K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 9 2021

Tham khảo:

Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”… Vâng, từ xưa đến nay mỗi khi nhắc đến hình tượng người mẹ, chúng ta luôn nghĩ đến một tình cảm thật bao la, chân thành và ấm áp chứa chan bao tình yêu. Thật cao quý và may mắn biết bao đối với những ai còn mẹ. Lòng mẹ, cũng chính là tình mẫu tử. Đó là một thứ thiêng liêng, quý giá xuất phát từ tâm hồn long lanh như pha lê, dịu ngọt như dòng suối của mẹ dành cho đứa con thân yêu của mình. “Mẫu” là mẹ, “tử” là con. Hai từ này hầu như chưa bao giờ xa cách, ví như cho dù họ có cách xa bao lâu, bao xa thì tâm hồn của mẹ và con luôn hòa quyện vào nhau. Khi con còn bé thơ, từ lúc vừa chào đời đã được bàn tay của mẹ dỗ dành, nâng niu. Một chút lớn nữa, mẹ cũng là người đỡ từng bước đi đầu tiên. Khi đi học, cũng có những lúc con ham chơi khiến mẹ buồn lòng nhưng bà vẫn không bao giờ buồn hay hờn trách con, luôn chỉ bảo cho con thứ gì đúng, thứ gì sai. Tất cả những đều đấy đã đều chứng minh được thế nào là tình mẹ. Và con cũng đã đáp lại tình cảm ấy bằng sự thành công, sự hiếu thảo mà mỗi người đều có thể đạt được bằng chính sự nỗ lực của mình. Nhưng tình con dành cho mẹ không bao giờ bằng tình mẹ dành cho con. Đó cho ta thấy sự tuyệt diệu về đức hi sinh của người “mẫu”, người mẹ mà ta không thể lí giải được. Không thể không nói đến một số trưởng hợp ngoại lệ. Cũng đã có nhiều người mẹ nhẫn tâm vứt bỏ đi cốt nhục, những đứa con ruột thịt của mình không lí do. Tôi không thể hiểu được tại sao lại có người như thế. Những việc như vậy có đã để bị xã hội chê trách không? Hay sâu trong tâm hồn của họ đang nghĩ những gì, có ăn năn hối hận không? Chúng chỉ là những đứa trẻ thơ cần tình thương ấm áp, dịu ngọt của mẹ thôi mà… Họ đã vô tình làm vấy bẩn sự thiêng liêng cao quý của ba chữ vàng “tình mẫu tử“ mà chúng ta hằng nghĩ đến và yêu quý nó. Mẹ dành tình cảm cao quý, đầy sự hi sinh khắc khổ đó cho con thì con cũng phải đáp lại bằng những thứ thiêng gần như thế. Mẹ không bao giờ đòi hỏi nhiều ở con, luôn mong con thành đạt, hạnh phúc thì đó cũng chính là niềm vui của mẹ. Và đồng thời con cũng là niềm tin, là hi vọng, hoài bão của mẹ. Tất cả những gì tốt nhất cũng đều dành cho con. Những ai đang còn mẹ thì hãy biết quý trọng và giữ gìn nó. Có những thứ khi đã qua rồi thì không bao giờ lấy lại được. Tình cảm của mẹ như ánh sáng trên cao, bóng mát trên cao, như dòng sữa ngọt ngào. Cuộc đời thật công bằng biết bao khi đã cho cho mỗi người chúng ta thứ gọi là “tình mẫu tử“….

24 tháng 9 2023

đưa đề bài

 

18 tháng 9 2021

Tham khảo:

Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông (nghe lão Hạc nói chuyện bán chó, nghe lão kể về đứa con), thoáng buồn và nghi ngờ (khi nghe binh Tư kể), kính trọng (khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc).Khi nghe lão Hạc kể chuyện, “ông giáo” ái ngại cho tình cảnh của lão. Ông an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giấu giếm vợ ngấm ngầm giúp đỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khi hiểu lầm lão Hạc làm liều, ông giáo hơi thất vọng, cảm thấy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc.Đến lúc hiểu ra đó chỉ là sự hiểu lầm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ống giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vẫn không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại số tiền và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.Trong Lão Hạc, nhà văn cho rằng, đối với người nông dân lao động, phải “cố tìm mà hiểu họ” thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi “gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi” ấy chính là “những người đáng thương” và có “bản tỉnh tốt”, có điều “cái bản tính tốt” ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống “che lấp mất”. Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt, phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. 
18 tháng 9 2021

Em tham khảo nhé:

Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông (nghe lão Hạc nói chuyện bán chó, nghe lão kể về đứa con), thoáng buồn và nghi ngờ (khi nghe binh Tư kể), kính trọng (khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc).

