K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

17 tháng 11 2017

Đáp án: C

Giải thích: Đồng bằng Duyên hải miền Trung ít bị ngập úng hơn các vùng khác chủ yếu do địa hình ở khu vực này dốc, hẹp ngang với nhiều dãy núi đâm ngang ra biển và không có đê ngang lũ nên dễ thoát nước.

14 tháng 11 2019

Đáp án D

Nguyên nhân chủ yếu Đồng bằng Duyên hải miền Trung ít bị ngập úng hơn Đồng bằng sông Hồng do vùng Đồng bằng Duyên hải miền Trung có mật độ dân cư thấp hơn, ít có những công trình xây dựng lớn, hầu như chỉ có các con sông nhỏ đổ ra biển, địa hình đồng bằng nhỏ hẹp bị cắt xẻ mạnh, không có nhiều vùng trũng rộng lớn nên dễ thoát nước

30 tháng 4 2019

Đáp án: D

Giải thích: Nguyên nhân chủ yếu Đồng bằng Duyên hải miền Trung ít bị ngập úng hơn Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long do vùng Đồng bằng Duyên hải miền Trung có mật độ dân cư thấp hơn, ít có những công trình xây dựng lớn, hầu như chỉ có các con sông nhỏ đổ ra biển.

12 tháng 5 2019

HƯỚNG DẪN

a) Vào mùa đông ở vùng khí hậu Nam Bộ khô nóng, còn ở vùng khí hậu Trung và Nam Bắc Bộ lạnh và có mưa phùn.

- Mùa đông ở Nam Bộ chịu tác động của gió Tín phong Bán cầu Bắc thổi từ cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương đến; đây là khối khí khô, nóng và ổn định nên gây ra thời tiết khô nóng.

- Trung và Nam Bắc Bộ về mùa đông chịu tác động của gió mùa Đông Bắc thối từ áp cao phương Bắc về nên lạnh, sang nửa sau mùa đông gió này lệch về biển nên tăng độ ẩm và gây mưa phùn khi vào Bắc Bộ.

b) Mùa mưa ở Nam Bộ kéo dài hơn ở Bắc Bộ, trong mùa đông ở Bắc Bộ vẫn có những ngày nhiệt độ khá cao, nóng như mùa hạ:

- Mùa mưa ở Bắc Bộ và Nam Bộ trùng với thời gian hoạt động của gió mùa mùa hạ; do tác động kéo dài của gió mùa Tây Nam ở Nam Bộ nên mùa mưa ở đây kéo dài hơn ở Bắc Bộ.

- Mùa đông ở Bắc Bộ có gió mùa Đông Bắc thổi theo từng đợt gây lạnh. Giữa những đợt thổi của gió mùa Đông Bắc, Tín phong Bán cầu Bắc mạnh lên, làm nhiệt độ tăng khá cao

c) Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có chế độ nhiệt ít biến động và không có mùa đông lạnh như ở hai miền địa lí tự nhiên khác.

- Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ vào khoảng thời gian từ tháng IX - IV chịu tác động của Tín phong Bán cầu Bắc từ cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương thổi đến. Khối khí này khô, nóng, tương đối ổn định nên làm chế độ nhiệt ở đây ít biến động.

- Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ, miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ về mùa đông (từ tháng XI - IV) chịu tác động của gió mùa Đông Bắc từ cao áp phương Bắc tràn về nên lạnh và có nhiều biến động. Tín phong Bán cầu Bắc thổi từ cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương cũng hoạt động mạnh lên ở hai miền này vào những lúc gió mùa Đông Bắc suy yếu, góp phần làm biến động chế độ nhiệt.

d) Tuy có mưa phùn vào mùa đông, nhưng lượng mưa trung bình năm của vùng khí hậu Đông Bắc Bắc Bộ vẫn nhỏ hơn ở vùng khí hậu Nam Bộ:

- Nam Bộ có lượng mưa lớn trong suốt cả các tháng về mùa mưa do chịu tác động mạnh của gió Tây Nam từ cao áp Bắc Ấn Độ Dương đến vào đầu hạ và gió mùa Tây Nam có nguồn gốc từ Bán cầu Nam lên vào giữa và cuối mùa hạ.

