K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 1 2017

- Tình phụ tử thiêng liêng, ấm cúng.

- Yêu mến truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Hiều thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, thêm yêu quý gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

- Chúng ta từng viện cớ thiếu thốn, khó khăn mà đánh mất đạo đức, văn hóa, dường như ngày nay các con em dân tộc không mấy mặn mà với truyền thống, họ đang dần tự nguyện nhập ngoại một cách dễ dãi. Nghe lời cha nói, tôi ủng hộ hòa nhập nhưng không hòa tan. Văn hóa là tài sản vô cùng to lớn.

Ý nghĩa - Giá trị

    Qua bài thơ, học sinh cảm nhận được tình cảm gia đình ấm cúng, truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mà tác giả Y Phương đã thể hiện, cụ thể là sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, từ đó tác giả gợi nhắc những tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống của con người.

    Học sinh đồng thời cảm nhận được ý nghĩa của những đặc sắc nghệ thuật trong ngòi bút tác giả: những từ ngữ mang tính chất địa phương miền núi, chân chất, giản dị, những hình ảnh giàu sức gợi, giọng điệu thủ thỉ, tâm tình ngọt ngào.

30 tháng 3 2021

tham khảo

Khi lắng nghe những lời tâm sự của cha gửi đến mình, trong lòng tôi dâng trào bao cảm xúc nghẹn ngào. Cảm nhận được tình yêu đầy trìu mến và tha thiết của cha khiến tôi thật hạnh phúc. Những kỉ niệm ngày thơ ấu chợt ào ạt quay về trong tâm trí. Nhớ làm sao những ngày còn thơ được cha mẹ nâng niu, che chở, được thỏa thích vẫy vùng nơi quê hương thanh bình, yêu dấu cùng với những “người đồng mình” mộc mạc, thân thương. Những nhắn nhủ của cha giúp tôi hiểu được rằng dân tộc tôi có thật nhiều truyền thống tốt đẹp, quý báu và đáng tự hào. Là một người con của quê hương, tôi hiểu mình cần phải biết trân trọng và kế tục những truyền thống ấy một cách xứng đáng. Nghe theo lời nhắn nhủ của cha, nhất định tôi sẽ lấy đó làm hành trang bước vào đời. Trên con đường tương lai còn nhiều chông gai phía trước, tôi nhất định sẽ thật vững vàng và tự tin vì sau lưng tôi còn có gia đình và quê hương yêu dấu.

30 tháng 3 2021

tham khảo

Cha kính yêu!
Cảm ơn cha vì tất cả. Nhận được thư cha gửi con càng hiểu ra rằng cha thương yêu con nhường nào. Tình yêu thương mà cha dành cho con tựa như lá của cây trong rừng, trong lành như con suối trong thung. Con lớn lên, khôn lớn trưởng thành như thế này là nhờ bàn nay nuôi nấng chăm sóc, quan tâm của cha mà thành. Cha dạy dỗ con những điều mà con người ta nên làm. Con sẽ sông như lời cha dặn, sẽ cố gắng cống hiến sức mình cho quê hương, cho đất nước mình ngày càng tươi đẹp. Cha luôn bên cạnh con trên suốt chặng đường mà con bước. Ngày thơ bé cha và mẹ bên con nhìn con những bước đi chập chững vào đời, rồi dần con trưởng thành cha bên cạnh dạy dỗ chỉ bảo con thành người. Dưới sự chỉ bảo của cha, con hiểu được rằng:” rừng cho hoa”,” con người cho những tấm lòng”. Con hiểu rằng bản thân mình phải sống như thế nào để cống hiến hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Cho dù đường đời có chông gai thế nào, con phải " lên thác xuống gềnh" ra sao thì con vẫn sẽ luôn cố gắng làm mọi điều có thể, con sẽ không giục ngã trước thất bại. Cha, con nhất định sẽ làm được, con sẽ cố gắng hết để xây dựng quê hương, đất nước, báo ơn Tổ quốc.

