Tìm đọc một số bài phân tích các văn bản Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Buổi học cuối cùng (Đô – đê), Búp sen xanh (Sơn Tùng), Bố của Xi -mông (Mô-pa-xăng), Mẹ (Đỗ Trung Lai), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Hai vạn dặm dưới đáy biển (Véc-nơ), Người về từ Sao Hỏa (En-di Uya),…
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. Mở bài: Nêu vấn đề cần trình bày. Ví dụ: Cả ba văn bản đều có nội dung liên quan đến tinh thần yêu nước nhưng mỗi văn bản có cách thể hiện rất khác nhau.
2. Thân bài: Dựa vào các ý đã tìm được, trình bày ý kiến của mình theo một trình tự nhất định. Ví dụ:
+ Nêu cách hiểu về lòng yêu nước thể hiện cụ thể ở mỗi văn bản; ví dụ: Lòng yêu nước thể hiện ở văn bản Buổi học cuối cùng là tình cảm trân trọng và yêu quý tiếng Pháp của thầy Ha-men, của dân làng và cậu bé Phrăng,... Ở văn bản Dọc đường xử Nghệ là... Ở văn bản Người đàn ông cô độc giữa rừng là...
+ Nêu lí lẽ vì sao những biểu hiện đó được coi là lòng yêu nước. Ví dụ:
• Hành động chế vũ khí (tên, nỏ) bắn giặc Pháp xâm lược là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước ở chú Võ Tòng.
• Giải thích vì sao những cảnh vật dọc đường với những thắc mắc của bé Côn hay câu trả lời của cụ Phó bảng, tuy chỉ là những suy nghĩ, cảm xúc, không phải là hành động cụ thể nhưng vẫn là biểu hiện của lòng yêu nước.
• Lí giải vì sao yêu tiếng mẹ đẻ được coi là biểu hiện của lòng yêu nước ,...
3. Kết bài:
Tóm tắt, khẳng định lại ý kiến đã nêu của mình và liên hệ với cuộc sống hiện nay. Ví dụ: Không nên hiểu lòng yêu nước một cách hạn hẹp, chẳng hạn quan niệm: chỉ ra trận đánh giặc mới là yêu nước. Yêu nước còn được thể hiện bằng nhiều cách thức, nhiều hành động, ... khác nhau.
Bài tham khảo: Đoạn văn thể hiện cảm xúc về tình cảm bà cháu trong bài Tiếng gà trưa:
Tình cảm bà cháu là tình cảm đẹp đẽ, thiêng liêng và vô cùng sâu nặng. Tình cảm đó đã hằn sâu trong kí ức tuổi thơ của người chiến sĩ. Do vậy, trên đường hành quân xa, chỉ một tiếng gà cục tác đã gợi dậy những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, đáng nhớ về bà. Đó là sự chắt chiu, tần tảo với bao nỗi lo, bao niềm mong ước của bà với tình thương bao la dành cho cháu. Những kỉ niệm đó thật bình dị mà thiêng liêng! Nó nhắc nhở, lay động bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường hành quân ra mặt trận chiến đấu. Tình cảm tốt đẹp đó sẽ mãi là hành trang theo bước chân của người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho anh trong cuộc chiến đấu hôm nay.
Trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, nhân vật Võ Tòng được nhà văn Đoàn Giỏi xây dựng với đầy đủ đặc điểm về ngoại hình, tính cách.
Một lần, tía nuôi của An đã đưa cậu và thằng Cò đến thăm Võ Tòng. Qua con mặt của An, nhân vật này hiện lên là người đàn ông hiền lành, chất phác. Người dân trong vùng không biết tên thật của Võ Tòng. Họ chỉ biết rằng nhiều năm trước, Võ Tòng đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Một mình chú đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Kể từ đó, người ta gọi chú là Võ Tòng.
Sống trong rừng sâu, cách ăn mặc của chú cũng rất đơn giản. Chú thường cởi trần, mặc chiếc quần kaki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt chiếc quần lính Pháp có những sáu túi. Bên hông chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê, nằm gọn trong vỏ sắt.
Khác với vẻ ngoài là một tính cách hiền lành, tốt bụng. Cuộc đời của chú đã trải qua nhiều cay đắng. Trước đây, chú cũng từng có một gia đình hạnh phúc. Vợ chú là một người đàn bà xinh xắn, lúc mang thai đứa con đầu lòng cứ kêu thèm ăn măng. Yêu quý vợ hết mực, chú liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về ngang qua bờ tre nhà địa chủ liền bị hắn vu cho tội ăn trộm. Võ Tòng một mực cãi lên nhưng bị tên địa chủ quyền thế lại ra sức đánh, khiến chú chém trả. Nhưng chú không trốn chạy mà đường hoàng chịu tội. Hành động này thể hiện được bản chất thật thà, dũng cảm của Võ Tòng.