Khi nghe lão Hạc kể chuyện, “ông giáo” ái ngại cho tình cảnh của lão. Ông an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giấu giếm vợ ngấm ngầm giúp đỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khi hiểu lầm lão Hạc làm liều, ông giáo hơi thất vọng, cảm thấy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc.

Đến lúc hiểu ra đó chỉ là sự hiểu lầm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ống giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vẫn không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại số tiền và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.

Trong Lão Hạc, nhà văn cho rằng, đối với người nông dân lao động, phải “cố tìm mà hiểu họ” thì mới thấy rằng chính những con người bề ngoài lắm khi “gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi” ấy chính là “những người đáng thương” và có “bản tỉnh tốt”, có điều “cái bản tính tốt” ấy của họ thường bị những nỗi khổ cực, những lo lắng trong cuộc sống “che lấp mất”. Tức là, nhà văn đặt ra vấn đề phải có tình thương, có sự cảm thông và phải có cách nhìn có chiều sâu, không hời hợt, phiến diện chỉ thấy cái bề ngoài, nhất là không thành kiến, tàn nhẫn. 

18 tháng 3 2019

Tham khảo nha!!!

Từ xa xưa, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng yêu nước đã trở thành một đề tài lớn xuyên suốt các tác phẩm văn học. Có thể nói cùng với cảm hứng yêu nước, tinh thần nhân đạo là truyền thống có tính muôn thuở của thi ca cũng như của các nhà văn. Chính vì thế nên dù viết theo khuynh hướng hay trào lưu nào tinh thần nhân đạo vẫn thấm đậm trong từng tác phẩm. Và khi nhận xét về tinh thần nhân đạo trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945, có ý kiến cho rằng: Dù được sáng tác theo trào lưu lãng mãn hay hiện thực, những trang viết của các nhà văn đầy tài năng và tâm huyết đều thắm đượm tinh thần nhân dạo sâu sắc. Điều đó thế hiện rõ trong nhiều tác phẩm mà tiêu biểu là Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng và Lão Hạc của Nam Cao.

Nói đến tinh thần nhân đạo là nói đến mối quan hệ giữa con người với con người, những gì vì con người, cho con người, cho sự tốt đẹp của bản thân mỗi con người, cho cộng đồng thế giới loài người ... đều nằm trong phạm trù nhân đạo. Hai mặt cảm hứng lớn trong cảm quan nghệ thuật của tác giả là nhiệt tình ca ngợi và nhiệt tình phê phán. Tinh thần nhân đạo, nhân văn, nhân bản gắn liền với nhau.

Từ đó ta có thể khẳng địng tinh thần nhân đạo thắm đượm trong từng trang viết của các nhà văn đầy tài năng và tâm huyết. Tinh thần nhân đạo được thế hiện ở rất nhiều khía cạnh khác nhau với phong cách riêng của từng tác giả nhưng mục đích cuối cùng vẫn là vì và cho con người, ở Thạch Lam, yếu tố lãng mạn và hiện thực kết hợp hài hòa và nhuần nhị vì vậy mà truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa như một bài thơ trữ tình xinh xắn. Khác với Thạch Lam, tác phẩm Lão Hạc cũng như một số tác phẩm khác của Nam Cao đậm đà tính hiện thực. Và cũng góp phần vào mảng đề tài to lớn này, Nguyên Hồng thể hiện qua từng trang hồi kỳ xúc động về chính tuổi thơ cay đắng của mình. Dù là hiện thực hay lãng mạn song tất cả đều hướng về con người, ca ngợi và bênh vực, đòi quyền sống cho họ.

Trước hết, tinh thần nhân đạo của tác giả bộc lộ thông qua những lời ca ngợi, nâng niu những phẩm chất đáng quý của con người. Đó là tình cảm đẹp đẽ truyền thống của con người Việt Nam, tình cha con, mẹ con, anh em, láng giềng. Dù sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát và xấu xa đó, họ vẫn giữ được bản chất của mình.

