K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
30 tháng 1

* Cảm nhận về Nguyễn Du:

- Hai dòng đầu khẳng định, ngợi ca sức lay động mãnh liệt (động đất trời) của thơ Nguyễn Du, tiếng thơ ấy vang vọng lời non nước suốt cả ngàn thu.

- Hai dòng thơ sau khẳng định sức sống vĩnh cửu của thơ ca và tấm lòng của Nguyễn Du, tiếng thơ của ông có tác dụng nuôi lớn tâm hồn và thân thiết như lời ru của mẹ.

* Cảm nhận về tình cảm của tác giả và chủ thể trữ tình dành cho Nguyễn Du:

- Tình cảm của dân tộc với đại thi hào Nguyễn Du là sự tinh thần kế thừa, phát huy giá trị tinh hoa truyền thống gắn với những khái niệm về giá trị to lớn, trường tồn “đất trời”, “non nước”.

- Nhà thơ trân trọng, nể phục những giá trị lớn lao Nguyễn Du để lại. Qua tiếng thơ ấy, người đọc nhận ra nỗi đau và khát vọng của thế hệ trước, để đón nhận trách nhiệm thực hiện lời nhắn nhủ thiêng liêng bảo vệ quyền sống và làm người. Tiếng thơ của Nguyễn Du mãi là điều thân thuộc, ăn sâu vào hồn dân tộc như lời ru của mẹ bao đời.

18 tháng 3 2016

           

 

            Tố Hữu là một thi sĩ- chiến sĩ.  Thơ Ông gắn liền với Đảng với quê hương.  Đối với ông, thơ ca không ngoài mục đích phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng.  Trong nguồn mạch thơ trữ tình chính trị, ông tìm về quá khứ của thế hệ cha ông để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cho thời đại mới hôm nay.  Bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du” là một trong những bài tiêu biểu cho việc tìm về quá khứ để đồng cảm trân trọng cha ông xưa.

            Bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du”được Tố Hữu viết năm 1965,lúc ấy nhà thơ có dịp qua quê hương Nguyễn Du và nhân kỉ niệm hai trăm năm ngày sinh Nguyễn Du.  Ông xúc động viết bài thơ này.  Sau khi  cảm nhận thấm thía lòng thương người  và nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Du, Tố Hữu đã thốt lên những vần thơ  thật xúc động:

                                    Tiếng thơ ai động đất trời

                                    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

                                    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

                                   Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

                                   Hỡi người xưa của ta nay

                                   Khúc vui xin lại so dây cùng người

             Với sự cảm nhận sâu sắc, ngưỡng mộ tài năng và lòng thương người bao la của Nguyễn Du, Tố Hữu đã vết hai câu mở đầu đoạn với lòng trân trọng:

                                                 Tiếng thơ ai động đất trời

                                    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

             Tố Hữu ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi.  Bằng cách so sánh ẩn dụ tài tình, Ông đã nâng tầm cao giá trị của tiếng thơ Nguyễn Du.  Ông đã ví tiếng thơ ấy là “non nước” vọng về từ ngàn năm trước.  Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào hân hoan đón nhận của hậu thế.  Tiến thơ ấy thật đáng trân trọng, thật đáng ngượng vọng.  Hai câu thơ đã khái quáược tầm vóc, giá trị to lớn của thơ Nguyễn Du cũng tài năng của cụ.  Mặt khác hai câu thơ trên còn thể hiện tình cảm cao đẹp của Tố Hữu-  thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khứ của cha ông. Tố Hữu tiếp tục nâng tầm cao giá trị thơ Nguyễn Du có tính vĩnh hằng ở hai câu sau:

                                                Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

                                      Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

             Nghìn năm là mãi mãi, sẽ không quên Nguyễn Du.  “ Nghìn năm” là  khoảng thời gian của bao thế hệ hôm nay và mai sau sẽ nhớ.  Đó là tấc lòng tri ân của các thế hệ hôm nay và mai sau sẽ không quên thơ Nguyễn Du.  Tiếng thơ Nguyễn Du được ví như “tiếng mẹ ru những ngày”.  Tiếng mẹ gần gũi và thân thiết quá.  Tiếng thơ Nguyễn Du là tiếng thương, tiếng nhẹ nhàng ân tình, gửi bao ước mơ và khát vọng cháy bỏng.  và vì thế tiếng thơ Nguyễn Du là

 

 

tiếng ru của mẹ, ân tình, ngọt ngào lắng đọng vào mỗi thế hệ.  

