K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 3 2022

Câu 1:

- phương thức biểu đạt chính : nghị luận

Câu 2:

- phương pháp lập luận : báo chí

26 tháng 3 2022

Bạn ơi câu 2 cần phải nói rõ về phương pháp lập luận sử dụng trong đoạn văn hơn.

23 tháng 3 2022

bn gần thi à tự lm nhe giúp bn bn chép lại thì cx như ko nên cố lên tự lm nhe bn. Good luck!

 

29 tháng 3 2022

Mk thi xg r ạ

17 tháng 9 2019

Bạn tham luận về gì thế?

17 tháng 9 2019

mk tham luận về lao động và đạo đức, giúp mk với

12 tháng 2 2019

Ngày nay có hội chợ; ngày xưa dân gian có chợ Tết. Chợ Tết thường họp vào những ngày cuối năm. Chợ Tết đông vui, nhiều hàng hóa, lương thực, thực phẩm. Đi chợ Tết để bán hàng, để mua sắm. Cũng có người, nhất là trẻ con đi chợ Tết để vui chơi.

Bài thơ "Chợ Tết" của Đoàn Văn Cừ là một kiệt tác văn chương, vừa đẹp vừa vui. Đọc "Chợ Tết" ta tưởng như được sống lại không khí hội hè dân gian hàng trăm năm về trước. Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ; đây là phần đầu bài thơ "Chợ Tết" :

"Dải mây trắng... ra vào đầy cổng chợ".

Những câu thơ mở đầu gợi tả một sáng tinh mơ nơi làng quê trong ánh bình minh. Dải mây trắng trên đỉnh núi "đỏ dần" lên. Những giọt sương mai như viên ngọc "hồng lam" được nhân hóa, đang "ôm ấp" nóc nhà gianh nơi thôn ấp.

Những con đường quê "viền trắng" uốn lượn mép đồi xanh. Đỉnh núi, đồi xanh, nóc nhà gianh, con đường, dải mây trắng, giọt sương hồng lam... tất cả đều ửng sáng, trông rất đẹp mắt. Nghệ thuật phối sắc của nhà thơ thật tài hoa:

"Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi

Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh

Trên con đường viển trắng mép đồi xanh"

Trên con đường uốn mình, mềm mại như dải lụa ấy, có biết bao nhiêu con người, già trẻ gái trai từ các thôn ấp "kéo hàng" nối đuôi nhau đi chợ Tết với niềm vui náo nức. Cảnh đi chợ Tết "tưng bừng" đông vui như đi hội:

"Trên con đường viển trắng mép đồi xanh

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc"

Mỗi người đi chợ Tết đều có một dáng vẻ riêng. Đoàn Văn Cừ đã làm hiện lên trước mắt chúng ta những con người hiền lành, giản dị, đáng yêu bằng bao nét vẽ có hồn, rất sinh động. Mặc áo đỏ, áo mới, áo đẹp là những thằng cu "chạy lon xon" mừng vui tíu tít. Là vài cụ già, tay chống gậy, lung còng "bước lom khom"chậm rãi. Là cô thôn nữ xinh tươi với chiếc yếm thắm, duyên dáng và kín đáo "che môi cười lặng lẽ". Là những em bé lần đầu được đi chợ Tết, còn rụt rè sợ hãi "nép đầu bên yếm mẹ?"...ngơ ngác trước những con người lạ, cảnh lạ:

"Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon

Vài cụ già chống gậy bước lom khom

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ

Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ"

Cảnh lợn, bò, gia súc "đi chợ Tết" thật ngộ nghĩnh, vội vàng và hối hả. Ta tưởng như nhà thơ đang nheo mắt tủm tỉm cười:

"Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu

Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau".