- Bắc Bộ vào đầu mùa hạ chỉ có mưa dông nhiệt, lượng mưa không lớn; đến khoảng tháng VIII lượng mưa mới lớn do tác động của dải hội tụ và gió mùa Đông Nam (gió mùa Tây Nam). Cuối mùa mưa, vào khoảng tháng X, những đợt gió mùa Đông Bắc tràn về sớm làm giảm lượng mưa.

7 tháng 6 2017

Đáp án: A

Giải thích: Vùng trung du và miền núi có điều kiện sống khó khăn: địa hình hiểm trở, giao thông qua lại không thuận lợi ⇒ dân cư phân bố thưa thớt.

19 tháng 9 2019

Đáp án B

Mưa bão lớn, nước biển dâng, lũ nguồn dã làm cho ở nhiều vùng trũng Bắc Trung Bộ và đồng bằng hạ lưu các sông lớn Nam Trung Bộ bị ngập úng mạnh vào các tháng IX – X

28 tháng 1 2016

Duyên hải miền Trung có nhiều lợi thế để hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp .
-Duyên hải miền Trung là một trong những vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú, đó là các khoáng sản kim
loại, phi loại có trữ lượng lớn nhất nhì cả nước.
          +Khoáng sản kim loại điển hình có mỏ sắt Thạch Khê lớn nhất cả nước trữ lượng hơn 500 triệu tấn trong tổng số hơn 1 tỷ
tấn sắt cả nước.
          + Có mỏ Crôm Cổ Định- Thanh Hoá duy nhất cả nước .
          + Có mỏ Măng gan Nghệ An lớn thứ 2 cả nước sau Cao Bằng.
Các mỏ khoáng sản kim loại này cho phép duyên hải miền Trung xây dựng nhiều nhà máy luyện kim đen quy mô lớn, điển
hình là luyện gang thép đồng thời có thể khai thác khoáng sản tạo ra nguồn nguyên liệu xuất khẩu có giá trị lớn, điển hình là xuất
khẩu quặng Crôm.

-Khoáng sản kim loại màu điển hình có mỏ Thiếc Quỳ Hợp - Nghệ An trữ lượng lớn vào loại nhất cả nước, mỏ Vàng Bồng
Miêu duy nhất ở cả nước. Hiện nay 2 loại khoáng sản này là mặt hàng xuất khảu rất có giá trị vàcũng là cơ sở để thu hút các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài và các dự án liên doanh quốc tế.

-Duyên hải miền Trung là một trong những vùng có trữ lượng về VLXD lớn thứ nhì cả nước, điển hình là đá vôi tập trung
lớn nhất ở khu vực BTbộ như Thanh hoá, Nghệ An, Quảng Bình là nguyên liệu làm xi măng rất tốt, cho nên khu vực này có khả
năng xây dựng nhiều nhà máy xi măng điển hình xi măng Bỉm Sơn công suất hơn 1 triệu tấn/ năm trong tương lai có thể xây dựng
và hoàn thiện thêm nhà máy xi măng Nghi Sơn- Thanh Hoá.

-Trong vùng có trữ lượng lớn nhất cả nước dó là cát thuỷ tinh trong có chứa hàm lượng ôxít Ti tan khá lớn. Vì vậy, cát thuỷ
tinh vừa là nguyên liệu sản xuất kính, pha lê có giá trị vừa là nguyên liệu để tinh lọc thành khoáng sản Titan phục vụ công nghiệp
luyện kim, đồng thời cũng là sản phẩm xuất khẩu rất có giá trị.

-Duyên hải miền Trung cũng cơ trữ lượng lớn về khoáng sản đất sét, Cao lanh điển hình như mỏ Cao lanh ở đồng Hới trữ
lượng lớn nhất cả nước là nguyên liệu sản xuất gốm sứ qui mô lớn.

-Duyên hải miền Trung cũng là vùng nổi tiếng cả nước về trữ lượng đá quý, có mỏ lớn nhất ở Quỳ Châu- Quỳ Hợp- Nghệ
An là sản phẩm xuất khẩu rất có giá trị. Bên cạnh đá quý có trữ lượng lớn về đá xây dựng nổi tiếng như đá hoa cương (Thanh Hoá,
Quảng Bình) là nguyên liệu để sản xuất đá ốp lát phục vụ cho kiến trúc và xây dựng.

-Duyên hải miền Trung còn có trữ lượng lớn thứ nhì cả nước về than đá nổi tiếng như mỏ than đá Nông Sơn- quảng Nam
(trữ lượng khoảnghơn 10 triệu tấn) là nguyên liệu phục vụ cho phát triển công nghiệp nhiệt điện như nhiệt điện Đà nẵng- Quảng
Ngãi...