Ở tù về, Võ Tòng nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ, còn đứa con trai độc nhất thì đã chết. Chú liền bỏ làng đi, vào trong rừng sống một mình. Dù vậy, chú vẫn hay giúp đỡ mọi người. Võ Tòng còn là một con người giàu lòng yêu nước. Chú đã chuẩn bị những mũi tên tẩm thuốc độc để đánh giặc Pháp. Chú đã kể lại chiến công giết chết tên giặc Pháp với vẻ hào hứng, sung sướng. Chú chia những mũi tên cho tía nuôi của An - một con người mà chú hết sức yêu mến và tin tưởng để ông sử dụng khi gặp kẻ thù.
Có thể khẳng định, nhân vật Võ Tòng hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người Nam Bộ: phóng khoáng, gan dạ, mạnh mẽ, có tinh thần yêu nước nồng nàn.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Guy đơ Mô-pa-xăng ( 1850-1893) là nhà văn Pháp. Ông là tác giả của hơn 300 truyện ngắn nổi tiếng là truyện "Viên mỡ bò" và một số tiểu thuyết khác như " Một cuộc đời", " Ông bạn đẹp",..
2. Tác phẩm
Tóm tắt : Chị Blăng - sốt bị một người đàn ông lừa dối nên sinh ra Xi - mông. Xi - mông đến lớp bị các bạn khác trêu là không có bố. Em vô cùng đau khổ và định tự tử. Phi-líp một bác thợ rèn, gặp em, muốn giúp em nên đã hữa sẽ cho em một ông bố. Không ngờ Xi - mông tin tưởng và dẫn về gặp mẹ. Trước yêu cầu tha thiết của Xi - mông, bác Phi lip phải nhận làm bố để Xi - mông yên lòng. Từ việc đùa an ủi Xi - mông, Phi Lip nghiêm túc cầu hôn chị Blăng - sốt và họ trở thành một gia đình hạnh phúc.
Đoạn trích là đoạn giữa của tác phẩm khi Blăng - sốt định tự tử và gặp Phi lip rồi bác dẫn Blăng - sốt về nhà nhận làm bố em
II. Trả lời câu hỏi
1. Đoạn văn trích chia làm 4 phần
- Phần đầu : Nỗi tuyệt vọng của Xi - mông
- Phần thứ 2 : Phi - líp gặp Xi - mông và hứa cho em một ông bố
- Phần thứ 3 : Phi líp đưa Xi - mông về nhà trả cho chị Blăng - sốt và nhận làm bố của em
- Phần thứ 4 : Xi - mông đến trường tin tưởng nói với các bạn rằng bố em là Philip
2. Xi - mông đau đớn vì em bị các bạn chê là không có bố. Tất cả các bạn đều có bố. Riêng Xi - mông thì không. Em đau đớn đến mức định ra bờ sông để tự tử. Nhưng cảnh vật bờ sông làm em nguôi ngoai ý định đó. Tuy vậy, em vẫn vô cùng đau khổ. Nhà văn diễn tả em khóc rất nhiều. Nghĩ đến mẹ, em lại khóc, em đọc kinh nhưng không đọc được vì những cơn nức nở lại kéo đến, em chỉ khóc hoài. Về nhà, em lại òa khóc và nói em không bị lạc đường mà muốn nhảy xuống sông vì không có bố.
Nỗi đau khổ còn thể hiện ở giọng nghẹn ngào, mắt đẫm lệ khi
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Guy đơ Mô-pa-xăng ( 1850-1893) là nhà văn Pháp. Ông là tác giả của hơn 300 truyện ngắn nổi tiếng là truyện "Viên mỡ bò" và một số tiểu thuyết khác như " Một cuộc đời", " Ông bạn đẹp",..
2. Tác phẩm
Tóm tắt : Chị Blăng - sốt bị một người đàn ông lừa dối nên sinh ra Xi - mông. Xi - mông đến lớp bị các bạn khác trêu là không có bố. Em vô cùng đau khổ và định tự tử. Phi-líp một bác thợ rèn, gặp em, muốn giúp em nên đã hữa sẽ cho em một ông bố. Không ngờ Xi - mông tin tưởng và dẫn về gặp mẹ. Trước yêu cầu tha thiết của Xi - mông, bác Phi lip phải nhận làm bố để Xi - mông yên lòng. Từ việc đùa an ủi Xi - mông, Phi Lip nghiêm túc cầu hôn chị Blăng - sốt và họ trở thành một gia đình hạnh phúc.