Ai cũng có một người mẹ và trên đời này có ai yêu thương con hơn mẹ. Tình mẹ là nỗi khao khát của con trẻ, đấy chính là mạch cảm xúc chân thành của nhà văn khi hướng ngòi bút của mình vào con người.

Cũng là một đứa con nhưng khốn khổ thay, bé Hồng trong chương hồi ký Trong lòng mẹ lại là kết quả của một cuộc hôn nhân không tình yêu để rồi phải xa mẹ, sống trong sự ghẻ lạnh của gia đình. Hồng sống trong nhớ nhung, khao khát thì mẹ Hồng, người đàn bà bất hạnh đó cũng luôn canh cánh lòng hình bóng của hai đứa con thân yêu sớm thiếu thốn tình cảm của người mẹ. Giữa những tai tiếng chê cười của họ hàng thì mẹ Hồng là người vợ không thủy chung, chưa đoạn tang chồng mà chửa đẻ với người khác Trong xã hội đương thời, đó là trọng tội mà “cạo đầu bôi vôi” là một cực hình đau đớn nhất. Nhưng có ai hiểu được nỗi lòng người đàn bà đó, tiếng gọi của tình yêu và trái tim chưa một lần được yêu và luôn thôi thúc khát khao một tình yêu đích thực. Từ giã con song bà luôn nghỉ tới con trong thương nhớ, day dứt khôn nguôi. Và có ở trong địa VỊ của bà ta mới cảm nhận hết tình yêu thương con của bà nó sâu sắc và thấm thìa tới tận trái tim của người đọc, để cứ một lần giở lại trang truyện là một lần ta thổn thức yêu thương, chua xót.

Không những tình cảm mẹ con sâu nặng mà tình cảm cha con cũng được các tác giả ca ngợi và thể hiện sâu đậm trong tác phẩm của mình.

Hình ảnh lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một điển hình tiêu biểu. Mặc dù đã sớm mất đi người vợ hiền thân yêu nhất, nhưng lão Hạc không đi bước nữa vì sợ con lão phải khổ, sợ anh phái sống trong cảnh “mẹ ghẻ con chồng”. Có thế nói trong thâm tâm lão, hình ảnh anh con trai, đứa con độc nhất là nguồn vui, là lẽ sống mà lão dành cho nó cả tình cảm của mình. Lão Hạc đau đớn và day dứt khi không có tiền cưới vợ cho con, còn nỗi khổ nào hơn cha nhìn con đau khổ tuyệt vọng mà cũng chẳng giúp được gì ngoài những lời động viên nhẹ nhàng như nhũng khúc tâm can của người bố già nua đau khổ. Tấm lòng người cha của lão Hạc được khắc sâu và thể hiện cảm động nhất qua đoạn truyện tả cái chết của lão. Lão chết là vì con và cho con. Thật đáng thương bao nhiêu trước lời nói của lão: tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Lão đã chết, để lại cho con tất cả tài sản và cao quý hơn vẫn là tấm lòng người cha không lúc nào không nghĩ tới con.

Bên cạnh việc ca ngợi tình cảm mẹ con, cha con, các nhà văn cũng rất am hiểu và xúc động trước tình hiếu thảo của những con người dù là con rất bé. Nghĩ về trẻ thơ với tấm lòng con người, hay là nghĩ về chính cuộc đời thơ trẻ của mình mà Nguyên Hồng đã khắc họa rất thành công tình cảm đối với mẹ của bé Hồng trong chương Trong lòng mẹ. sống giữa những lời chê bai, khích bác của bà cô nhưng bé Hồng vẫn giữ trọn trong tim mình hình bóng mẹ kính yêu, mặc dù cho mọi người gièm pha chê trách. Tấm lòng của người con khi nhắc tới mẹ là nỗi đau, là vết thương lòng để cười dài trong tiếng khóc. Cười mà lại ra nước mắt ư? Hay đó chỉ là tiếng cười đau đớn đập vào mặt bà cô vô lương tâm, đập vào những cổ tục đã làm cho mẹ Hồng khổ. Còn giọt nước mắt, những giọt máu đỏ tươi trào ra từ trái tim non nớt sớm bị tổn thương là nỗi đau thương cho cuộc đời mẹ. Lúc ấy trái tim bé Hồng như thốt lên, gào lên tuyệt vọng: Giá như những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi. Lòng yêu thương như giúp cho bé Hồng có một sức mạnh vô biên, hay sức mạnh đó là sức mạnh của tình con trẻ.