19 tháng 8 2017

- Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” là:

      + Dễ thương, giàu tình cảm.

      + Thủy chung, gắn bó với quê hương.

      + Hồn nhiên, mạnh mẽ.

      + Bản lĩnh, bền bỉ

      + Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh.

   - Cảm nhận về 4 câu cuối bài thơ:

      + Lời nói của cha đầy trìu mến và tin tưởng, thôi thúc con đi trên đường đời.

      + Tuy thô sơ da thịt nhưng không nhỏ bé, “Nghe con” nghe sao trìu mến thân thương. Lời cha thốt lên tự đáy lòng: dù ở bất cứ đâu vẫn không quên nguồn cội, luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp, gắn bó với mảnh đất quê hương mình. Đó là nơi mang đậm những đức tính quý báu và tâm hồn cao đẹp. Mong con vượt lên khó khăn, tiếp nối truyền thống để sống có nghĩa, có tình.

28 tháng 5 2017

Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc

- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:

     + Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi

     + Cuộc sống hòa với niềm vui

     + Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống

     + Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình

     + Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương

     + Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…

→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng mình

5 tháng 5 2020

1. Tham khảo bài viết trên Giáo dục thời đại:

1. Sang thu gồm mười lăm câu thơ, chia làm ba khổ, cả bài thơ chỉ có một dấu chấm (.): Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về, tiếp đến là quang cảnh đất trời vào thu, và bài thơ được kết lại bằng những biến chuyển trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc đời. Theo mạch vận động của tứ thơ, cảnh vật tựa hồ như một cuốn phim quay chậm dần hiện lên. Vẻ đẹp của bài thơ nằm trong chính mạch chuyển vận tinh tế ấy.

Sang thu được chia làm ba khổ khúc chiết, nhưng nhịp thời gian chuyển dịch qua ba khổ thật khó phân định. Từ đầu đến cuối bài thơ các hình ảnh thơ, trạng thái sự vật đều mang hơi thu, dáng thu. Đó là hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ và hàng cây đứng tuổi… Nhưng thật ra, trong sự dính liền của hệ thống hình ảnh, vẫn có một sự chuyển vận của tự nhiên, của vạn vật khi đất trời sang thu.

Cả bài thơ đều nằm trong sự vận động sang thu, nhưng mỗi khổ thơ mang một dáng vẻ: Khổ một, cảnh vật là những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đâu đó của mùa thu từ góc nhìn vườn ngõ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về; Khổ hai nghiêng về cảnh sắc thiên nhiên, mây trời, sông nước chuyển mình sang thu Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã, Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu; Khổ ba nghiêng về những những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.

Có thể thấy, ba khổ thơ làm nên hành trình chuyển vận của thiên nhiên: Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong… Sự chuyển vận tinh tế nhưng cũng rất mãnh liệt. Từ sự chuyển vận của tứ thơ trên bề mặt câu chữ của bài thơ Sang thu, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “mạch cảm nghĩ” của thi sĩ trước mùa thu: “Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một …Hình như thu đã về, là đến niềm say sưa ở khổ hai …

Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu, và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm …Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: Bất giác, khổ hai: Tri giác, khổ ba: Suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hóa sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan dệt với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi, phức tạp”.

Như vậy, rõ ràng là trong thế giới nghệ thuật của bài thơ Sang thu có một sự chuyển vận của đất trời và của dòng cảm xúc nhà thơ. Cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật ấy được tạo bởi sự chuyển vận ngầm đã mang lại cho người đọc những khám phá lý thú và bất ngờ.

2. Mở đầu bài thơ ta bắt gặp tiếng reo vui khi hồn thơ bất giác nhận ra những tín hiệu báo thu về:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Trong thơ thu, người đọc đã từng bắt gặp lá thu rơi trong thơ Lưu Trọng Lư, áo mơ phai dệt lá vàng trong thơ Xuân Diệu; hương cốm mới, cái chớm lạnh, xao xác hơi may trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Với Hữu Thỉnh, thu về bằng hương ổi, và gió se. Trong nhịp bước âm thầm của thời gian, đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu, gió thu nhẹ nhàng mang theo chút hơi “se” rất đặc trưng của mùa thu Đồng bằng Bắc bộ, hương ổi “phả” vào trong gió, lan tỏa vào không gian. Đây thực sự là những hình ảnh đặc trưng của mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc, gần gũi với con người Việt Nam.