-Duyên hải miền Trung lại có vùng thềm lục địa rộng, dưới thềm lụcđịa có bể trầm tích phía Đông Quảng Nam- đà Nẵng có
trữ lượng dầu khí khá lớn. Cho nên ngày nay ta đang xây dựng máy lọc dầu số 1 Dung Quất để đón trước sự khai thác dầu khí vùng
này.

Tóm lại, duyên hải miền Trung với nguồn tài nguyên, nguyên liệu khoáng sản đa dạng, trữ lượng khá lớn như nêu trên chính
là cơ sở rất quan trọng cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp với quy mô trung bình.

-Bên cạnh cơ sở cung cấp nguyen liệu khoáng chất to lớn như vậy duyên hải miền Trung còn có khả năng lớn nhất nhì cả                                    nưóc về khả năng cung cấp các nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản... cho phát triển các ngành công nghiệp chế biến với qui mô
lớn diểnhình chế biến gỗ, hải sản, làm nước mắm...

-Duyên hải miền Trung cũng là vùng rất giàu về tiềm năng du lịch cả về tự nhiên lẫn lịch sử văn hoá nhân văn nổi tiếng với
nhiều hang động, nhiều bãi tắm đẹp (động Phong Nha, Sầm Sơn, Cửa Lò, Nha Trang) và đặc biệt trong vùng có cả 3 di sản văn hoá
lớn nhất cả nước đó là Cố đô Huế, Phố Cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn. Cho nên duyên hải miền Trung sẽ có ngành công nghiệp du
lịch phát triển mạnh nhất nhì cả nước.

- tất cả các tiềm năng về tự nhiên, văn hoá nhân văn nêu trên khẳng định duyên hải miền Trung có nhiều thuận lợi để hình
thành cơ cấu kinh tế công nghiệp hoàn chỉnh. Nhưng muốn hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh thì vùng này cần phát triển
theo những hướng chính sau đây:
       +Trước hết cần phải đảm bảo đủ năng lượng điện cho vùng mà trước hết có thể sử dụng nguồn năng lượng điện qua đường
cao áp 500KW từ Hoà Bình. Và đồng thời tiến hành đầu tư xây dựng thêm nhiều máy thuỷ điện mới, ưu tiên thuỷ điện cỡ trung
bình và nhỏ. Trong đó có nhà máy thuỷ diện lớn nhất khu vực là thuỷ điện Hàm Thuận công suất dự kiến cao tơí 3 triệu kw, đã
khánh thành thuỷ điện sông Hinh 70000 kw (Phú yên) thuỷ diện Vĩnh Sơn 60000 kw (Bình định) tiếp tục đầu tư xây mới thuỷ điện
Đa Mi, Ninh Thuận Bản Mai công suất hơn 250000 kw. Việc xây dựng các nhà máy thuỷ điện như neu trên cùngvới nguồn diện bổ
sung từ Hoà Bình vào chắc chắn sẽ tạo ra nguồn động lực hàng đầu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá trong vùng.
       +Tiếp tục đầu tư xây dựng vùng kinhtế trọng điểm miền trung, đó là Thừa Thiên Huế, đà Nẵng, Quảng Ngãi cùng với xây
dựng khu nhà máy lọc dầu Dung Quất số 1 sẽ tạo ra "cực" kinh tế miền Trung có khả năng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước
ngoài và tạo ra thay đổi lớn về bộ mặt kinh tế trong vùng.
       + Đầu tư hoàn thành một số cụm công nghiệp quy mô nhỏ và trung bình như cụm công nghiệp Bỉm Sơn- Thanh hoá mà hiện
nay đã có nhà máy xi măng Bỉm Sơn lớn nhất cùng với xi măng Nghi Sơn và tiếp tục xây thêm nhiều nhà máy chế biến nông sản,
gỗ và vật liệu xây dựng. ở vùng cực Nam Trung bộ (Ninh thuận- Bình thuận) tiếp tục đầu tư xây dựng cụm công nghiệp chế biến
hải sản, khai thác cát xuất khẩu và chế biến sản phẩm cây công nghiệp đặc sản như Nho, Thanh Long, Điều, Dưa...
Muốn đạt được mục tiêu hoàn thành cơ cấu công nghiệp như nêu trên thì duyên hải miền Trung phải đầutư xây dựng
CSVCHT vì CSHT được coi như là nguồn lực không thể thiếu dược đối với sự nghiệp CN hoá.

