( 14 tuổi).

Năm 1927, ông lên Hà Nội ở với người anh cả là Tô Tu. Tại đây, ông vừa đi học, vừa tham gia các hoạt động cách mạng trong các tổ chức yêu nước. Cuối năm 1929, Tô Hiệu vào Sài Gòn hoạt động với anh trai là Tô Chấn. Hai anh em bị bắt trong một cuộc họp và bị đầy ra nhà tù Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, Tô Hiệu bị thực dân Pháp giam cầm và tra tấn rất dã man. Ông tham gia tổ chức vượt ngục nhưng không thành và bị địch phạt giam ở hầm xay lúa cùng với đồng chí Tôn Đức Thắng. Chế dộ nhà tù hà khắc đã làm Tô Hiệu bị lao phổi nặng, dù vậy ông vẫn kiên cường tham gia đấu tranh và tiếp tục học tập lý luận cách mạng. Ông được chi bộ Nhà tù Côn Đảo bồi dưỡng trỏ thành đang viên ưu tú, giàu nhiệt huyết, có bản lình chính trị vững vàng.

Năm 1934, ông mãn hạn tù trở về quê hương. Mặc dù bị quản thúc chặt chẽ, nhưng ông vẫn tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng; tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ Dông Dương và được bầu vào Thượng vụ Xứ ủy Bắc Kỳ.

Trong hai năm 1936 – 1937, ông tham gia chỉ đạo phong trào cách mạng tại Hà Nội và một số tỉnh khác.

Năm 1938 – 1939, ông được điều vè đặc trách Bí thư Liên khi B ( bao gồm các tỉnh Duyên hải Bắc Bộ, Hải Dương, Hưng Yên và kiêm Bí thư Thành ủy Hải Phòng ).

Cuối năm 1939, ông bị bắt và bị giam tại nhà tù Hải Phòng, nhà tù Hỏa Lò rồi bị kết án 5 năm khổ sai và bị đày lên nhà tù Sơn La vào cuối năm 1940.

Con người cộng sản của Tô Hiệu càng tôi luyện và thể hiện nổi bật trong 4 năm bị giam cầm ở Nhà tù Sơn La, tên tuổi của ông được gắn liền với chi bộ nhà tù. Tại đây, ông bị thực dân Pháp coi là nhân vật cực kỳ nguy hiểm, lấy cớ ông bị lao phổi nặng lên biệt giam ở xà lim hình tam giác, diện tích chưa đầy 4m2 và cách ly hoàn toàn với các tù nhân khác. Mặc dù trong hoàn cảnh đó, nhưng kinh nghiệm hoạt động cách mạng và từng trải qua các lao tù, ông đã tìm cách liên lạc với các tù nhân chính trị và tham gia lãnh đạo đấu tranh. Ông đã cùng các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và một số đồng chí khác thành lập chi bộ nhà tù để đưa ra đường lối và nhiệm vụ cụ thể lãnh đạo của hoạt động của tù nhân chống lại chế độ nhà tù hà khắc, bảo toàn lực lượng cách mạng.

Tháng 5 – 1940, ông được làm Bí thư Chi bộ Nhà tù Sơn La. Nhưng vì sức khỏe yếu, đến tháng 10 – 1941, đồng chí Trần Huy Liệu thay giữ chức Bí thư Chi bộ nhà tù. Trong cuốn " Tinh thần Tô Hiệu '' Đại Tướng Văn Tiến Dũng – người bạn tù của Tô Hiệu – kể lại: Tuy thể xác bị bệnh lao phổi tàn phá, nhưng đồng chí vẫn vượt lên bệnh tật, tổ chức công tác tuyên truyền cách mạng. Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, mở các lớp học văn hóa, chính trị, quân sự, bồi dưỡng giảng viên, hướng dẫn các cuộc đấu tranh. Tinh thần hi sinh tận tụy vì Đảng, vì dân của anh có sức cuốn hút, thuyết phục cám hóa rất lớn. Đồng chí là người thấy, người anh được mọi người tin yêu cảm phục.

 Có thể nói, Tô Hiệu chính là linh hồn của Chi bộ Nhà tù Sơn La. Từ khi chi bộ ra đời, các hoạt dộng cách mạng trong nhà tù đã có sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, có phương hướng rõ ràng, có tổ chức và phương pháp lãnh đạo đúng đắn. Vì thế, đời sống của tù nhân được cải thiện rõ rệt, tổ chức được nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi. Tuyên truyền cho binh lính và đồng bào địa phương hiểu về người cộng sản, từ đó yêu quý và bả vệ những người cộng sản, bồi dưỡng nhiều cán bộ cho Đảng, đóng góp gieo mầm phong trào cách mạng cho tỉnh Sơn La. Đồng chí Nguyễn Văn Trân – cựu tù chính trị tại Nhà tù Sơn La – kể lại: Những thành công to lớn của Chi bộ Nhà tù Sơn La có sự đóng góp công đầu của dồng chí Tô Hiệu. Với bản lĩnh chính trị kiên cường, tinh thần trách nhiệm cao, rất nhạy cảm với cái đúng, cái sai, giải quyết công việc thận trong, chính xác, phẩm chất trong sáng, chí công vô tư, tận tụy hy sinh vì cách mạng. Đồng chí Tô Hiệu đúng là người con cộng sản mẫu mực, người lãnh đạo xuất sắc hiếm có.

 Biết không thể qua khỏi vì lâm trọng bệnh, nhưng ông vẫn cố gắng, một tay ôm ngực một tay biết tài liệu huấn luyện cho Chi bộ Nhà tù, đồng chí nói với anh em: Mình biết chắc sẽ chết sớm hơn mọi người. Vì vậy, mình phải tranh thủ thời gian để chiến đấu, phục vụ cho Đảng, cho cách mạng.

 Chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp và bệnh tật hiểm nghèo đã cướp đi sinh mạng đồng chí Tô Hiệu ngày 07-03-1944. Ông đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà tù Sơn La khi mới 32 tuổi. Sự ra đi của ông là mất mát lớn, tổn thất nặng nề cho Chi bộ Nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng Việt Nam. Ông mất đi để lại niềm tiếc thương vô hạn, sự khâm phục kính trọng cua những đồng chí, bạn tù và dồng bào các dân tộc Sơn La. Cuộc đời tuy ngắn ngủi với 18 năm hoạt động cách mạng, nhưng những cống hiến của ông cho phong trao cách mạng Việt Nam nói chung và phong trào cách mạng Sơn La nói riêng  thì thật là to lớn.

Đại tướng Nguyễn Văn Dũng đã nói: Trong số trăm ngàn liệt sỹ đã hi sinh vì nước, vì dân, đồng chí Tô Hiệu nổi lên như một người mà chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù thực dân, đế quốc chẳng những không đè bẹp được ý chí cách mạng mà trái lại, nó trở lên như một thứ lửa vàng, hun đúc để trở thành gang thép.

Đồng chí Tô Hiệu mất đi, nhưng tấm gương về tinh thần và ý chí cách mạng vẫn chói sáng. Trong vách tường đá của nhà tù, cây đào mang tên Tô Hiệu vẫn mãi xanh tươi, đó là biêu tượng cho tinh thần bất khuất của những người tù cộng sản, cho sức sống mãnh liệt của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là lời nhắc nhở hậu thế rằng: mùa xuân nhân loại – chủ nghĩa cộng sản nhất định sẽ khai hoa hết trái trên đất nước Việt Nam thân yêu. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông, sau khi cách mạng thành công, nhiều địa danh tại Sơn La cũng như trong nước được mang tên người anh hùng liệt sỹ Tô Hiệu./.

Việt ✪Kimihiro Watanuki✪ Hoàng  ơi, bạn chép trên mạng mất rồi, không đc z nhé, mik tham khảo hết trên mạng r nhá, nên k qua mắt mik đc đâu