Trong “Lời tự bạch với Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh từng trầm ngâm kể: “…giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ, điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”.

Đến hai câu tiếp theo trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta bắt gặp sự chuyển vận của đất trời rất tinh tế. Sự vật đang ở thế vận động mạnh - hương ổi “phả”, gió “se”, bỗng như chùng lại:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sương thu như muốn đọng lại, lưu luyến, ngập ngừng trong sự chuyển dịch chầm chậm qua ngõ. Từ láy “chùng chình” đặt giữa câu thơ tạo nên sự ngắt quãng nhịp nhàng (Sương/ chùng chình/ qua ngõ), mà vẫn chứa đựng sự chuyển vận của sương trong không gian thong thả, yên bình. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu thơ “Sương chùng chình qua ngõ”, như để diễn tả sự cố ý trong chuyển động chậm của sương. Nó như muốn giăng mắc vào giậu rào, níu vào nhành cây khô đâu đó ở trước ngõ, đầu thôn. Ở đây, sương mang vẻ duyên dáng, yểu điệu như bóng hình thiếu nữ chưa muốn rời bước trước ngõ nhà ai. Trong cái “chùng chình” của sương, có sự níu giữ của hồn thơ, có vẻ tư lự của thi sĩ trước thời khắc giao mùa.

Trong sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật nhà thơ nhận ra “thu đã về”. Sự hiện hữu của nó cũng không thật rõ, nhà thơ chỉ phỏng đoán bằng cảm nhận -“hình như”.

3. Nếu ở khổ thơ mở đầu, tín hiệu mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ thì đến khổ thơ thứ hai, cùng với dòng chảy thời gian, thu bước ra khỏi thời khắc giao mùa, hiện hình rõ nét. Mùa thu đi từ ngõ để đến với không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Hơi thở của thu, đến đây đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ, không phải “hình như”nữa mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Sông vào thu với dòng trôi “dềnh dàng”, thong thả, khoan thai, rất mềm mại và duyên dáng. Trên nền không gian ngưng đọng ấy, có chuyển động vội vã, gấp gáp của đàn chim trời trong hành trình di trú. Sự vận động của đất trời ở thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của cảnh vật.

Từ láy “vội vã” đặt trong vế đối với từ “dềnh dàng” ở câu trên tạo nên mạch vận động từ chậm đến nhanh, từ nhẹ đến mạnh. Phải chăng có sự tương phản giữa sông dềnh dàng và chim vội vã? Dềnh dàng cũng là sự vận động nhưng diễn ra chậm, còn vội vã là nhanh. Quá trình ấy phù hợp với quy luật vận động từ chậm đến nhanh.

Nhịp cầu mong manh giữa hạ sang thu, cuối cùng đã được cụ thể qua đám mây: Vắt nửa mình sang thu. Cả đất trời đang cựa mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè đã qua - mây trời vắt nửa mình sang thu.

Hình như trong đám mây còn có làn nắng mùa hè. Hình như trong làn mây đã mang theo chút se của mùa thu. Đám mây mang trên mình cả hai mùa. Bước đi của thời gian trong hình ảnh “đám mây” vừa mãnh liệt lại vừa vô cùng tinh tế. Đó là cái tinh tế của hồn thơ nhạy cảm trước những chuyển vận của tạo vật ở thời khắc giao mùa.

Sang thu âm thầm nhưng thi sĩ vẫn cảm nhận được được sự khẩn trương trong mạch vận động.

