K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5.

THUẬT HOÀI

Phạm Ngũ Lão

Phiên âm:

   Hoành (1) sóc giang sơn cáp kỷ thu,

  Tam quân (2) tỳ hổ (3) khí thôn ngưu (4).

  Nam nhi vị liễu công danh trái,

  Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu (5).

Dịch nghĩa: 

Cầm ngang ngọn giáo (bảo vệ non sông) đã trải mấy thu (mấy năm ròng) rồi,

Quân đội dũng mãnh như hổ báo, có khí thế quật ngã trâu (hoặc: át cả sao Ngưu)

Làm trai, (nếu) chưa trả xong nợ công danh,

(Thì sẽ) hổ thẹn khi nghe người đời nhắc đến sự nghiệp của Vũ hầu.

Dịch thơ:

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Chú thích: 

(1) Hoành: ngang, nằm ngang; ở đây được dùng làm động từ với nghĩa là “cầm ngang”, “giữ ngang”, thể hiện tư thế người anh hùng thời đại; hoành sóc tức là cầm ngang ngọn giáo.

(2) Tam quân: ba quân, chỉ quân đội của một quốc gia nói chung, bao gồm: tiền quân, hậu quân, trung quân hoặc tả quân, trung quân, hữu quân - cách tổ chức binh lính trong tiến quân, dàn trận; cũng có ý kiến cho rằng tam quân là gồm thủy binh, kỵ binh, bộ binh. Tóm lại, tam quân ở đây hàm ý chỉ sức mạnh của quân đội một nước tự chủ, biểu thị niềm tự hào của tác giả.

(3) Tỳ hổ: một loai dã thú, thuộc loại báo, có bản lĩnh mạnh mẽ, cương cường; ở đây, từ này được dùng để chỉ sự dũng mạnh của quân đội.

(4) Khí thôn ngưu: có hai cách hiểu: một là nói về giống hổ báo, tuy nhỏ nhưng đã có khí thế mạnh mẽ, nuốt được cả trâu; hai là nói về sao Ngưu, ý chỉ hào khí dũng mãnh bốc lên làm mờ cả sao Ngưu. Nói chung, cả hai cách hiểu đều nhấn mạnh vào khí thế dũng mãnh của quân sĩ nhà Trần.

(5) Vũ hầu: tức Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị (thời Tam Quốc – Trung Hoa), được phong tước Vũ Lượng hầu, gọi tắt là Vũ hầu. Gia Cát Lượng lập được công trạng lớn, lưu danh sử sách, trở thành biểu tượng của khát vọng lập công với đất nước, với cuộc đời.

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ.

Câu 2. Xác định luật thơ của bài thơ.

Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

Câu 4. Nhận xét về hình tượng bậc nam tử trong bài thơ Thuật hoài.

Câu 5. Qua văn bản, hãy rút ra một thông điệp mà anh/chị tâm đắc và giải thích lí do.

 

1
4 tháng 9
Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ.

Bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, hay còn gọi là thơ Đường luật. Đây là một thể thơ cổ điển của văn học Trung Quốc, được sử dụng nhiều trong thơ ca Việt Nam thời phong kiến.

Câu 2. Xác định luật thơ của bài thơ.

Bài thơ "Thuật hoài" được viết theo luật thơ Đường luật, có đặc điểm:

  • 7 chữ mỗi câu.
  • 4 câu đối (câu 1 đối câu 2 và câu 3 đối câu 4).
  • Luật bằng trắc: Từng câu thơ phải tuân thủ quy luật về âm bằng và trắc, với quy định rõ ràng về vị trí của các từ bằng và trắc trong từng câu thơ.

Trong bài thơ này, các câu thơ được sắp xếp theo đúng quy luật về số lượng chữ và âm điệu, đảm bảo sự hài hòa và cân đối.

Câu 3. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu".

Câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu" sử dụng biện pháp tu từ so sánhnhân hóa để làm nổi bật sức mạnh và khí thế của quân đội:

  • So sánh: Quân đội được so sánh với hổ báo, loài thú dũng mãnh và mạnh mẽ, nhằm làm nổi bật sức mạnh và sự uy dũng của quân đội. Đây là một hình thức so sánh để nhấn mạnh khả năng chiến đấu vượt trội của quân đội.

  • Nhân hóa: Cụm từ “khí thôn ngưu” (khí thế nuốt trôi trâu) dùng để hình dung khí thế mạnh mẽ của quân đội có thể làm mờ nhạt cả sao Ngưu (trong một cách hiểu khác). Biện pháp này gợi lên hình ảnh quân đội với sức mạnh vượt trội, có thể “nuốt” (hay vượt qua) mọi thử thách.

Tác dụng của biện pháp tu từ là làm nổi bật hình ảnh quân đội hùng mạnh, thể hiện niềm tự hào và khí thế anh hùng của người chiến sĩ trong thời kỳ chống giặc ngoại xâm.