Đoạn trích là đoạn giữa của tác phẩm khi Blăng - sốt định tự tử và gặp Phi lip rồi bác dẫn Blăng - sốt về nhà nhận làm bố em
II. Trả lời câu hỏi
1. Đoạn văn trích chia làm 4 phần
- Phần đầu : Nỗi tuyệt vọng của Xi - mông
- Phần thứ 2 : Phi - líp gặp Xi - mông và hứa cho em một ông bố
- Phần thứ 3 : Phi líp đưa Xi - mông về nhà trả cho chị Blăng - sốt và nhận làm bố của em
- Phần thứ 4 : Xi - mông đến trường tin tưởng nói với các bạn rằng bố em là Philip
2. Xi - mông đau đớn vì em bị các bạn chê là không có bố. Tất cả các bạn đều có bố. Riêng Xi - mông thì không. Em đau đớn đến mức định ra bờ sông để tự tử. Nhưng cảnh vật bờ sông làm em nguôi ngoai ý định đó. Tuy vậy, em vẫn vô cùng đau khổ. Nhà văn diễn tả em khóc rất nhiều. Nghĩ đến mẹ, em lại khóc, em đọc kinh nhưng không trả lời bác Phi líp, ở giọng nói luôn ngắt quãng xen những tiếng nấc buồn tủi
3. Chị Blăng - sốt là một phụ nữ tốt. Ngôi nhà của chị là một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Một mình chị chịu đựng để nuôi Xi - mông khôn lớn. Thái độ của chị với bác Phi líp là một thái độ nghiêm túc, đúng mực. Chị vô cùng thương con khi nghe con khóc vì chuyện không có bố, chị đã đỏ mặt ôm con hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi.
4. bác Phi - líp khi gặp Xi - mông thì mìm cười vì chuyện em nói không có bố. Chỉ vì muốn an ủi em nên đã nói rằng người ta sẽ cho Xi - mông một ông bố. Trên đường đưa Xi - mông về nhà, bác nghĩ rằng mẹ của chú bé đã có một tuổi xuân lầm lỡ thì rất có thể lại lỡ lầm. Nhưng khi nhìn thấy chị Blăng - sốt thì bỗng bác tắt nụ cười và trở nên lúng túng, e dè, nói năng ấp úng. Khi đối đáp với Xi - mông, bác coi như một chuyện đùa, nhận làm bố em. Nhưng chính sự hồn nhiên, ngây thơ của Xi - mông đã làm cho Phi - líp cảm mến em. Hành động nhấc bổng em lên và hôn vào hai má em chứng tỏ điều đó. Diễn biến tâm trạng của bác Phi-lip vừa phức tạp, vừa bất ngờ
Phương pháp giải:
Tham khảo internet, sách báo
Lời giải chi tiết:
a. Tác phẩm
- Ngày phát hành: 1957
- Đất rừng phương Nam là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng
- Nội dunh chính: viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.
b. Tác giả
- Tiểu sử:
+ Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang.
+ Gia đình: xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.
+ Ông có những bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
- Phong cách nghệ thuật: viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người Nam Bộ.
- Cuộc đời:
+ Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940
+ Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949)
+ Từ 1949-1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam
+ Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam
+ Ông là viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III.
+ Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư
+ 07/04/2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
a. Tác phẩm
- Ngày phát hành: 1957
- Đất rừng phương Nam là truyện viết cho lứa tuổi thiếu nhi rất thành công và nổi tiếng của ông. Truyện đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, tái bản nhiều lần, được dựng thành phim và in trong Tủ Sách Vàng của Nhà xuất bản Kim Đồng
- Nội dunh chính: viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.
b. Tác giả
- Tiểu sử:
+ Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang.
+ Gia đình: xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.
+ Ông có những bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư.
- Phong cách nghệ thuật: viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người Nam Bộ.
- Cuộc đời:
+ Ông từng theo học tại trường Mỹ thuật Gia Định trong những năm 1939-1940
+ Trong những năm Việt Nam chống Pháp, Đoàn Giỏi công tác trong ngành an ninh, rồi làm công tác thông tin, văn nghệ, từng giữ chức Phó trưởng Ty thông tin Rạch Giá (1949)
+ Từ 1949-1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam
+ Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, đến năm 1955 ông chuyển sang sáng tác và biên tập sách báo, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi Hội Văn nghệ Việt Nam
+ Ông là viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III.
+ Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư
- Vai kể, điểm nhìn trong Đất rừng phương Nam là vai kể, điểm nhìn của cậu bé An. Ở đoạn trích, cậu bé An là nhân vật xưng "tôi", trực tiếp kể lại câu chuyện
⇒ thiên nhiên đẹp đẽ, phong phú được kể qua lời kể và điểm nhìn của cậu bé An khiến thiên nhiên trở nên gần gũi.
- Vai kể trong Dưới bóng hoàng lan:
+ Người kể chuyện: Thanh
+ Điểm nhìn: Điểm nhìn của nhân vật Thanh.
⇒ Vai kể và điểm nhìn trong Dưới bóng hoàng lan có sự đan xen, tạo nên sự hấp dẫn trong nghệ thuật kể chuyện và tạo được sự bao quát trong lối kể.