Dưới ánh hồng bình minh, mọi cảnh vật đều trở nên tráng lệ. Từ giọt sương trắng đến tia nắng tía, từ núi xanh đến đồi son, tất cả đều cựa quậy, náo nức, sáng bừng lên. Cảnh chợ Tết càng thêm đẹp:

"Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa 

Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh"

Cảnh vật được nhân hóa như mang tình người, hồn người, cùng khoe sắc chia vui với bà con các ấp "tưng bừng" đi chợ Tết. Các động từ được tác giả dùng rất đắt: "ró", "nháy hoài", "uốn mình", "thoa", "nằm"...

Khép lại đoạn thơ là một hình ảnh đông vui của phiên chợ Tết ngày xưa:

"Người mua bán ra vào đầy cổng chợ".

Bức tranh dân gian "Chợ Tết" của Đoàn Văn Cừ mang vẻ đẹp vừa bình dị thân thuộc, vừa rực rỡ sắc màu. Tác giả đã làm sống lại cảnh vật và cuộc sống nơi đồng quê đậm đà màu sắc văn hóa dân gian với tất cả tấm lòng yêu thương nồng hậu. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc của ngòi bút nghệ thuật Đoàn Văn Cừ rất giàu có, tinh luyện: trắng, đỏ, hồng lam, viền trắng, xanh, biếc, đỏ, thắm, vàng, tía, the xanh, thoa son,...

Đọc đoạn thơ, ta tưởng như mình cũng được đi chợ Tết cùng bà con các ấp hơn mấy chục năm về trước.


 

12 tháng 2 2019

Làng Thơ Việt Nam lại vừa mất đi một hồn thơ lặng lẽ và khiêm nhường: nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Phiên Chợ Tết bất hủ của ông đã đi vào tâm trí người đọc nhiều thế hệ; "chuỗi cười ngũ sắc" (Thi nhân Việt Nam) dạt dào sự sống, niềm yêu đời, cái nhìn bao dung, nhân ái đó đã đi vào tâm hồn ta.

Đọc lại bài thơ ta tưởng như còn nghe thấy tiếng cười khúc khích, hóm hỉnh, lại rất hiền lành của một nhà thơ thôn dã. Chép lại bài thơ và tìm hiểu nó, tôi coi như một niềm thành kính, một nén tâm hương tưởng nhớ đến con người của những vẻ đẹp Thôn ca bình dị. (Những con số đứng đầu dòng thơ là do tôi đánh để tiện phân tích). 

Trong biểu tượng văn hóa thế giới: chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ... Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. (Nói cho vui: Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt (vì bếp đói), chị em cũng chẳng vui vẻ gì: "Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ"! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em). Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là địa điểm thái bình.

Cấu trúc không gian của bài thơ hài hòa và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ: khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, (lớn nhất), chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh (cười, nói) cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người (8/7) trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người (5/1): cảnh chợ vãn, (gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam).

Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; "người kể chuyện" hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để "tự sự". Không gian trong văn bản nghệ thuật là "tổng hợp của các đối tượng cùng loại" và "giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường (tính liên tục, khoảng cách...)" (Yu. Lotman). Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian (trên, dưới, trong, ngoài) trong thơ Đoàn Văn Cừ "chuyển kênh" rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ: "Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, / Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh, / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh". Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động: "Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, / Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh". Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên - dưới: từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người.


Cùng với sự vận động của thiên nhiên, là con người "tưng bừng ra chợ Tết": nam, phụ, lão, ấu và có lẽ người bán nhiều hơn cả người mua (chỉ đến cuối khổ 2 (dòng 38) mới thấy có: "Một người mua cầm cẳng dốc lên xem" một con gà. Ngoài ra, từ bán vẫn áp đảo: anh hàng tranh ngồi dở bán; bà cụ lão bán hàng; anh chàng bán pháo). Người ta đi xem Chợ Tết cùng với âm thanh nhiều cung bậc: cười lặng lẽ; nói bô bô; nhẩm đọc; cười rũ rợi...