22 tháng 4 2018

1. Nhắc tới Nguyễn Đình Thi chúng ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ đa tài, có đóng góp lớn cho văn học nghê thuật nước nhà trên nhiểu lĩnh vực. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác nghê thuật của ông có thể khái quát rằng, ngợi ca đất nước đẹp giàu, bất khuất, nhân dân cần cù, anh dùng chính là cảm hứng nồng đậm nhất. Hiện lên từ những trang văn, bài thơ, bài hát của Nguyễn Đình Thi là hình tượng một đất nước từ trong gông xiềng áp bức vùng dậy tự giải phóng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới. Đất nước là một trường hợp tiêu biểu như thế, một trong những đỉnh cao của thơ trữ tình cách mạng Việt Nam. Đất nước có ý nghĩa khá đặc biệt. Nó là sản phẩm của một quá trình nung nấu, một sáng tác mang tính chất tổng hợp. Hãy để ý đến thời gian tác giả sáng tác bài thơ: 1948 - 1955. Đây là một dấu hiệu lạ chứng tỏ điểm độc đáo của Đất nước và là căn cứ quan trọng để hiểu đúng bài thơ. Thông thường, một bài thơ trữ tình với dung lượng ấy được sáng tác chỉ trong một ngày, một buổi, thậm chí chỉ trong dăm ba tiếng đồng hồ (Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng là thế). Vậy tại sao Đất nước được hình thành, được khởi bút từ thời kì đầu dân tộc bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp mà đến tận ngày kháng chiến trường kì thắng lợi, hoà bình lập lại mới hoàn thành ? Điều đó phản ánh ý đồ của Nguyễn Đình Thi như ông đã có dịp tâm sự. Viết Đất nước, nhà thơ muốn tạo dựng một tượng đài Tổ quốc Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, trong chín năm kháng chiến anh hùng phần nào tương xứng với tầm vóc cao đẹp của đất nước ta trong lịch sử. Với mong muốn này, dễ hiểu vì sao nhà thơ phải đầu tư thời gian, cần tập trung tâm trí và đưa vào đây (tất nhiên có sửa chữa) một số đoạn vốn ở các bài thơ khác. Lẽ thường, khi vượt qua một chặng đường lịch sử, nhìn lại để tổng kết, để tự hào, mới có thể hoàn thiện bức tượng đài. Đất nước trở thành một sáng tác mang tính chất tổng hợp, hài hoà giữa cảm hứng sử thi hùng tráng với rung cảm trữ tình thiết tha khi ca ngợi một đất nước từ trong gông xiềng áp bức, từ trong lam lũ đói nghèo vùng dậy tự giải phóng, anh dũng chiến đấu bảo vộ quyền độc lập tự do thiêng liêng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới. 2. Thời gian sáng tác, ý đồ nghệ thuật nêu trên chính là cơ sở để chúng ta phân tích vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ này. Đất nước trở thành hình tượng trung tâm trong bài thơ. Nếu cần chọn một từ, chỉ một từ thôi, nói trúng vẻ đẹp cơ bản nhất của hình tượng này, hẳn đó là từ vận động. Một đất nước trường chinh trên dặm dài lịch sử, một đất nước có truyền thống bất khuất, bền bỉ đang ngời lên trong hiện tại đau thương, khói lửa và đang vững bước đi tới tương lai tươi sáng - đó là cảm nhận rõ rột nhất khi đọc bài thơ này. Cả bài thơ toát lên sự vận động. Từng khổ thơ cũng thể hiện sự vận động trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai. Đây là đất nước có lịch sử dài lâu, đất nước của những người chưa bao giờ khuất: Nước chúng ta  Nước những người chưa bao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về.  Đất nước của bao thế hộ chưa bao giờ khuất ấy đang vươn mình lớn dậy trong hiện tại gian khổ, đau thương: Từ những năm dau thương chiến đấu  Đã ngời lên nét mặt quê hương  Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu  Đã bật lên những tiếng căm hờn.  Chính từ trong hiện tại chiến đấu anh dũng, lao động cần cù ấy gương mặt đất nước ngày một ngời sáng. Dường như càng về cuối bài thơ, cảm hứng tương lai càng nồng đậm: Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội  Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới  Lòng ta bát ngát ánh bình minh.  Trong cuộc trường chinh vạn dặm, đất nước mình ngày càng vững bước tới tương lai, trong "vất vả đau thương" đất nước mình càng "tươi thắm vô ngần" - đó là cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Đinh Thi về sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Một đặc điểm nữa là hình tượng đất nước trong bài thơ này mang vẻ đẹp bình dị mà cao cả trong ánh sáng thời đại mới. Hãy chú ý hệ thống hình ảnh về đất nước trong bài thơ. Xây dựng tượng đài phải có chất liệu. Để làm việc đó, có tác giả lấy chất liệu chủ yếu từ lịch sử, có tác giả tìm chất liệu chủ yếu từ văn hoá dân gian... Hình tượng đất nước được Nguyễn Đình Thi xây dựng bằng những vẻ đẹp của thiên nhiên xanh tươi, dạt dào sức sống, bằng những hành động chiến đấu anh dũng, lao động cần cù của nhãn dân. Nhà thơ đã ngắm nhìn, cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, bằng tấm lòng của "chúng ta" - những con người vừa được cách mạng giải phóng khỏi thân phận nô lệ khổ nhục đang đứng lên làm chủ non sông đất nước minh. Bởi thế, đất nước này rất đỗi binh dị, thân thương mà cao cả, kì vĩ trong ánh sáng thời dại mới. Đất nước, đó là mùa thu hương cốm mới, núi đồi, rừng tre phấp phới. Đất nước, đó là những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa, gốc lúa bờ tre hồn hậu. Đất nước, đó là "Trời đầy chim và đất đầy hoa", "Khói nhà máy cuộn trong sương núi - Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng"... Binh dị, thân thương là thế nhưng đất nước ấy mang tầm vóc mới bởi đang do những con người lão động làm chủ - đất nước của thời đại dân chủ nhân dân:  Ôm đất nước những người áo vải  Đã đứng lên thành những anh hùng.  Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi gắn liến với niểm tự hào mang tính dân chủ của thời đại mới. "Trời xanh đây là của chúng ta - Núi rừng đây là của chúng ta" - chỉ đến thơ ca sau Cách mạng tháng Tám mới xuất hiộn đại từ "chúng ta" với tư thế ấy, tầm vóc ấy. 3. Có thể tìm thấy nhiểu đoạn, nhiều khổ thơ đặc sắc trong Đất nước để chứng minh cho các đặc điểm trên của hình tượng trung tâm trong bài thơ. Lịch sử dài lâu của đất nước, sức sống bền bỉ của bao thế hệ ông cha được Nguyễn Đình Thi cảm nhận sâu sắc : Nước chúng ta Nước những người chưa hao giờ khuất  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  Những buổi ngày xưa vọng nói về. Về ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, đoạn thơ này chứng tỏ cảm xúc thiết tha, lắng đọng của Nguyễn Đình Thi. Dù ngắn nhưng đoạn thơ bố cục có tầng lớp theo lối diễn dịch sau khi xướng lên đối tượng để nhìn ngắm, chiêm nghiêm. "Nước chúng ta" là nước như thế nào ? Đây là "Nước những người chưa bao giờ khuất". Điều đó thể hiện ở đâu ? Hai dòng tiếp sau lại là sự diễn giải, chứng minh cụ thể. Đất nước là bài thơ được viết theo thể tự do, câu dài, câu ngắn xen kẽ. Rõ ràng, "Nước chúng ta" là dòng thơ ngắn nhất trong bài. Nó cất lên lời xưng danh dõng dạc, đàng hoàng. Đã xưng danh thì phải ngắn, phải cất cao đĩnh đạc. Nó toát lên niềm tự hào về đất nước, về quyền làm chủ đất nước ấy. Nguyễn Đình Thi không phải là người đầu tiên, người duy nhất khẳng định sức sống bền bỉ của truyền thống dân tộc nhưng ông đã có cảm nhận, cách thể hiện của riêng mình. Nhiều người thường nói truyền thống đất nước, sức sống cha ông qua những tấm gương, câu chuyện lịch sử, qua những danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông, nghĩa là qua những hình ảnh mang tính thị giác. Ở đây, Nguyễn Đình Thi lại nói qua hình tượng âm thanh. Một âm thanh gần gũi mà thiêng liêng đặc biệt. Cứ đêm đêm vọng lên từ lòng đất tiếng nói