Ngoài những tình cảm gia đình đó, còn những mối quan hệ xã hội mà tác giả cũng hết lời ca tụng, nâng niu.
Mặc dù mới chỉ là cậu bé Sơn trong Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam đã sớm có tình thương ấm áp thông qua việc làm rất có ý nghĩa: cho Hiên cái áo bông cũ. Đó là hành động rất bình thường, một tình thương bộc phát của trẻ thơ không suy tính mà có chăng chỉ là sự mách bảo của trái tim, thấy bạn không có áo thì cho và trong lòng cảm thấy ấm áp VUI VUI. Sơn VUI, VUI vì mình vừa làm một việc tốt và thấy cái Hiên mặc áo bông thì Sơn thấy mình cũng ấm hơn. Đó là hơi ấm của tình người sưởi ấm cho cả một không gian lạnh se cắt khi gió lạnh đầu mùa đông tràn về mà Thạch Lam đã phát hiện, miêu tả sinh động trong truyện của mình. Đó là tình cảm láng giềng khi tối lửa tắt đèn có nhau của lão Hạc đối với ông giáo trong tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao. Trong lúc xã hội rối ren mà mối quan hệ giữa con người với con người là mối quan hệ giữa người và chó sói thì lão Hạc vần tin một niềm tin bất diệt vào vào ông giáo. Chuyện gì lão cũng kể với ông giáo, cũng hỏi ông giáo và ông đã thực sự là chỗ dựa tin tưởng nhất trong cuộc đời lão.

Ngợi ca và trân trọng, kích phục và thương yêu, các tác giả như Nam Cao, Nguyên Hồng, Thạch Lam đã ghi lại hết sức tinh tế phẩm chất tốt đẹp của người dân, từ một cậu bé Sơn vô tư đến một bé Hồng bất hạnh và cao hơn hết là một hình ảnh của một lão Hạc thật thà, chân chất, yêu thương.

Cùng với việc ngợi ca phẩm chất của người dân và trẻ thơ, các tác giả còn tập trung hướng ngòi bút của mình lên án xã hội đương thời, đấu tranh đòi quyền sống cho con người. Càng thương cảm cho cuộc đời của mỗi nhân vật, các tác giả càng căm phần những thế lực làm khổ cuộc đời họ.

Qua hai tác phẩm Gió lạnh đầu mùa và Lão Hạc, nhà văn Nam Cao và Thạch Lam đã gián tiếp lên xã hội với bọn quan lại sâu dân mọt nước đương thời.

Vì sao cả cuộc đời đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào mà mẹ Hiên vẫn khổ, mà lão Hạc vẫn phái chết. Đó là câu hỏi bức thiết, là lời tố cáo đanh thép và mạnh mẽ quất thẳng vào bộ mặt của xã hội đương thời. Họi làm mà không có ăn vì đâu ư? Vì bọn quan lại tham lam bòn rút, vì thuế má ngặt nghèo của lão Hạc là trường hợp tự bức tử. Nếu lão còn sống thì sống mòn, chết mòn, chết từ từ, chết dần dần trong bàn tay gớm ghiếc của xã hội đã tước đi quyền sống của lão và của bao nhiêu người khác. Hai cái gông phong kiến và thực dân đã đánh gục biết bao nhiêu người như lão Hạc, như mẹ cái Hiên, chết đói, chết rét, cái chết mà lẽ ra phải dành cho bọn quan lại và địa chủ sâu dân mọt nước. Khổ vì nghèo, vì đói, vì quan đã là nhục nhã lắm rồi nhưng chưa hết, sống dưới xã hội mà thực dân nửa phong kiến đương thời, người dân, mà đặc biệt là lão Hạc, mẹ Hồng còn khổ hơn vì hủ tục phong kiến. Nam Cao và Nguyên Hồng đã tập trung phản ánh nạn nhân của nó, có thể nói mỗi số phận như cô gái người yêu anh con trai của lão Hạc rồi mẹ bé Hồng là lời kêu cứu thất thanh văng vẳng trong trái tim các tác giả. Cũng chỉ vì hú tục trong hôn nhân, cưới xin mà anh con trai lão Hạc không lấy được người mình yêu. Nhà gái thách cưới cao quá, gia đình anh làm sao lo đủ, rồi cuối cùng mỗi người một ngả. Cô gái người yêu anh con trai lão Hạc lấy một người chồng giàu sang mà mình không yêu rồi số phận đưa đẩy ra sao? Đó là số phận, là tương lai mù mịt của cô hay chính là mẹ bé Hồng sau này trong tác phẩm Những ngày thơ ấu. Cuộc hôn nhân không tình yêu để rồi tất cả cùng đau khổ, bố bé Hồng chết, mẹ bé Hồng vì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nên đành chôn vùi tuổi thanh xuân mà sau này “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” phải khiến bà phải sống tha hương, cầu thực, bèo dạt mây trôi, tương lai rồi cũng chỉ là một vũng bùn đen tối. Nguyên Hồng đã thể hiện tình cảm gay gắt của mình thông qua hình ảnh bé Hồng muốn tiêu diệt những hủ tục đã đày đọa mẹ mình.