4. Ở hai khổ thơ đầu, thu hiện hình bằng hình ảnh, bằng sự chuyển động được nhìn thấy thì ở khổ cuối, thu lắng sâu vào suy ngẫm. Hình tượng thơ, bởi vậy mang tính triết lý sâu xa:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu không phải “hình như… đã về” mà đã hiện hữu trong không gian. Trong sự vận động của tứ thơ, theo mạch cảm, mạch nghĩ (từ bất giác sang tri giác đến suy ngẫm, theo ba khổ thơ), “nắng”, “mưa”, “sấm” không chỉ là hình ảnh tự nhiên mà còn mang tính biểu tượng - cho những sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời mà con người phải trải qua.

Rồi đây nàng thu sẽ ngự trị cảnh vật nhưng tác giả vẫn tin rằng hàng cây đứng tuổi vẫn còn đó. Thời gian mang tính lưỡng giá ấy để nhà thơ suy ngẫm trước cuộc đời. Qua bão giông, sóng gió của cuộc đời con người cần vững vàng, điềm tĩnh đón nhận mọi thử thách.

5.Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nếu như nội dung thể hiện tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ thông qua các chất liệu lấy từ cuộc sống thì hình thức là hình tượng, thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, nói cách khác là hệ thống các phương tiện diễn đạt để chuyển tải nội dung của người nghệ sĩ. Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Sang thu là một bài thơ như thế.

Sang thu được viết bởi thể thơ năm chữ. Sự lựa chọn thể thơ xuất phát từ sự đòi hỏi của nội dung, từ cái nhìn của tác giả, cái mạnh của thể thơ năm chữ là chất hoài niệm, hễ non tay thì thành vè (Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ, tr.104). Chọn thể thơ này là một thử thách nghệ thuật, bởi thơ năm chữ còn gọi là thơ ngũ ngôn có cội nguồn là thể thơ truyền thống có mặt trong các sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao, tính chất cổ kính cùng với sự hạn chế về câu chữ khó diễn đạt tình cảm. Tuy nhiên, một số nhà thơ như Xuân Quỳnh với Sóng; Hữu Thỉnh với Sang thu đã rất thành công ở thể thơ này với chỉnh thể chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa vần với nhịp:

Theo vị trí hiệp vần, Hữu Thỉnh sử dụng vần chân:

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần ông sử dụng vần thông:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Điều khá thú vị ở đây là đường nét thanh điệu của bài thơ, theo thống kê, bài thơ có 60 âm tiết thì có đến 33 âm tiết vần bằng, 27 âm tiết vần trắc. Vấn đề ở đây là có nhiều cặp câu nhà thơ tạo ra sự phối thanh nhịp nhàng, nếu câu thơ trước kết thúc bằng âm tiết vần trắc thì câu thơ sau đó kết thúc là âm tiết vần bằng, sự hiện diện của nhiều thanh bằng. Ví như sự phối hợp nhịp nhàng các cặp câu: (bảng 1)

Chính sự hiệp vần ấy tạo nên sự êm ái, nhịp nhàng phù hợp với lối tâm tình và hoài niệm của tác giả.

Theo Mai Ngọc Chừ: Sự ngừng nhịp trong dòng thơ phụ thuộc vào nội dung, ý nghĩa và vào từng thể thơ cụ thể (Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, tr. 38). Để tránh sự đơn điệu của thể thơ truyền thống trong cách ngắt nhịp, Hữu Thỉnh thể hiện sự tìm tòi đổi mới qua cách ngắt nhịp linh hoạt 2/3: Hình như/ thu đã về; 1/2/2: Vắt/ nửa mình sang thu. Ngoài ra, có nhiều câu không có nhịp cắt giữa dòng, mỗi dòng thơ là một nhịp:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Không gò ép và gọt dũa cầu kỳ, Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng người đọc những câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu, cách xử lý nghệ thuật của ông thể hiện sự tìm tòi sáng tạo.