*Việc hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp của duyên hải miền Trung phải gắn với hiẹn đại hoá về CSVCKTHT.

-Để tạo ra cái nền tảng cho hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp ở miền TRung trước hết vùng này phải đầu tư nâng cấp
hiện đại hoá mạng lưới GTVT- TTLL theo những hướng sau:
        +Nâng cấp hiện đại hoá quốc lộ 1A và đường sắt Thống nhất vì 2 này được coi như là trục xương sốngcủa các tuyến GT
Bắc-Nam chạy xuyên qua duyên hải miền Trung . Vì vậy quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất được coi là động mạch chủ của các
mối lưu thông phân phối của duyên hải miền Trung. Đồng thời nhờ 2 tuyến này mà duyên hải miền Trung có thể gắn kết chặt chẽ
với 2 cực kinh tế của cả nước dó là Bắc Bộ và Nam Bộ.
        +Song song với hiện đại hoá quốc lộ 1 A và đường sắt Thống nhất thì phải hiện đại các tuyển giao thông theo hướng Đông
Tây (quốc lộ 7,8,9,19,21) để tạo thành mạng lưới giao thông khăng khít giữa duyên hải miền Trung với Tây nguyên, với các bạn
Lào, Căm-Pu- Chia.
         +Đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cảng biển, đặc biệt các cảng biển lớn, cảng nước sâu như cảng Đà nẵng, Quy Nhơn,
Nha Trang, Cam Ranh... đầu tư xây dựng thêm nhiều cảng mới như cảng Dung Quất, Văn Phong, Chân Mây... và đầu tư xây dựng
cảng Cửa Lò (Vinh) Đà Nẵng thành cảng biển Quốc tế (đó là những cửa thông ra biển của Lào)
         +Phải đầu tư nhanh chóng xây dựng đường trường sơn CN hoá (xa lộ Bắc nam) để tạo tiền đề khai thác quản lý, xây dựng
hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở miền Tây duyên hải miền Trung đồng thời cũng là tạo cơ hội bảo vệ an ninh biên giới
phía Tây Tổ Quốc.

3 tháng 12 2017
Với Quyết định 61/2008/QĐ -TTg ban hành ngày 9/5/2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội dải ven biển miền Trung Việt Nam đến năm 2020”. Theo đó, nêu rõ mục tiêu xây dựng dải ven biển miền Trung trở thành vùng kinh tế phát triển, cửa ngõ phía Đông và là một trong các hành lang kinh tế Bắc - Nam quan trọng của miền Trung và cả nước. Đến năm 2020, tăng trưởng GDP của khu vực này sẽ đạt khoảng 12,9% đến 13%; tỷ trọng GDP của kinh tế trên biển và ven biển của toàn vùng duyên hải miền Trung đạt khoảng 76% đến 80,4% và đóng góp khoảng 82% đến 85% giá trị xuất khẩu của miền Trung.

Tàu cá của ngư dân các tỉnh miền Trung neo đậu tại âu thuyền Thọ Quang. Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN

Nhìn lại gần một thập kỷ phát triển vừa qua, những thành tựu kinh tế xã hội mà khu vực duyên hải miền Trung đã đạt được chưa thực sự tương xứng với tiềm năng và lợi thế so sánh hiện có; chưa đáp ứng được kỳ vọng và mong muốn của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương; chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa giúp thúc đẩy nền kinh tế toàn vùng phát triển một cách đồng đều và cũng chưa thực sự góp phần nâng cao đời sống người dân thông qua việc tăng thu nhập; thay đổi cơ cấu kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân ở các tỉnh, thành phố vùng duyên hải…

PGS.TS Trần Đình Thiên, Viện Kinh tế Việt Nam, đại diện Nhóm tư vấn phát triển vùng duyên hải miền Trung nhận định, dù các tỉnh đều nỗ lực tối đa để tận dụng lợi thế của mình, nhưng đến nay, vì nhiều lý do, các lợi thế đó vẫn chưa được phát huy hiệu quả. Rõ ràng, nếu chỉ trông cậy vào lợi thế tự nhiên, dù to lớn đến mấy, cũng là không đủ.