Câu 4. Nhận xét về hình tượng bậc nam tử trong bài thơ "Thuật hoài".

Trong bài thơ "Thuật hoài", hình tượng bậc nam tử được thể hiện qua sự kết hợp giữa:

  • Khí phách anh hùng: Bậc nam tử được miêu tả với tư thế cầm ngang ngọn giáo, chiến đấu bảo vệ non sông, thể hiện tinh thần dũng cảm và khí phách anh hùng.
  • Tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng: Mặc dù có sức mạnh và khí thế lớn lao, bậc nam tử vẫn cảm thấy "hổ thẹn" khi chưa hoàn thành trách nhiệm và công danh. Điều này cho thấy sự tự ý thức và lòng tự trọng cao, luôn cảm thấy cần phải làm nhiều hơn nữa để xứng đáng với danh tiếng và sự kỳ vọng của xã hội.

Hình tượng này thể hiện rõ lý tưởng của người anh hùng thời xưa, không chỉ có sức mạnh mà còn có trách nhiệm và lòng tự trọng cao.

Câu 5. Qua văn bản, hãy rút ra một thông điệp mà anh/chị tâm đắc và giải thích lý do.

Một thông điệp quan trọng từ bài thơ "Thuật hoài" là:

"Làm trai phải có trách nhiệm hoàn thành công danh, nếu không sẽ cảm thấy xấu hổ khi so sánh với những bậc vĩ nhân."

Giải thích lý do:

  • Trách nhiệm và cống hiến: Bài thơ nhấn mạnh rằng dù có đạt được thành công hay không, một người đàn ông cần phải có trách nhiệm lớn lao trong việc hoàn thành công danh và cống hiến cho xã hội. Sự tự tin và lòng tự trọng của người đàn ông được đánh giá qua việc hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.

  • Tinh thần tự giác và nỗ lực: Thông điệp này khuyến khích mọi người, đặc biệt là các bậc nam tử, không ngừng nỗ lực để vượt qua thử thách và đạt được thành công. Lòng tự trọng và sự tự giác trong việc hoàn thành nghĩa vụ là điều quan trọng.

Thông điệp này vẫn có giá trị trong xã hội hiện đại, nhấn mạnh việc mỗi cá nhân cần có trách nhiệm với công việc của mình và không ngừng nỗ lực để đạt được mục tiêu.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
7 tháng 12 2023

Chọn đáp án: C. So sánh 

1 tháng 3 2023

C

27 tháng 6 2019

“Ba quân khí thế mạnh nuốt trôi trâu” có hai cách hiểu:

- Thứ nhất, có nghĩa ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

- Thứ hai, ba quân khí thế hùng mạnh át sao Ngưu

Tựu chung lại, câu thơ nói về sức mạnh của quân đội nhà Trần về trí, lực. Điều đó được minh chứng bằng lịch sử:

   + Các vị tướng trí dũng song toàn: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão…

   + Khí thế thay đổi trời đất khi quân đội nhà Trần từng đánh bại Mông Nguyên và giặc phương Bắc…

28 tháng 11 2021

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“

Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vui giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.

Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở Tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long Hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.

 

( Trích Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung, Trang 31, Ngữ văn 10 Tập II,NXBGD, 2006)

Xác định biệp pháp tu từ cú pháp nổi bật trong văn bản. Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó là gì?

1
9 tháng 1 2018

Biện pháp tu từ cú pháp nổi bật:

- bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí.

- Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở Tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long Hổ, bày tiệc Văn hỉ.

→ Thông qua phép liệt kê, tác giả cho thấy các thánh đế minh vương đã làm nhiều việc để khuyến khích hiền tài. Nhưng như thế vẫn chưa đủ vì chỉ vang danh ngắn ngủi một thời lừng lẫy, mà không lưu truyền được lâu dài. Bởi vậy mới có bia đá đề danh.

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở Tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long Hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.

( Trích Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung, Trang 31, Ngữ văn 10 Tập II,NXBGD, 2006)

Giải thích từ hiền tài, nguyên khí và câu “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” trong đoạn trích?

1
3 tháng 3 2018

Giải thích:

- Hiền tài: người tài cao, học rộng và có đạo đức.

- Nguyên khí: khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của sự vật.

- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia: Hiền tài là những người có vai trò quyết định đối với sự thịnh suy của đất nước.

29 tháng 11 2019

Đ1

Nhắc đến Phạm Ngũ Lão là nhắc đến một vị tướng tài ba, vừa có tài thao lược lại có tài văn chương. Tên tuổi ông đã được lịch sử gọi tên và trở thành một tấm gương cho bao người noi theo. Đọc bài thơ Thuật Hoài của ông có ý kiến cho rằng : “Sự hổ thẹn của tác giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện của một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước”. Vậy quan điểm của bạn về vấn đề này là gì?