5 tháng 5 2020

Trong kho tàng văn học Việt Nam luôn “tràn đầy” những trang thơ về mẹ. Bởi vậy, không hề khó để ta có cơ hội cảm nhận về người đã “mang nặng đẻ đau” khi tiếp cận với văn chương. Và giữa vùng thơ văn dạt dào tình mẹ, Y Phương đã lấp đầy khoảng trống để ca ngợi cha và tình cha. Nói với con là tác phẩm hay nhất của nhà thơ miền núi thể hiện chân thực tình cảm thương yêu vô bờ bến của người cha với đứa con thân yêu. Qua hình ảnh phụ – tử, nhà văn còn nêu ra trước mắt độc giả nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc.


Với cách nói, cách diễn đạt, cách nói ví von qua những hình ảnh cụ thể diễn tả mộc mạc gợi cảm và mạnh mẽ, cả bài thơ là lời khuyên bảo ân cần của người cha đối với con và ước muốn của người cha cũng được thể hiện xuyên suốt bài thơ. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động còn nhiều vất vả, gian lao và thử thách; con sống trong một dân tộc với những truyền thông và đức tính tốt đẹp. Không những thế, qua Nói với con Y Phương còn nêu lên lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong ước người con kế tục được những truyền thống tốt đẹp đó của quê nhà.Cả bài thơ là lời tâm sự cùa người cha, giàu cảm xúc, tuy cách diễn tả mộc mạc nhưng vẫn giúp người đọc cảm nhận được hết cái thần, hồn của nó.

Bốn câu thơ đầu bài thơ là tình yêu thương của cha mẹ đối với con:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Một không gian đầm ấm của một gia đình hoà thuận, hạnh phúc gần như được bộc lộ hết chỉ qua bốn câu thơ.Gia đình là cái nôi, là nơi xuất phát mà cha mẹ tạo dựng cho con. Người con lớn lên trong sự yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ và người con lớn lên, trưởng thành bởi sự chở che của cha mẹ, trong không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt.

Người cha không chỉ gợi lại cho con về gia đình mà còn gợi lại cho con nhớ về cội nguồn, nơi nuôi dưỡng dạy bảo con khôn lớn nên người:

Người đồng minh yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Những câu thơ tiếp, người cha không muốn nói gì hơn rằng con đã lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương, con sống trong cuộc sống lao động vất vả, gian lao. Người đồng mình yêu lắm con ơi câu nói gợi tình cảm cộng đồng. Hai câu thơ tiếp theo Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát diễn tả hành động trong các công việc khác nhau. Từ đây người con biết rằng mình lớn lên trong cuộc sống lao động, trong tình cảm nhân hậu của quê hương. Những hình ảnh như đan, ken lại gợi cho ta một sự gắn bó khăng khít giữa người với người, chắc chắn như không thể tách rời.

Những câu thơ tiếp theo:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người cha đã cho người con thấy rõ đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước rất giản đơn của người cha. Ba câu đầu là đức tính cao đẹp của người đồng mình. Cuộc sống lao động dù có vất vả nhưng mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương. Ngoài ra, hai câu thơ Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn còn thể hiện sức mạnh, chấp nhận mọi thử thách và quyết vươn lên băng ý chí của mình. Những đức tính cao đẹp đó người cha muôn truyền lại cho con. Thể hiện trong ước muốn cùa người cha là người con phải tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Cuộc sống dù có khó khăn đến đâu thì cũng phải đứng vững gắn bó với quê hương, không bao giờ được rời bỏ quê hương mà phải vươn lên bằng ý chí của mình.

Người đồng mình thô sợ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con.

Lại một đức tính nữa mà người cha muốn truyền cho con: người đồng mình tuy mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Bằng tâm hồn, ý chí của họ, bằng sự lao động cần cù nhẫn nại hàng ngày đã làm nên quê hương với những truyền thống tốt đẹp. Qua đây người cha còn muốn nhắn nhủ với con rằng sống phải có tình, có nghĩa, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận vượt qua mọi gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Hơn thế nữa, người con còn biết tự hào truyền thống quê hương, tự tin vững bước trên đường đời.