Thậm chí, trong nhiều trường hợp, nếu không biết phát huy đúng kiểu, lợi thế to lớn có thể trở thành yếu tố kìm hãm phát triển; dễ chuyển thành bất lợi thế, có tác động phá vỡ các nỗ lực phát triển của mỗi địa phương. Cuộc cạnh tranh phát triển cảng biển đang diễn ra quyết liệt giữa các tỉnh duyên hải miền Trung là minh chứng điển hình của nghịch lý này.

Ngoài việc tận dụng lợi thế biển thì việc phát triển hàng không và kết nối trên bộ của vùng duyên hải miền Trung cũng đang gặp khó khăn và chưa có hướng giải quyết thật sự đúng đắn, ông Thiên nhấn mạnh.

PGS.Ts Bùi Tất Thắng, Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho rằng, trong những năm qua, hấp lực thị trường của khu vực duyên hải miền Trung cũng chưa có dấu hiệu khởi sắc đột biến. Dù các địa phương đều nỗ lực tìm kiếm các cơ chế chính sách thúc đẩy thu hút đầu tư, song, kết quả chưa được bao nhiêu, ngoại trừ một số công trình, dự án được Nhà nước đầu tư có chủ định.

Tổng số vốn đầu tư thu hút được năm 2016 mới chỉ bằng 13% vốn đầu tư cả nước; kim ngạch xuất khẩu bằng 3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nền kinh tế… Đến nay về cơ bản, khu vực duyên hải miền Trung vẫn là vùng tương đối nghèo. Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 88% của cả nước, chỉ cao hơn vùng trung du miền núi phía Bắc (67%) và vùng Tây Nguyên (84%).

"Ngoại trừ ba tỉnh, thành phố là Đà Nẵng, Khánh Hòa và Bình Thuận, còn lại hầu hết các tỉnh, thành phố khác đều có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 7%. Các lĩnh vực phát triển ngành nghề, khu kinh tế, khu công nghiệp, kết cấu hạ tầng… chưa có sự phát triển và cải thiện rõ rệt nhưng chưa đủ sức tạo ra các bứt phá lớn", ông Thắng dẫn biện.

Trước thực tế này, để phát huy hiệu quả của liên kết vùng, nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế từng địa phương nói riêng và toàn vùng duyên hải miền Trung thêm sức bật vươn xa hơn, các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, cần phải có tư duy mới, cách làm mới đảm bảo tầm nhìn xa hơn và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài nhưng hiệu quả thiết thực.

PGS.TS Bùi Tất Thắng cho hay, cần xây dựng “chính sách vùng” và sớm thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu, phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng; khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Việc lập quy hoạch vùng và chính sách vùng phải được xem như một công cụ quản lý “cơ sở”, không phải kêu gọi liên kết giữa các địa phương như trước đây vẫn làm.

Cùng với đó, cần tăng cường kết nối vùng duyên hải miền Trung với các vùng khác sắp triển khai các dự án hạ tầng giao thông, như trục Bắc – Nam có đường bộ cao tốc Bắc – Nam ở phía Đông và đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam; trục Đông – Tây có đường cao tốc kết nối Thủ đô Hà Nội - Thủ đô Viêng Chăn (Lào) và tuyến đường sắt Viêng Chăn - cảng Vũng Áng…

Những dự án kết nối hạ tầng sẽ mở ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nghề, các khu kinh tế, khu công nghiệp… thuộc vùng duyên hải miền Trung trong thời gian tới, ông Thắng nhấn mạnh. Các địa phương trong vùng cần nỗ lực nhiều hơn, nhanh nhạy và quyết liệt hơn để đón bắt và thúc đẩy những cơ hội này.

Còn theo khuyến nghị của PGS.TS Trần Đình Thiên, vùng duyên hải miền Trung cần định vị lại cấu trúc phát triển kinh tế dựa trên lợi thế về du lịch. Tuy nhiên, cần đặt ra vấn đề, liệu ngành du lịch có đủ các yếu tố để bảo đảm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cho toàn vùng hay không? Mối quan hệ tương hỗ giữa ngành du lịch với công nghiệp, nông nghiệp ở các địa phương sẽ được giải quyết như thế nào để dần thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động tại các địa phương?.

Ngoài ra, cần xem xét lại thực chất mối quan hệ giữa lợi thế cảng biển và năng lực phát triển “hậu phương công nghiệp” của miền Trung. Cùng với đó, cần quy hoạch lại phát triển vùng duyên hải miền Trung theo hướng xác lập sự ưu tiên rõ ràng về thể chế và nguồn lực.