Nói tóm lại văn xuôi giai đoạn 1930-1945 mà đặc biệt là ba tác phẩm Gió lạnh đầu mùa, Những ngày thơ ấu, Lão Hạc cho ta thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của các nhà văn. Dù là ở các trào lưu khác nhau, hiện thực hay lãng mạn, họ đều thể hiện tinh thần nhân đạo bao la với mọi kiếp người: là em bé khổ đau, là cụ già bất hạnh, là tình người ấm áp trong cơn gió lạnh đầu mùa. Nhưng tinh thần nhân đạo của ba tác phẩm vẫn chưa đạt đến chủ nghĩa nhân đạo cách mạng. Bởi các nhà văn chỉ thấy các nhân vật khổ mà thương xót chứ chưa tìm ra được con đường giải phóng họ. vì vậy mà kết thúc câu chuyện dù lãng mạn hay hiện thực vẫn có những chỗ bế tắc, Hồng vẫn khổ, lão Hạc phải chết v.v... song đó là tiếng kêu đòi quyền sống cho con người mà ta rất kính trọng nâng niu ở các nhà văn. Hạn chế cũng là hạn chế trong tư tưởng tác giả và lịch sử một thời đại.

Cảm hứng nhân đạo đã, đang và sẽ là cảm hứng cho tất cả các trào lưu văn học nghệ thuật vị nhân sinh, đó là tiếng lòng của một nhà thơ sau này và mãi mãi về sau:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu nhau sống để yêu nhau.
Tố Hữu

18 tháng 3 2019

1. Mở bài: Dẫn dắt giới thiệu vấn đề nghị luận, trích dẫn và giới hạn vấn đề

2. Thân bài

2.1. Giải thích ý kiến

* Học sinh cần giải thích được ý của nhận định

- Tinh thần nhân văn nhân đạo: là nói đến mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, những gì vì con người cho con người cho những điều tốt đẹp của bản thân mỗi người. Thường thể hiện ở tiếng nói yêu thương, trân trọng con người, ca ngợi vẻ đẹp của tình người và sự cảm thông với những số phận khổ đau bất hạnh đồng thời lên án phê phán tố cáo cái xấu, cái ác, ngọn nguồn của những đau khổ bất hạnh..

- Ý kiến muốn khẳng định: Trong sáng tác văn học các trào lưu lãng mạn và hiện thực chủ nghĩa có cách thức và nội dung phản ánh hiện thực khác nhau nhưng trên những trang viết các nhà văn tài năng đều thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc....

2. 2. Chứng minh:

a. Giới thiệu ngắn gọn chung về Nam Cao và Ngô Tất Tố cùng hai văn bản để thấy đây là hai nhà văn tài năng và tâm huyết và khẳng định với những cách khác nhau hai văn bản đều tỏa sáng tinh thần nhân văn nhân đạo

- Nam Cao và Ngô Tất Tố đều là những nhà văn tài năng và tâm huyết của văn học hiện thực của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

+ Nam Cao được bạn đọc yêu mến bởi những trang viết chân thực và sâu sắc về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức cùng phẫn phải sống mòn, bế tắc trong xã hội cũ...Truyện ngắn “Lão Hạc” là truyện tiêu biểu...