Nhưng xuyên suốt cả bài thơ lại là tình cảm cha con thắm thiết. Đó chính là tình yêu thương trìu mến, thiết tha thể hiện qua niềm tin tưởng của người cha qua lời Nói với con. Điểm lớn nhất người cha truyền cho con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ, cuộc sống cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Với giọng thơ tha thiết trìu mến, ở các lời tâm tình dặn dò với cách dẫn dắt rất tự nhiên Y Phương đã tạo nên sự gắn bó, tình yêu thắm thiết giữa cha và con.

Nói với con là một thành công lớn trong con đường sự nghiệp của Y Phương. Với những lời nói rất đỗi mộc mạc và giản dị tình cảm cha con hiện lên là một tình cảm vô cùng thắm thiết và cao đẹp. Bài thơ là lời khuyên bảo và ước mong của người cha đốì với con, muốn con kế thừa đức tính tốt đẹp của người đồng mình, biết tự hào truyền thống quê hương, yêu quê hương, tự tin trên đường đời và cố gắng vươn lên, vượt qua mọi thử thách để xây dựng quê hương với những truyền thống tốt đẹp.

THAM KHẢO

V

Cùng mạch chủ đề này, nhà thơ người dân tộc Tày - Y Phương cũng có bài thơ “ Nói với con”. Mượn lời của người cha nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình. II/ THÂN BÀI: Mở đầu bài thơ là một khung cảnh gia đình ấm cúng đầy ắp tiếng nói tiếng cười:  
10 tháng 3 2022

Tham khảo:

Ngô Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho lời dài thêm vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi ký thác những tâm sự, những nỗi niềm của trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ được đâu đây một lời nhắn nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân sinh và cho cả cuộc đời. Ngược dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một thi phẩm đặc sắc đã ra đời, đó là "Nói với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc đan xen nhiều cung bậc, vừa mộc mạc, nhẹ nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm tình, vừa triết lý sâu xa. Y Phương đã gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi sinh linh trên cõi đời này, về vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình.

Y Phương là một ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày, vừa đậm đà bản sắc “người đồng mình", vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa, cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, in trong "Thơ Việt Nam 1945 - 1985". Thi phẩm là lời tâm sự của ông với đứa con gái đầu lòng, cũng là lời tâm sự với chính ông. Ngòi bút Y Phương đã khơi gợi trong lòng độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn, về gia đình, về mảnh đất mình sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.

Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm, hạnh phúc, ngọt ngào yêu thương:

"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói”

Hai bước tới tiếng cười" Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân trái", một bước - hai bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh trắc, như 15 phím đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường tượng đến cảnh đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, òa khóc rồi lại khúc khích đứng lên trong vòng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân. Bên phải con là "tình cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra", con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui đón nhận của gia đình. Mẹ cha cẩn thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai bước” với hết thảy những nâng niu, trong chờ, dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé nhỏ.Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm xúc vỡ òa của mẹ cha. Con như sứ giả của hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc của cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói", "tiếng cười" của con. Là một thi sĩ từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một - hai", "một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ thế vấn vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều tâm niệm của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên luôn yêu thương con vô điều kiện, luôn đón chào, ôm ấp con.

 

Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc sống lao động, văn hoá của người làng mình, nhờ quê hương thơ mộng và thiên nhiên sâu nặng nghĩa tình:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Với tình cảm tha thiết, chân thành, Y Phương đã nhắc đến "Người đồng mình" qua câu thơ chan chứa âm điệu trìu mến, kết đọng trong một từ "yêu". "Yêu" ấy là gắn bó, là cảm mến và tự hào. Các động từ "đan, cài, ken" nối tiếp nhau gợi đến quá trình lao động miệt mài, tỉ mỉ. Người đồng mình lao động với bản chất khéo léo, với đôi bàn tay cần mẫn đan những nan tre, nan nứa để chiếc lờ - một dụng cụ đánh bắt cá bình thường cũng mang dáng hình của “nan hoa”. Phải chăng "nan hoa" mà tác giả nhắc đến còn phúng dụ cho sự "đom hoa kết trái", những thành quả của tháng ngày hăng say làm việc. Vách nhà của người Tày không chỉ được ken bằng ván gỗ mà còn bằng cả câu ca, tiếng hát hồn nhiên, vui tươi. Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía sau lưng đồi, họ quay quần bên nhau trong một ngôi nhà rộng để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc sống thêm tràn ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát” còn ẩn chứa một nét văn hóa phi vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng nhân cho tình yêu lứa đôi. Những đêm trăng sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi ngoài vách, người con gái ở bên trong vách. Họ cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc sống, hát cho nhau nghe những bản tình ca tuổi trẻ, hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những câu hát ấy, tình yêu được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt được hình thành.

Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dòng sông quê xanh biếc "nước gương trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và những con đường nghĩa tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn nhựa sống dồi dào và duy trì sinh kế cho người dân tộc. Với người dân chài:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)

Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xòe tinh khôi hay hồng tím nhẹ nhàng đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường như tất cả những gì tinh túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người. Không phụ tấm lòng thiên nhiên, người đồng mình đã sống hòa mình gắn bó và trân quý rừng thiêng sông núi. "Con đường" cũng mở rộng vòng tay chào đón những đứa con về với làng, với bản, đón chào "những tâm hồn" đôn hậu, bình dị, hồn nhiên, vô tư. Nhờ nó mà con người có thể đến gần với nhau. Vì thế, con đường là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm, cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Hình ảnh “ngày cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày cưới - ngày mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn. Ngày cưới - ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khôn lớn, suy ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương ,về “người đồng mình", nhà thơ “chắt” vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình yêu quê hương, bản quán.

Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người dân Tày:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm" và "thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên suốt một bài thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc cảm xúc da diết, trìu mến hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào, xót xa. Hình ảnh sóng đôi "nỗi buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân Tày. "Nỗi buồn" gợi đến đời sống tâm hồn rộng mở của người đồng mình được dựng xây từ những nỗi niềm trầm tư. Còn "chí lớn" là ý chí quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt. Bằng lối tư duy hình tượng độc đáo, tác giả đã lấy thước đo vô cùng, vô tận của không gian để thể hiện tầm kích tình cảm, chí hướng của con người. Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình vẫn còn đó những nỗi buồn thầm kín, những nỗi lo mưu sinh, cơm áo gạo tiền. Song, họ sẽ vượt qua tất cả như hoa hướng dương vươn mình chiêm ngưỡng cuộc đời, bởi trong họ luôn thường trực ý chí và nghị lực cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

 

Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh”

Không lo cực nhọc" Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc ngập ngừng. "Dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn muốn" con giữ được tâm thế “bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ cõi lòng người cha chứa đầy những dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính mình phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp sống ngàn đời của tổ tiên. Điệp từ “sống”, điệp cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá, sống trong thung" gợi lên cuộc sống đầy những gam màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận động không ổn định như chính cuộc sống bấp bênh của những người con bản làng thấm đẫm mồ hôi trên từng thửa ruộng. Có những kiếp người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên trong nỗi bâng khuâng "quê tôi còn nghèo lắm" (Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất nghĩa nặng tình sâu. "Không chê" thung, nghĩa là không chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ và "không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn. Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu xứ sở, đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm mầm hạnh phúc và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư cho quê hương, nhà thơ Y Phương vẫn giữ nguyên vẹn những "rung động bằng trái tim suối nguồn và suy tư bằng sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi đến sức sống bền bỉ, sống giao hòa với thiên nhiên bốn bề. Người đồng mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực, rộng mở, lãng mạn và khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ tựa như dòng sông trong veo và ngọt lành đã tưới mát những tâm hồn lạc lõng giữa muôn trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang vọng, mang theo cả bóng dáng quê hương khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm kiên định "sinh hoạt như những người Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."

Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần tự tôn dân tộc của người đồng mình:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”

Tác giả đã gặt hái được thành công nhờ hình ảnh đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Người miền núi bàn tay chai sạn, da thịt thô ráp, và chính sự "thô sơ da thịt" ấy đã tạo cho người Tày một nét đẹp chất phác, thật thà. Song, người quê mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Bởi trong họ, ý chí nghị lực đã thấm nhuần máu xương, cốt cách tự tôn đã ăn sâu da thịt và niềm tin, niềm kiêu hãnh chưa bao giờ vơi cạn. Giản dị, hồn hậu mà mạnh mẽ, kiên gan đã trở thành phẩm chất ngàn đời của người miền núi. Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với cuộc sống của "người đồng mình". Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những lối đi nghĩa tình... Sự liên hoàn của ba thanh trắc " tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng “kê - cao - quê - hương” lại mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Bằng chính đôi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và nâng đỡ quê hương thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến nhẹ nhàng tựa như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy khó nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá. Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền thống, làm nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của bản quán là nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được trưởng thành, được "sống đàng hoàng như một con người".

Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" - Nói với con, vừa khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha, chân tình của Y Phương dành cho con:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được”

 

“Nghe con” tiếng gọi “con ơi” được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi rằng lời dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn. Có lẽ dụng ý của nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của thôn làng đơn sơ để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn gói "lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia. Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa trẻ năm nào đang rảo bước trên con đường đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn đến thế giới của "người trưởng thành". Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được "ôn nghèo kể khổ", yếu mềm buông xuôi trước những thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được nuôi nấng trong tình thương của buôn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và quê hương luôn dõi mắt theo những bước chân của con như một người cha, luôn dang rộng vòng tay ôm con vào lòng như một người mẹ, để chữa lành những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức mạnh và niềm tin. Bởi vậy, con hãy sống sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương, với cái nôi linh thiêng của mình.

 

Bài thơ có bố cục chặt chẽ, phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo. Hình ảnh đối xứng, mộc mạc giàu liên tưởng. Thi phẩm còn là sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy hình tượng của người dân tộc và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại. Chất miền núi thấm sâu, lan tỏa trên từng câu thơ song hành cùng giọng điệu thiết tha trìu mến như đã góp phần làm sáng toả, nổi bật lên những lời thủ thỉ, tâm tình mà "Nói với con" muốn truyền tải. Nhà thơ Y Phương đã chọn cách sáng tạo thơ rất nhạy bén, sâu sắc, tinh tế, liền mạch và tự nhiên thể hiện tình yêu của mình đối với con, với quê hương xứ sở.

Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người với tự nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy không chỉ ở ngôn từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy. Tiếng thơ là lời răn dạy của người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người tấp nập, dấn thân vào nơi hào nhoáng của đô hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ nguồn", biết rằng mình sinh ra là nhờ cái nôi hạnh phúc của gia đình, nhờ những truyền thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng mong con phải khắc cốt ghi xương hai tiếng "quê hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân Quỳnh từng viết:

“Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…”

“Nói với con” đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã lòng, ta vịn vào thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của văn hoá dân tộc ta.

4 tháng 12 2019

Đáp án C

Mộc mạc, chân chất mà to lớn, kiêu hãnh

10 tháng 3 2022

bạn tham khảo những ý như sau:

Qua lời nói chuyện với đứa con, người cha thể hiện tình cảm, suy nghĩ với quê hương, dân tộc

- Cuộc sống lao động cần cù tươi vui của người đồng mình được nhà thơ gọi lên qua những hình ảnh đẹp:

     + Đan lờ: dụng cụ đánh bắt cá của người miền núi

     + Cuộc sống hòa với niềm vui

     + Rừng núi quê hương thật mơ mộng và nghĩa tình, thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống

     + Người cha muốn cho đứa con biết quê hương là vùng quê giàu truyền thống văn hóa, nghĩa tình

     + Người cha tự hào nói với con về sức sống bền bỉ, mãnh liệt, về truyền thống cao đẹp của quê hương

     + Khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình: chăm chỉ, kiên cường, giản dị…

→ Người cha thể hiện tình yêu và niềm tự hào của mình với quê hương, người đồng mình