của những người chưa bao giờ khuất. Hình bóng và tâm linh của bao thế hộ ông cha vẫn còn thức động giữa hôm nay. Chữ rì rầm gợi lên thứ âm thanh không lớn nhưng không bao giờ dứt. Đã là tiếng trong lòng đất thì phải rì rầm. Hãy chú ý những từ ngữ của đoạn thơ : khuất, rì rầm, ngày xưa, vọng - chúng tạo nên một không khí cổ kính, trầm lắng đặc biệt. "Đêm đêm" là hiện tại, "những buổi ngày xưa" là quá khứ xa xưa. Hai chiểu thời gian tưởng chừng rất xa nhau được kéo nhập làm một qua tiếng rì rầm ấy, trong không khí ấy. "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" - tại sao viết tiếng đất chứ không phải lòng đất ? Hình như ở đây có hai thứ tiếng. "Rì rầm" là tiếng của con người, của nhân sinh. "Tiếng đất" là tiếng của núi non, của vũ trụ. Tiếng của ông cha, của lịch sử đã hoà trong tiếng của đất đai, của vũ trụ mà vọng mãi muôn đời. Nhằm ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân ta, sự vùng dậy quật cường của đất nước, nhằm tố cáo tội ác của kẻ thù, Nguyễn Đình Thi đã dựng tả gương mặt quê hương, đất nước đau thương trong lửa khói chiến tranh. Nhiều người cho rằng khổ thơ dưới đây thuộc loại hay nhất của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp: Ôi những cánh đồng quê chảy máu  Dây thép gai đâm nát trời chiều  Những đêm dài hành quân nung nấu  Bỗng hồn chồn nhớ mắt người yêu. Nhận xét ấy có căn cứ bởi đây là những câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu cảm xúc. Nguyễn Đình Thi từng tâm sự rằng đây là những câu thơ được viết từ kỉ niệm trong cuộc đời kháng chiến, từ những buổi chiều cùng bộ đội hành quân qua các vùng quê hoang vu. Một hoạ sĩ dựa vào hai câu thơ này hoàn toàn có thể vẽ nên một bức tranh có hình khối, đường nét, sắc màu, có không khí và linh hồn. Những cánh đồng quê trống vắng, xác xơ vì bị lũ giặc tàn phá. Bầu trời chiều trên những cánh đồng ấy càng mờ xám, ảm đạm. Nối giữa mặt đất cánh dồng với bầu trời chỉ là những hàng dây thép gai của đồn giặc như tua tủa xỉa cắt. Nhìn về phía tây, ánh hoàng hôn đỏ lựng đang hắt ngược một khoảng lên nén trời. Bức tranh này không có cây cối, cửa nhà mà toát lên vẻ lạnh lẽo, tang thương. Hình ảnh thơ lạnh, vắng mà thấm đẫm cảm xúc thương đau, uất hận. Chính từ màu đỏ của hoàng hôn, từ máu của bao con người đã đổ trên quê hương mà Nguyễn Đình Thi liên tưởng đến cánh đổng đang chảy máu. Cũng bởi lòng xót xa đau đớn mà nhà thơ tưởng như dây thép gai đâm nát cả bầu trời đất nước. Trong các từ chảy máu, đâm nát có cả cõi lòng tan nát của nhà thơ. Thương đau, uất hận không nén nổi khiến lời thơ cất lên thành giọng điêu cảm thán. Như thế, từ một hình ảnh, một ấn tượng thực, với hai câu thơ này Nguyễn Đình Thi đã vẽ nên một bức tranh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị kẻ thù giày xéo. "Nói về tội ác kẻ thù có thể có nhiều cách nói khác nhau, tôi không miêu tả cụ thể mà từ chất liêu cụ thể khái quát lên một điều gì sâu xa hơn". Chính từ trong đau thương chiến đấu, gương mặt đất nước ngày càng ngời sáng. Các động từ ngời lên, bật lên đã diễn tả sự vùng dậy quật cường của dân tộc : Từ những nâm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương  Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu  Đã bật lên những tiếng căm hờn. Càng về cuối bài Đất nước, cảm hứng lạc quan càng nồng đượm. Đứng ở hiện tại chiến thắng vinh quang nhìn lại con đường lịch sử vừa qua của dân tộc, Nguyễn Đình Thi tỉnh táo và tự hào khẳng định : Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội  Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh. Bởi ý đồ tổng kết lịch sử, hệ thống hình ảnh trong khổ thơ trên kết hợp hài hoà mặt cụ thể, gợi cảm với tính khái quát, biểu tượng (ngày nắng đốt, đêm mưa giội, trán, lòng, trời đất mới, ánh bình minh). Con đường vừa qua của đất nước đâu bằng phẳng thênh thang. Trên con đường ấy, chúng ta vừa trải qua bao khó khăn, thử thách này lại tiếp ngay thử thách khác, mỗi bước đường phải trả bằng bao giá máu. Sức mạnh nào đã đưa dân tộc vượt qua con đường gian khổ, vinh quang ấy và bước tiếp tới tương lai tươi sáng ? Đó chính là lí trí tỉnh táo, tư tưởng cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng khoa học, là tình cảm lạc quan phơi phới. Khi một cá nhân, một cộng đồng kết hợp được hai mặt này thì sẽ mang sức mạnh vô địch. Khổ thơ chứng tỏ sự tổng kết lịch sử sâu sắc của Nguyễn Đình Thi theo cách một nhà thơ ưữ tình. Mọi vẻ đẹp của hình tượng đất nước, những cảm hứng chính của Nguyễn Đình Thi dược kết tinh khá trọn vẹn ở khổ cuối bài thơ. Đây là đỉnh điểm của cảm hứng sử thi khi ngợi ca tầm vóc đất nước, khi dựng tả bức tượng đài : Súng nổ rung trời giận dữ  Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa  Rũ bùn đứng dậy sáng loà. Khổ thơ xây dựng hình ảnh theo tầng lớp. Từ hình ảnh những lớp người cụ thể, Nguyễn Đình Thi liên tưởng, khái quát thành hình ảnh đất nước trong thời đại mới, nghĩa là khổ thơ kết hợp hài hoà tính tả thực, gợi cảm với tính biểu tượng. Trong một bài viết kể vé việc sáng tác Đất nước, Nguyễn Đình Thi có giải thích rằng khổ thơ kết này được hình thành từ một hình ảnh thực chính mắt nhà thơ được chứng kiến. Đó là từ trong chiến hào đầy bùn đất, các chiến sĩ ta dũng mãnh xông lên tấn công vào đồn giặc Pháp. Quân phục các anh lấm lem nhưng lưỡi lê tuốt trần, bóng người lấp lánh trong lửa đạn. Chính từ đây, nhà thơ xây dựng một cảnh tượng thật giàu chất điện ảnh. Dưới bầu trời ầm vang tiếng súng, dọc ngang chớp đạn, những lớp người ồ ạt xông lên với khí thế không gì ngăn cản nổi. Lớp này ngã, những lớp sau tiến bước, cứ ào ào như sóng cuộn. Sự đè nén, áp bức tàn bạo của kẻ thù khiến lòng hờn căm, giận dữ của dân ta càng nóng bỏng để vùng lên mạnh mẽ. Hình ảnh này gợi ta liên tưởng đến câu tục ngữ “Tức nước vỡ bờ”. Từ hình ảnh cụ thể trên, Nguyễn Đình Thi đã khái quát, đúc kết nên hình tượng đất nước. Đó là một đất nước từ trong máu lửa đau thương của chiến tranh, từ trong bùn lầy của lam lũ, đói nghèo mà vươn mình đứng dậy. Hình tượng đất nước này khiến ta nhớ lại cái vươn vai kì diệu của chú bé làng Gióng thuở nào. Tầm vóc đất nước vụt trở nên kì vĩ lạ thường. Đúng là trong vất vả đau thương đất nước càng "tươi thắm vô ngần" như Nguyễn Đình Thi từng viết: Anh yêu em như yêu đất nước  Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần. Kiểu liên tưởng khái quát này ta sẽ còn bắt gặp khá nhiều trong thơ ca Việt Nam về sau. Chẳng hạn, từ tư thế hi sinh hiên ngang của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất (ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968) nhà thơ - liệt sĩ Lê Anh Xuân liên tưởng đến "Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ". Từ dáng đứng này, Lê Anh Xuân cảm nhận "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" (Dáng đứng Việt Nam). Hay ở Việt Nam, máu và hoa, trong không khí hào hùng của thời đại dân tộc đánh đế quốc Mĩ và chiến thắng, Tố Hữu ca ngợi: "Ôi Việt Nam ! Từ trong biển máu - Người vươn lên, như một thiên thần !". Khổ thơ của Nguyễn Đình Thi còn hay ở thể sáu chữ, ở nhịp điệu vừa nhịp nhàng vừa ngày một đẩy tới, dâng cao (nhất là ở dòng thứ hai và dòng cuối). Nhịp điệu ấy cũng tương ứng với sự vươn lên mạnh mẽ, với tầm vóc kì vĩ của hình tượng đất nước. Đỉnh điểm của nhịp thơ chính ở chữ "sáng loà" cuối cùng. Từ đây, hiện lên hình tượng đất nước Việt Nam rực rỡ, chói ngời trong ánh hào quang chiến thắng