+ Ngô Tất Tố được coi là “nhà văn của nông dân” là một nhà văn am tường trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu, học thuật sáng tác. Văn bản “ Tức nước vỡ bờ” là trang viết sinh động trong Tiểu thuyết “Tắt đèn” nổi tiếng của ông....

- Bằng hai cách viết khác nhau nhưng cùng theo trào lưu hiện thực văn bản “Lão hạc” của Nam Cao và “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố đều là những trang viết thấm đẫm tinh thần nhân đạo của những nhà văn tài năng và tâm huyết: Đó là tiếng nói đồng cảm với nỗi khổ đau của người nông dân trong xã hội cũ, trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của người nông dân và lên án tố cáo các thế lực tàn ác đẩy người nông dân vào bần cùng, khổ đau bất hạnh...

b. Phân tích, chứng minh tinh thần nhân đạo trong hai văn bản “Lão Hạc” và “Tức nước vỡ bờ”.

b.1. Thứ nhất tinh thần nhân đạo thể hiện tiếng nói cảm thông với những khổ đau bất hạnh của con người:

* Truyện “ Lão Hạc

+ Nam Cao cảm thương cho Lão Hạc một lão nông dân nghèo khổ bất hạnh, đáng thương sống trong thời kì thực dân phong kiến (HS đưa dẫn dẫn chứng về nỗi khổ vật chất, tinh thần của Lão Hạc)

+ Cảm thông với tấm lòng của người cha rất mực yêu thương con luôn vun đắp dành dụm những gì có thể có để con có cuộc sống hạnh phúc...

* Văn bản“ Tức nước vỡ bờ”

- Ngô Tất Tố đã thấu hiểu, cảm thông sâu sắc về tình cảnh cơ cực, bế tắc của người nông dân qua tình cảnh thê thảm đáng thương của gia đình chị Dậu trong buổi sáng lúc bọn tay sai ập đến ( HS đưa dẫn chứng về tình thế, hoàn cảnh của gia đình chị Dậu)

b.2. Tinh thần nhân đạo ấy còn được thể hiện qua lời ngợi ca trân trọng, tin tưởng những phẩm chất tốt đẹp của con người..

+ Với “Lão Hạc” Nam Cao đã trân trọng ngợi ca lão Hạc lão nông dân nghèo khổ nhưng có phẩm chất vô cùng cao đẹp: tấm lòng đôn hậu, trái tìm giàu tình yêu thương, lối sống tự trọng (HS đưa dẫn chứng phân tích làm rõ lời ngợi ca của tác giả với Lão Hạc)

+ Trong “Tức nước vỡ bờ” Ngô Tất Tố với tinh thần nhân đạo của nhà văn đầy tâm huyết đã phát hiện và ngợi ca tâm hồn cao đẹp của chị Dậu người phụ nữ nông dân Việt Nam hiền lành chất phác nhưng giàu tình yêu thương chồng con với tinh thần phản kháng mãnh liệt (HS đưa dẫn dẫn chứng về sự ngợi ca về tình yêu thương chồng con của chị Dậu và sự phản kháng của chị Dậu..)

b.3. Tinh thần nhân đạo ấy thể hiện qua tiếng nói lên án phê phán cái xấu cái ác, sự bất công ngọn nguồn của những khổ đau bất hạnh đối với con người.

- Văn bản “Lão Hạc” gián tiếp tố cáo xã hôi phong kiến với hủ tục, với chính sách thuế khóa nặng nề khiến con trai Lão Hạc vì nhà nghèo mà không lấy được vợ phải phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su để Lão Hạc phải sống trong cảnh tuổi già cô đơn không người chăm sóc.(HS đưa dẫn chứng)

- Với “Tức nước vỡ bờ” Ngô Tất Tố đã lên án bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời qua việc miêu tả lối hành xử của các nhân vật thuộc bộ máy chính quyền thực dân nửa phong kiến, đại diện cho giai cấp thống trị ( HS đưa dẫn về sự lên án tố cáo thái độ hống hách, táng tận lương tâm của nhà văn với tên cai lệ và người nhà lí trưởng)

c. Nghệ thuật thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo trong hai tác phẩm.

- Với Nam Cao qua văn bản “Lão Hạc” bằng nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: kết hợp tự sự, trữ tình lập luận thể hiện nhân vật qua chiều sâu tâm lí với diễn biến tâm trạng phức tạp cùng việc lựa chọn ngôi kể hợp lí, sử dụng ngôn ngữ hiệu quả, lối kể chuyện khách quan...