Đại diện một trong những tập đoàn đầu tư lớn tại khu vực duyên hải miền Trung, ông Đặng Tất Thắng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn FLC, nêu quan điểm: Tốc độ phát triển, nhất là về lĩnh vực du lịch tại vùng duyên hải miền Trung còn có độ chênh lớn và chưa thực sự “nắm chặt tay nhau cùng đi lên”.

Ngoài những địa phương đã phát huy hiệu quả những lợi thế trời phú về cảnh quan, văn hóa lịch sử… còn lại hầu hết các tỉnh khác chưa thể phủ sóng đậm nét trên bản đồ du lịch cả nước, mặc dù ở đó cũng sở hữu cảnh quan không hề thua kém.

Chính vì thế, chiến lược đầu tư của tập đoàn cũng sẽ tương thích với các điều kiện về khai thác du lịch dựa vào tiềm năng, lợi thế thiên nhiên và các cơ chế, chính sách ưu đãi ở từng tỉnh, thành. Đồng thời, nếu có sự gắn kết, tạo thuận lợi của toàn địa phương thuộc vùng duyên hải miền Trung trong việc phát triển ngành du lịch thì đó thực sự là điều tuyệt vời.

Tập đoàn FLC hiện đang tiếp tục mở rộng đầu tư nhiều dự án tại Sầm Sơn (Thanh Hóa), Nghệ An, Quy Nhơn (Bình Định), Quảng Bình. Ngoài ra, một số tỉnh khác như Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên… Tập đoàn FLC cũng đang tiến hành khảo sát và đánh giá cao tiềm năng của các bãi biển và cảnh quan tự nhiên. Mặc dù vậy, cũng phải thấy rõ rằng, việc FLC có thể đi đến quyết định đầu tư phụ thuộc chính vào hai tham số quan trọng là quỹ đất và các chính sách của địa phương.

Bởi lẽ, các dự án của FLC đều có quy mô lớn, đồng bộ hạ tầng và dịch vụ, nên quỹ đất triển khai dự án cần có diện tích 200ha đến 300 ha. Mặt bằng phải được đảm bảo “sạch” để thuận lợi cho việc triển khai dự án và không gây xáo trộn tới văn hóa, sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương. Thêm nữa, cần sự quyết tâm, đồng thuận của bộ máy chính quyền địa phương, để tạo điều kiện cho dự án được triển khai nhanh, đúng tiến độ đề ra.
Thạch Huê (TTXVN)
9 tháng 3 2019

Đáp án cần chọn là: A

Vùng trung du và miền núi có điều kiện sống khó khăn: địa hình hiểm trở, giao thông qua lại không thuận lợi => dân cư phân bố thưa thớt

5 tháng 2 2016

a) Nguyên nhân chủ yếu gây ra thời tiết lạnh về mùa đông ở vùng Tây bắc

- Do gió mùa đông bắc và độ cao địa hình

- Vùng Tây bắc bị khuất sau dãy Hoàng Liên Sơn nên ít bị ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông bắc; khí hậu lạnh chủ yếu do độ cao địa hình bởi vì phần lớn lãnh thổ của vùng có nhiều khối núi cao trên 2.000m, nhiều đỉnh vượt trên 3.000m tạo nên sự phân hóa khí hậu theo độ cao.

b) Duyên hải Nam Trung Bộ có mưa vào thu đông (khoảng tháng 8 đên tháng 1) : do đón nhận trực tiếp của các luồng gió thổi hướng đông bắc từ biển vào  (gió mùa đông bắc, Tín phong nửa cầu Bắc), bão, áp thấp nhiệt đớ từ biển Đông dải hội tụ nội chí tuyến.

c) MIền Nam Trung Bộ và Nam Bộ lại không có đai ôn đới : vì đai ôn đới chỉ xuất hiện ở độ cao trên 2.600mm, trong khi đó đỉnh núi cao nhất của miền mới đạt 2.598m (đỉnh Ngọc Lĩnh)

15 tháng 4 2019

b, duyên hải miền trung có mưa về thu đông là vì :

mùa đông có gió mùa đông đi qua biển bị biến tính vào đất liền thổi vuông góc với dãy trường sơn bắc gây ra mưa lớn vào thu đông