Bài thơ của Phạm Ngũ Lão được viết theo thể đường luật ngắn gọn gồm có bốn câu sau:

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâi

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện vũ hầu”.

Bài thơ đơn giản là tiếng lòng của nhà thơ, ước mơ của trang nam tử hán trong xã hội. Và hai câu thơ cuối đã nhận được rất nhiều những ý kiến trái chiều. Vậy ý kiến nào là đúng?

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Đầu tiên ta cần phải biết đến vị Vũ Hầu được nhắc đến trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão là ai? Vũ Hầu hay còn gọi là Gia Cát Lượng một nhân vật nổi tiếng thời tam quốc diễn nghĩa với tài trí và mưu lược hơn người. Cả đời ông hi sinh và cống hiến hết mình cho nhà Hán, ông đã trở thành vị quân sư cố vấn đắc lực cho Lưu Bị. Ông cũng góp phần làm nên những chiến thắng hiển hách của Lưu Bị với các thế lực thù địch và tạo nên nhà Hán vững chắc. Ông được coi như một tấm gương sáng, để ngàn đời sau học tập và noi theo. Việc nhà thơ có mơ ước được như Gia Cát Lượng là điều hoàn toàn bình thường và dễ hiểu. Còn nếu hổ thẹn vì mình không được như Gia Cát Lượng phải chăng là đang thái quá và kiêu kì? Nếu bạn đang tồn tại suy nghĩ như vậy thì quả thực bạn đang áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên tác giả rồi. Thứ nhất, Gia Cát Lượng dù tài ba kiệt xuất thật không ai có thể phủ nhận điều đó nhưng suy cho cùng thì ông cũng chỉ là một người bình thường không phải là thần linh hay vua chúa gì hết. Còn mơ được như ông là mơ ước có được lòng trung thành và ái quốc như ông để giúp nước cứu đời. Đây là lí tưởng mà có lẽ tất cả những đấng mày râu trong bất kì thời đại nào kể cả thời bình hay thời loạn đều hướng tới.

Chính vì thế nên ý kiến thứ hai nó biểu hiện một hoài bão lớn tinh thần yêu nước nhận được rất nhiều sự đồng tình của mọi người.

Trong bất kì một thời đại nào thì người làm trai cần phải là người “đầu đội trời chân đạp đất” sinh ra làm kiếp làm trai phải mưu đồ lên nghiệp lớn. Nhất là thời đại phong kiến thì tư tưởng này càng được đề cao và chú trọng. Cũng giống như Phạm Ngũ Lão thì Nguyễn Công Trứ cũng từng viết “Đã mang tiếng ở trong trời đất phải có danh gì với núi sông”.

Công danh ở đây được xem là sự thành đạt hiển vinh. Trả xong nợ công danh tức là hoàn thành nghĩa vụ trách nhiệm đối với tổ quốc, với vua và với nước. Sự khao khát công danh đó đã góp phần tạo thành động lực thôi thúc con người trong xã hội đứng lên xả thân vì nước cứu đời cứu người. Phạm Ngũ Lão một người cầm ngang ngọn giáo cứu nước thế nhưng ông vẫn cảm thấy hổ thẹn bởi lẽ cái chí của ông quá lớn lao.

Chính vì thế nên tác giả mới cảm thấy “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”. Nghĩ đến Vũ Hầu là nhắc đến một vị quân sư tài ba với tài thao lược và binh pháp tinh thông. Nhà thơ cảm thấy hổ thẹn vì chưa được cái tài như ông để có thể trừ giặc cứu đời. Ý nguyện của ông đặt trong thời kì đất nước phong kiến ấy thì đó là một khát vọng hết sức bình thường và có lí. Trên thực tế, Phạm Ngũ Lão đã làm nên một điều vĩ đại đó là khiến lịch sử phải đời đời nhắc tên ông một con người tài ba đã làm nên những chiến công hiển hách cho dân tộc.

Có thể nói Thuật Hoài là một trong những tác phẩm xuất sắc. Nó không chỉ thể hiện tình yêu nước sâu sắc, mãnh liệt mà còn thể hiện được trách nhiệm của người nam nhi đối với vận mệnh quốc gia dân tộc. Nó như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với mỗi chúng ta sống phải biết đóng góp và cống hiến cho đất nước ngày càng giàu mạnh và phát triển hơn.

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở Tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long Hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất.

( Trích Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung, Trang 31, Ngữ văn 10 Tập II,NXBGD, 2006)

Nêu nội dung chính của văn bản?

1
2 tháng 5 2018

Nội dung chính của đoạn trích: Nêu lên giá trị của hiền tài đối với đất nước.