Có hai câu đứng độc lập một cách độc đáo: không liên hệ với trước nó và cũng không liên hệ với sau nó. Mở đầu khổ 2: "Người mua bán ra vào đầy cổng chợ." (16) và mở đầu khổ 3: "Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm." (39). Cả hai câu đều đứng ở đầu mỗi khổ để thông báo ngắn gọn về cái sắp diễn ra và cái sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, thì gần như cứ luân phiên một dòng có dấu phảy đến một dòng có dấu chấm thành một cặp câu đủ tạo nên một bức tranh: "Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, / Để lắng nghe người khách nói bô-bô." Rồi: "Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ, / Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán."... Cứ như thế, cả khổ 2 người đọc sẽ được thưởng thức 10 cảnh rất vui về hoạt động của con người với những âm thanh, cử chỉ cùng sắc màu. Cũng với dấu chấm câu rất cẩn thận như vậy: 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ 1 là những bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên "nằm dưới ánh bình minh" mà ở giữa đó là con người.


Cặp câu kết của bài thơ vẫn có màu sắc nhưng đã bớt nhiều tươi vui: "Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê, / Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ." Những từ láy lê-thê, tơi-bời vần bằng có chút gì đó của thê lương, ảm đạm đối lập hẳn với không khí náo nhiệt bên trên.


Nhận xét về câu kết trong thơ Đoàn Văn Cừ, các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết: "Những câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới: khép một thế-giới thực, mở một thế-giới mộng. Cảnh vừa tan thì trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng".


Cái "thế-giới mộng" ấy có lẽ còn nằm ở nguyên tắc phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những bức tranh được "lắp ghép" liền kề nhau, "độc lập" bên nhau, hối hả, náo nhiệt. Một khu triển lãm trưng bày sắc màu mà gam chủ đạo là màu nóng ấm: màu đỏ. (Màu đỏ trong biểu tượng văn hóa thế giới được coi là "biểu tượng cơ bản của bản nguyên sống", là "màu của ngày, của dương tính", của sự sống, của thiên ân, thông điệp của hy vọng, "phát tiết từ mặt trời và đó là màu siêu việt nhất"... cũng là màu của tình cảm). Màu đỏ cùng với "họ hàng" đậm nhạt của nó (hồng, son, thắm, tía) trở đi trở lại đến 9 lần, gần như rải suốt chiều dài bức tranh Chợ Tết ít hơn một chút so với tổng các màu còn lại: 4 từ trắng; 4 từ xanh, biếc, lam; 3 từ vàng; 1 từ nâu. Riêng đối với từ vàng thì con bò vàng (11) và đống vàng (28) chỉ vật chất đối lập với ánh dương vàng (43) chỉ tinh thần, hướng nội. Cũng tương tự như vậy với từ trắng: 3 lần đầu mây trắng (1); con đường viền trắng (3); sương trắng (12) chỉ vật chất; 1 lần cuối vừa chỉ vật chất tóc trắng (26) vừa chỉ thời gian.


Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này: "Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh:


Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,

Nước thời gian gội tóc trắng phau phau."

Giờ đây khi nhìn vào cấu trúc bài thơ thấy trên hai câu này là 24 dòng và dưới nó là 18 dòng, cũng coi như nằm "giữa bức tranh" đúng như nhận định bên trên. Đây là hai câu tuyệt bút hiếm hoi về thời gian và đậm đặc tính thời gian: bà cụ lão; miếu cổ; nước thời gian; tóc trắng in dấu vết thời gian đều đứng án ngữ ở hai đầu hai câu thơ tạo nên một bức tranh vừa im lìm vừa chuyển động của thời gian.

Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Nhà họa sĩ "ngây thơ" Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một "bản nguyên sống" trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống. Trong đời sống đó, con người là trung tâm trong cái nhìn và sáng tạo nghệ thuật của ông: Con người là trung tâm trong mỗi khổ thơ; con người lại là trung tâm (khổ 2) của toàn phiên Chợ Tết mà ở giữa trung tâm đó lại là thời gian. Cái thời gian sẽ chia cách hai thế giới đối với mỗi số phận; nhưng cũng cái thời gian đó sẽ làm bền vững hơn cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cho nền tảng văn hóa sâu xa của mỗi cộng đồng người mà Chợ Tết là muôn một.

28 tháng 11 2016

1. Khổ thơ trên nói về cảm xúc yêu thương, nỗi niềm, kính trọng, kỉ niệm của người cháu đối với người bà của mình.

2. Bạn có thể nhớ lại những kỉ niệm của bà bạn với bạn để bài làm có thể hay hơn nhé!!!

Chúc bạn học tốt!!!hihihihihaha

18 tháng 11 2016

Các bạn chưa bỏ venen à lolang

23 tháng 3 2022

có thể tự viết ạ, dàn ý đầy đủ lắm bạn cần thêm quan hệ từ, từ nối, liên kết các câu cho chặt chẽ thế là xong:3

23 tháng 3 2022

Oke bn:3

12 tháng 10 2016

Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài

“Cây tre VN: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng…”

“Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”

Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”. Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt.

Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống. Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phài ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng_ hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Àn xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre ( theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20cm mỗi ngày).

Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn côngtrong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập_ Tự do cho Tổ Quốc. “ Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…” Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích ( Nàng Ưt ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre.

Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.

Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng : đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre. Có thể thấy rằng bản lĩnh bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt

12 tháng 10 2016

      Cây tre từ lâu đã là biểu tượng của sự đoàn kết của dân tộc ta.uy mộc mạc nhưng tre Việt Nam có vẻ đẹp như chiều sâu của tâm hồn con người. Tre là vẻ đẹp của phong cảnh quê hương, là vẻ đẹp của nền văn hóa lâu đời. Dưới bóng tre, xóm làng hiện lên thật đẹp, một vẻ đẹp thanh bình, yên ả. Đặc biệt vẻ đẹp trang nghiêm của những mái đình chùa thấp thoáng dưới bóng tre xanh, vẻ đẹp thơ mộng của ánh trăng vàng lơ lửng trên ngọn tre. Hình ảnh đẹp của tre không chỉ có như thế, không chỉ đơn thuần là màu xanh cây lá, không chỉ là cái dáng nghiêng nghiêng ôm ấp xóm làng mà vẻ đẹp của tre là sự cần cù, chất phác. Nhà nông xem cây tre như cánh tay phải của mình. 

   Không chỉ vậy, tre còn tạo ra những hình ảnh thuân thuộc với con người làng quê. Hình ảnh cây tre Việt Nam thật cao quý: cần cù, bất khuất, thủy chung. Tre gắn bó với người, cùng người lao động và chiến đấu, cùng con người xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hình tượng cây tre Việt Nam là hình tượng của đất nước, của dân tộc Việt Nam. Phẩm chất của tre là phẩm chất của người Việt Nam yêu nước. Tôi ước mong họ nhà tre sẽ mãi xanh, một màu xanh của tâm hồn, của nền văn hóa, của cuộc sống tươi đẹp đang hướng tơi tương lai. Tôi yêu cây tre không chỉ vẻ đẹp của nó còn mang những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam.

Chúc bạn học tốt!

10 tháng 11 2019

Trường học yêu thích của tôi là một ngôi trường đẹp. Đó là một trường học lớn và rộng. Trường có nhiều cây xanh và ở đó có sân vận động, bãi thể thao đủ cho học sinh chơi. Những điều tôi mong đợi nhiều nhất, đó là một trường học tập tuyệt vời với nhiều trang thiết bị hiện đại. Một điều nữa, các sinh viên của trường rất thân thiện và hữu ích và các giáo viên là quá tốt. Đó là tất cả về trường học trong giấc mơ của tôi.