22 tháng 4 2018

Vào một buổi sáng mát trong giữa núi đồi Việt Bắc thời kì đầu chống Pháp, Nguyễn Đình Thi nhớ những ngày thu Hà Nội đã xa.

Thu về qua hương cốm mới: đúng là hương gây mùi nhớ. Hương cốm nhắc ta cái hương vị của đồng quê nội cỏ Việt Nam. Cốm là một thứ quà quê hiếm quý mà bình dị,đơn sơ mà sang trọng. Nhà thơ gợi ra trong lòng người đọc niềm vui sướng khi nâng trên tay gói cốm trong lá sen thơm ngát lúc giao mùa hạ sang thu. Hương cốm làm ta nhớ lại những dôi trai gái nên vợ nên chồng. Phải chăng,nhớ thu Hà Nội,Nguyễn Đình Thi nhớ lại một Hà Nội ấm áp,ngọt ngào,thuần khiết và thanh lịch. Trong nỗi nhớ man mác một niềm lưu luyến.
Cái lưu luyến của người đi xa nơi mình yêu dấu sao khỏi tránh được nỗi buồn khi phải chia phôi. Tiếng lá khô xao xác vẫn âm vang trong tâm trí dù đã cách xa lâu rồi. Khi gió heo may chớm lạnh trên những dãy phố dài Hà Nội,lá rụng ,không khí hanh khô,theo gió hiu hiu,lá bay xào xạc. Và cái xào xạc ấy rất quen với người Hà Nội mỗi độ thu về. Đi xa càng nhớ,âm thanh xào xạc vẫn cứ âm vang trong trí nhớ,làm nên một âm điệu buồn khiến cái xào xạc của lá chạy trên đường thành cái xao xác trong tâm tưởng.

Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Thu Hà Nội trong Nguyễn Đình Thi chính là cái xao xác của lá khô trên những phố dài và cái ngát dịu của hương cốm mới. Hương vị,âm thanh ấy mãi mãi vẫn còn nguyên đó,trở đi trở lại với vòng quay của tháng năm. Hà Nội trong nhà thơ vẫn còn đó,gắn bó không thể sẻ chia,sự gắn bó dịu êm và sâu thẳm. Phải xa không thể không buồn song tuy buồn mà vẫn có nó ở trong lòng bởi trên đời này có những cái buồn vì mất hết,không tìm lại được cái mình vốn có.
Người Hà Nội yêu mùa thu Hà Nội. Song,một nét rất đẹp trong tâm hồn con người Hà Nội trong những trạng huống đặc biệt của lịch sử: Lúc cần phải chia tay,người Hà Nội cũng rất kiên nghị dứt áo ra đi. Người Hà Nội biết chấp nhận đầy cương quyết bởi trong lòng họ ra đi để sẽ trở về. Đẹp sao tư thế người Hà Nội ra đi,lên chiến khu,xung vào đoàn quân chiến đấu,nén lòng không do dự,cất bước lên đường,để lại sau lưng biết bao bâng khuâng lưu luyến.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Câu thoe liền một mạch. Tiếp theo là một tiết tất cắt ra từng nhịp chứa chất bao nhiêu là trầm tư suy nghĩ và phảng phất nỗi buồn cố hữu:

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Buồn mà vẫn khỏe bởi trong suy nghĩ của người Hà Nội,của nhà thơ đã ra đi không có nghĩa là rời bỏ,mà là để Hà Nội mãi mãi là của lòng: mình với cái hương cốm ấy và cái âm thanh xao xác đầu thu ấy.

Bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Đây là một đoạn thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi về thu Hà Nội và người Hà Nội gắn bó với mùa thu đất nước. Và ở đây cũng thể hiện tài hoa của Nguyễn Đình Thi trên lĩnh vực thơ trữ tình: thi trung hữu họa,thi trung hữu nhạc,với những nét rất đặc trưng cho Hà Nội ngọt ngào,thanh lịch.

Từ cảm xúc xưa đến cảm xúc thu nay giữa núi đồi Việt Bắc,tiếng thơ sôi nổi,rộn ràng,không gian mở rộng từ Hà Nội ra bao la đất nước. Nhà thơ dõng dã: Mùa thu nay khác rồi. Cái khác nổi bật lên là luồng âm thanh,màu sắc mới của đất nước,của lòng người đang reo vui, đằm thắm hơn. Trong biếc nói cười thiết tha. Tư thế của con người cảm nhận mùa thu là tư thế của người làm chủ non sông đất nước mình,đàng hoàng,phóng khoáng giữa một không gian cao rộng khoáng đạt bao la. Đó là một cảm xúc hoàn toàn mới mẻ biểu đạt trong thi ca,cảm xúc của một nhà thơ-chiến sĩ-công dân của một nước đang chiến đấu bảo vệ thành quả “độc lập” và tự do. Đứng trên tầm cao” giữa núi đồi” trào dâng một niềm tự hào lịch sử. Phóng tầm mắt ra bốn phương tám hướng đâu đâu cũng là “của chúng ta”. Niềm vui sướng,tự hào pha lẫn niềm kiêu hãnh thấm vào tất cả : từ bầu trời cao rộng đến tận đấy sông lâu,lan tỏa ra không gian bát ngát muôn phương nẻo theo những cánh đồng,những cánh rừng, những con đường,những dòng sông. Khúc giao hưởng” của chúng ta” vang lên trong trời đất và trong lòng người là một bản hòa tấu lịch sử của một dân tộc bất khuất. Cảm xúc thơ chuyển từ không gian hiện hữu đi vào chiều sâu lịch sử cha ông. Lòng tự hào dân tộc sau giây phút sôi nổi dâng tràn trở nên sâu lắng trong dòng sông lịch sử,thì thầm từ trong lòng đất mẹ vọng về.
Cảm xúc thu nay,thu kháng chiến khơi dậy trong con người Việt Nam đang chiến đấu chống kẻ thù hung hãn biết bao nhiêu là sức hiền hòa,nghèo khó làm nên kì tích vang dội toàn cầu. Có người thẩm định rằng,cái tài hoa Nguyễn Đình Thi khi diễn đạt thu xưa hay hơn cái thu này. Cảm xúc về thu nay chưa theo kịp ý thức và nhận thức, ý chưa quyện với tình. Chúng ta không nghĩ thế. Nói về mùa thu,tác giả lần đầu tiên cho một loài cây quen thuộc mà các nhà thơ trước ông không hề để ý đó là tre: Gio thổi rừng tre phấp phới. Cây tre,hơn nữa là rừng tre xứng đáng là biểu tưởng của thiên nhiên Việt Nam,cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam dẻo dai,bền bỉ,bất khuất. Một Việt Nam của hiện tại,của quá khứ và của tương lai,một Việt Nam dẻo dai,bền bỉ,bất khuất. Một Việt Nam trường tồn ẩn chứa trong hình ảnh đó. Đó là một sáng tạo độc đáo,giàu sức thể hiện đạt đến độ hàm súc,một tiêu chí quan trọng của tiếng nói nghệ thuật. Mặt khác,niềm tự hào vừa là nhận thức vừa là tình cảm,vừa là sóng lòng trào dâng vừa là trí tuệ sâu sắc,cho nên bên cái say còn có cái cứng cáp của nghĩ suy,của triết lí,đó là thứ cảm xúc của cả trái tim và khối óc. Chính sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố đó mà cảm xúc về mùa thu nay có chiều sâu,chắc nịch của nhận thức,đồng thời có cái dào dạt theo chiều mở ra với không gian đất nước và cuồn cuộn theo nhịp lòng tuôn trào của nhà thơ. Sự chuyển hóa cảm xúc từ không gian vào thời gian,từ hiện hữu vào quá khứ,làm cho nhịp cảm xúc biến hóa và hàm súc. Lẽ nào hồn thơ chưa đến độ chín đầy.