- Còn Ngô Tất Tố qua đoạn tiểu thuyết “Tức nước vỡ bờ” đầy kịch tính, lối kể chuyện, miêu tả nhân vật chân thực sinh động (từ ngoại hình ngôn ngữ, hành động tâm lí...)

Hai nhà văn tài năng, tâm huyết Nam Cao và Ngô Tất Tố đã thể hiện tinh thần nhân đạo theo cách của riêng mình như để khẳng định trong xã hội thực dân phong kiến dù bị đẩy đến bần cùng những người nông dân luôn giữ cho mình phẩm giá cao đẹp không thể bị hoen ố dù phải sống trong cảnh khốn cùng. Họ là những bông sen thơm chốn “bùn lầy nước đọng”

3. Kết bài

Ý kiến nhận định cho thấy tinh thần nhân đạo như sợi chỉ xuyên suốt trong sáng tác của những nhà văn có tài năng và tâm huyêt. Nó luôn chi phối các nhà văn cầm bút sáng tác để họ hướng ngòi bút của mình về con người, vì con người. Tinh thần nhân đạo trong các tác phẩm thơ ca chính là tiếng lòng của những nhà văn tài năng tâm huyết góp phần tạo nên sức mạnh của văn chương chân chính của“ Nghệ thuật vị nhân sinh”. ......

2 tháng 5 2017

Gợi ý:

- Rõ ràng, ở hai câu thơ đầu, Bác nêu ra sự thiếu thốn khi ở trong tù, nhưng không phải để than thở mà để bắt đầu nền tảng cho câu thơ thứ hai.

-Câu thứ hai thể hiện nên sự bối rối, khó xử của người tù trong hoàn cảnh "không rượu cũng không hoa", sự bồn chồn trước cảnh đẹp của đêm trăng==> Người vẫn có sự rung động mãnh liệt trước đêm trăng.

23 tháng 9 2021

Tham khảo

Lòng khiêm tốn là một phẩm chất quan trọng mà mỗi con người cần có. Khiêm tốn là một đức tính tốt đẹp của con người nó thể hiện qua từng lời nói cử chỉ và hành động của con người đối với người đối diện một cách thật tâm nhất.Những người có đức tính khiêm tốn họ không biểu lộ sự tự mãn, kiêu căng, bốc đồng… nói quá về những gì mình có, đang làm, đang biết nhờ vậy tạo được sự gần gũi, giao tiếp ôn hòa nhờ đó kết giao được với nhiều người. Khiêm tốn cho thấy khả năng tự chủ, kiểm soát bản thân, chiến thắng cái tôi trong mỗi con người. Khiêm tốn là lối sống không tự đề cao mình, đánh giá đúng mực về bản thân, không khoe khoang thành công và không ngừng học hỏi từ những người khác. Đây là một đức tình cần được rèn luyện từ ngay khi còn nhỏ, nếu không khi lớn lên, bạn sẽ mắc phải một sai lầm lớn.

2 tháng 12 2021

Khiêm tốn là một đức tính rất cần thiết và là thái độ sống đẹp trong xã hiện nay. Vì không ai trong chúng ta là hoàn hảo cả, trí tuệ của mỗi chúng ta chỉ là một hạt cát bé nhỏ giữa sa mạc rộng lớn, khiêm nhường sẽ giúp chúng có thể hoàn thiện bản thân và mở rộng vốn hiểu biết của mình hơn. Khiêm nhường là thái độ cần có của mỗi chúng ta bất kể ta là ai, có chức vụ gì, tài giỏi nào vì đức tính ấy giúp ta có được thiện cảm với những người xung quanh có được những mối quan hệ gần gũi và cần thiết.

Nếu không có đức tính khiêm tốn, con người chúng ta sẽ ngủ quên trên chiến thắng, không biết vươn lên, không tự mình tiến bộ, hoàn thiện bản thân và sẽ trở nên tụt hậu so với những con người biết học hỏi. Thế nhưng vẫn có nhiều người không khiêm nhường, tự cao kiêu ngạo và khinh thường người khác.Trái ngược một số khác lại tự ti, xem nhẹ bản thân mình, rụt rè và nhút nhát, không dám thể hiện bản thân. Những con người như thế sẽ khó thành công trong công việc