Bài tham khảo: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài tham khảo: Cảm nhận về bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bút pháp của tác giả đổi khác hẳn so với phần trên khi tái hiện lại toàn bộ cuộc chiến đấu trường kì ba ngàn ngày không nghỉ. Nguyễn Đình Thi thiên về cách diễn đạt bằng những hình ảnh tượng trưng hàm chứa ý nghĩa khái quát.
Đất nước mang đầy thương tích chiến tranh,tội ác kẻ thù in dấu trên đất nước,những tổn thất hi sinh thật lớn lao,đã không bút nào tả xiết. Nhà thơ,chỉ bằng một phác họa tài tình,đã vẽ lên bức tranh đau thương của dân tộc với vài nét chấm phá: bầu trời,cánh đồng tưởng trưng cho nước,dây thép gai tượng tương cho ách chiếm đóng và tội ác của kẻ thù và máu chảy tượng trưng cho mất mát đau thương. Bằng một thủ pháp điện ảnh tài tình,hình ảnh thơ hiện ra đầy xúc động:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Ông kính nhà thơ từ mặt đất hắt chiếu lên bầu trời tạo ra mảng Dây thép gai đâm nát trời chiều và theo chiều ngược lại,ánh mặt trời đỏ ối từ trên tỏa xuống lênh láng cánh đồng quê như máu chảy đầm đìa. Đó là một hình ảnh khái quát,tượng trưng nhưng bắt nguồn từ thực tiễn khốc liệt của sự tàn phá,giết chóc mà kẻ thù gieo rắc trên đất nước ta. Trong bức tranh đầu thương tích đó,nhà thơ thốt lên nỗi đâu đớn của một trái tim rỉ máu: Ôi.
Từ đau thương,đất nước và nhân dân ta ngời lên một khuôn mặt khác thường: căm thù và chiến đấu kiên cường bất khuất. Từ anh chiến sĩ trên đường những đêm dài hành quân nung nấu- Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu đến đồng bào ở hậu phương từ gốc lúa bờ tre hồn hậu- Bỗng bật lên tiếng thét căm hờn. Cả dân tộc nhất tề đứng lên,dân tộc đó nhất định không thể bị đánh bại.
Trước hoàn cảnh cam go ấy,nhân dân ta vẫn vời vợi một niềm vui,một niềm tin của một trí tuệ nắm vững quy luật của chiến tranh chính nghĩa,của lịch sử niềm tin sắt đá chỉ có trong thời đại mới,thời đại giải phóng dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản,dưới sự lãnh đạo của Đảng tiền phong và Bác Hồ:

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Vẫn là loại hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng song vẫn truyền cho ta một cái gì thật là tươi mát,thật lạc quan ngay trong những ngày nước còn sôi,lửa còn bỏng.

Cuối cùng đất nước ta,dân tộc chiến thắng,thành quả Cách mạng tháng Tám được bảo vệ,nhà nước công nông đầu tiên ” Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa” ở Đông Nam A vẫn tồn tại và lớn mạnh. Cùng với chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ,một hình ảnh nước Việt Nam với nước Việt Nam nông nghiệp-nền văn minh lúa,đã vụt dậy sáng lòa.

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Đoạn kết của bài thơ là một tượng đài đất nước nói với các thế hệ mai sau: đất nước ta,dân tộc ta đã phải xây dựng một Việt Nam khai sinh nó ra từ máu lửa cùng với khai tử chủ nghĩa thực dân trên hành tinh này,nêu một tấm gương cho toàn thể các dân tộc bị bức toàn thế giới.

6 tháng 12 2021

TK

Một trong những bài thơ lục bát mà em thích nhất chính là bài thơ Việt Nam quê hương của nhà thơ Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được viết bằng thể lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, bay bổng nhưng cũng không kém phần sôi nổi, trầm hùng. Câu thơ mở đầu như câu hát ca ngợi da diết để lại cho em ấn tượng sâu sắc : " Việt Nam đất nước ta ơi...... sớm chiều". Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh màu sắc hài hòa, tươi đẹp, rất đặc trưng của làng quê Việt. Giữa nền xanh biếc “biển lúa” là hình ảnh đàn cò trắng chao nghiêng rập rờn. Cánh cò ấy không cao vút tầng không mà “bay lả” giữa cánh đồng, dưới những đám mây mờ bị che phủ bởi đỉnh núi, mở ra khung cảnh về một đất nước thanh bình. Đánh đổi cho sự thanh bình ấy chính là máu, là nước mắt của biết bao những người con anh dũng kiên cường chiến đấu hết mình bảo vệ đất nước. Chỉ bằng 4 dòng thơ đầu thôi, cũng đủ khơi gợi cho chúng ta niềm tự hào về thiên nhiên, về mảnh đất Việt Nam yêu dấu

6 tháng 12 2021

có đủ 150 - 200 chữ ko ?

22 tháng 3 2022

Tham khảo :

Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ về người mẹ trong mỗi một chúng ta là nguồn sống, là nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách và là những giá trị nhân văn giúp cho cái chân, thiện, mỹ trong mỗi con người phát triển. Đó cũng là nguồn cội khơi dậy những tình cảm sâu lắng đối với con người, gia đình và quê hương. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy là một bài thơ như vậy và là bài thơ dành được rất nhiều tình cảm của người đọc.Nguyễn Duy được đánh giá cao trong thể thơ lục bát – một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,… Bài thơ Tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông còn bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ai đọc lên cũng có cảm giác như Nguyễn Duy đang viết về mẹ của mình và những tình cảm của mình đối với mẹ.Bài thơ bắt đầu bằng không gian bảng lảng khói trầm, phảng phất mùi hương huệ trong đêm khuya thanh vắng – “Bần thần hương huệ thơm đêm/ khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”. Hương huệ, khói nhang trong không gian yên tĩnh, trầm mặc ấy đã cho Nguyễn Duy cảm giác “bần thần” nửa thực nửa mơ. Và, trạng thái nửa thực, nửa mơ ấy đã khơi nguồn cảm xúc về hình bóng người mẹ “trần gian thuở nào” rất đỗi yêu thương – “Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào” với biết bao kỷ niệm buồn vui như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua, hôm kia thôi – trong leo lẻo những vui buồn xa xôi. Trong mạch nguồn cảm xúc ấy, hình ảnh người mẹ nghèo khó, lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, suốt ngày luôn tay luôn chân với công việc cứ hiện về rõ mồn một – Nón mê thay nón quai thao đội đầu/Rối ren tay bí tay bầu/Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.Cũng như bất kỳ ai của thời lam lũ, Nguyễn Duy lớn lên từ lời ru mượt mà, yêu thương của mẹ; chứa đựng, gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm sự sâu lắng của mẹ – “Bầu ơi thương lấy bí cùng”… hoặc là “Cái cò lặn lội bờ sông / Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non”… – và những kỷ niệm đẹp về mẹ qua những đêm hè trăng sáng, mẹ trải chiếu cùng các con ngắm trăng, đếm sao; vừa chơi các trò chơi dân gian vừa hát các bài đồng dao; tìm các chòm sao hay nghe mẹ kể chuyện về chú Cuội, chị Hằng nơi “Bờ ao đom đóm chập chờn”. Nghèo đến thế, lam lũ đến thế nhưng mẹ vẫn là hiện hữu của bà mẹ Việt Nam có một nhân cách đẹp tuyệt trần; là kho ca dao tục ngữ, là cuốn sách dày về đạo lý để làm hành trang cho Nguyễn Duy bước vào đời. Và, một thời thơ ấu bên mẹ tuy còn nhiều khó khăn vất vả nhưng rất đỗi vô tư, trong sáng cùng với “cái lẽ ở đời” được mẹ bày dạy đã đi cùng Nguyễn Duy theo năm tháng cuộc đời.Mà có lẽ không chỉ để vui chơi! Đúng hơn, có lẽ mẹ đang truyền dạy cho các con kinh nghiệm qua hàng ngàn đời của ông cha về dự báo thời tiết để làm mùa qua việc xem hình dạng, ánh sáng tỏ hay mờ của các chòm sao như Sao Thần nông, Chòm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh, của Mặt trăng… Nguyễn Duy không nói về điều này nhưng ngày xưa – khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển, điều kiện chưa cho phép – người nông dân vẫn thường dựa vào những kinh nghiệm dân gian như nhìn trăng, sao, ráng mây để dự đoán thời tiết mà cày cấy, gieo trồng – ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa. Truyền dạy kinh nghiệm dân gian về làm ăn hay giảng giải về lẽ sống, nếp nhà cho con qua những lời ru, câu hát ví, hát dặm thương, những bài đồng dao… cũng là một thiên chức của người mẹ; bởi qua những câu hát ru, hát ví chắt lọc từ trái tim tràn đầy yêu thương ấy mà người mẹ truyền lại cho con những tình cảm, đạo lý biết yêu thương con người, gia đình, làng xóm và quê hương với mong muốn con sống đẹp hơn, người hơn; con lớn lên, phát triển toàn diện hơn bởi những lời ru chất chứa yêu thương cùng với những tình cảm và đạo lý ở đời – mẹ ru cái lẽ ở đời/sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn.Nhớ mẹ, hồi tưởng về những vui buồn tuổi thơ khi còn mẹ mà Nguyễn Duy cảm thấy ngậm ngùi, với nỗi lòng tê tái, buốt giá: “lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”. Nhớ thương mẹ đến tột cùng; không khỏi rưng rưng, ứa lệ khi nhớ về những đêm đông mưa rét, con lỡ đái dầm, thương con mẹ dành nằm phần ướt, nhường chỗ khô cho con.Với cảm xúc trào dâng, Nguyễn Duy đã để cho giọng thơ cứ ngậm ngùi, gieo vào lòng người những nỗi niềm bâng khuâng đến da diết; ý thơ toát lên nỗi niềm suy tư, chiêm nghiệm, trở trăn, lo toanTa đi trọn kiếp con ngườiCũng không đi hết mấy lời mẹ ruhay làMẹ ru cái lẽ ở đờiSữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồnBà ru mẹ… mẹ ru conLiệu mai sau các con còn nhớ chăng.Dường như có tiếng thở dài đang bị nén lại, dường như có chút gì đó ân hận, có chút gì áy náy còn day dứt trong lòng con – những lời mẹ dặn dò, chỉ bảo thì đến nay, mặc dù con đã “đi trọn kiếp người” nhưng “vẫn không đi hết mấy lời mẹ ru” bởi cái lẽ ở đời mà mẹ từng ru dài rộng lắm, sâu sắc lắm; bởi bao nhiêu “lẽ đời” là bấy nhiêu tâm sự mà thế hệ những người bà, người mẹ gửi gắm trong lời ru. Có thể, đó cũng là niềm tâm sự, những lo toan mà Nguyễn Duy nói hộ tất cả những người đang làm con như chúng ta?! Và, sự băn khoăn, lo lắng ấy hẳn là không phải không có lý do!Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, thiết tha là những cảm xúc yêu thương nồng hậu mà cháy bỏng và cụ thể của người con đối với mẹ. Bài thơ đã đi vào lòng biết bao người yêu thơ và chắc hẳn sẽ có không ít người cảm thấy rưng rưng, bởi những kỷ niệm ấy không chỉ riêng của nhà thơ Nguyễn Duy mà còn là kỷ niệm của bao nhiêu người khác nữa.

22 tháng 3 2022

thui sr mà !!!