            Khúc hát ru ân tình ấy là lời thủ thỉ cho con cháu – thế hệ hôm nay vững bước đi lên.  Với sự trân trọng va biết ơn Nguyễn Du, Tố Hữu đã chắp bút viết nên những câu thơ hay như thế.  Hai câu cuối là lời đồng vọng của quá khứ hòa nhập cùng thế hệ hôm nay để vang lên bài ca tự hào

                                            Hỡi người xưa của ta nay

                                  Khúc vui xin lại so dây cùng người

             Nhà thơ khẳng định Nguyễn Du là người của quá khứ nhưng cũng là người của hôm nay là “người xưa” mà “của ta nay”.  Nhà thơ xin hòa ca khúc vui của hôm nay vào  khúc bi ai xưa để chia sẻ, cảm thông và kính trọng quá khứ.

bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn,, giọng điệu ân tình tha thiết, đậm chất dân tộc.  Khổ thơ đã thể hiện rõ lòng trân trọng  thơ Nguyễn Du cũng như tài năng Nguyễn Du với.  Đoạn thơ cũng cho thấy Tố Hữu có sự cảm nhận đầy đủ so với các nhà thơ cùng thời.

              Bài thơ “ Kính gửi cụ Nguyễn Du” cũng như Đoạn thơ lục bát này phảng phất hơi thơ Truyện Kiều.  Tố Hữu đã tổng kết đánh giá  cuộc đời Nguyễn Du thật chính xác và sâu sắc.  Đó còn là tiếng lòng trân trọng của hậu thế đối với Nguyễn Du.

 

18 tháng 3 2016
Tháng 11/1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc. Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên: Tiếng thơ ai động đất trờiNghe như non nước vọng lời ngàn thuNghìn năm sau nhớ Nguyễn DuTiếng thương như tiếng mẹ ru những ngàyHỡi Người xưa của ta nayKhúc vui xin lại so dây cùng Người! Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công tấm lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng văn học Việt Nam. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm lòng khát vọng tìm về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết: Tiếng thơ ai động đất trờiNghe như non nước vọng lời ngàn thu Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông. Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh hằng khác: Nghìn năm sau nhớ Nguyễn DuTiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ.. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chắp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài. Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con- thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành. Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:  Hỡi người xưa của ta nayKhúc vui xin lại so dây cùng Người! Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri âm. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân trọng. Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ hôm nay đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo nhịp đập của quá khứ. Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng thơ trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay: Sông Lam nước chảy bên đồiBỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
15 tháng 4 2019

b)Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu- thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.

20 tháng 1 2022

Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ:

“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.

Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm thì đó cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên phố.

Ta hãy hình dung dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn ấy.

Hoa đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thật sinh động. Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục:

“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.

Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là một người am hiểu về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết những nét chữ tài hoa đến như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” đã thể hiện được lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông đồ.

Đây cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ là một thú vui thể hiện cốt cách thanh cao của người thưởng thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba bởi nét chữ thể hiện được cái tâm, cái chí của người sáng tạo. Không những viết đẹp mà ông còn viết nhanh, điều này thật đáng khâm phục.

Những nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có học thức khiến ai cũng muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết chữ và người chơi chữ như có mối đồng cảm sâu sắc vì họ đều là người biết yêu và thưởng thức cái đẹp. Cả đoạn thơ như khúc hát ru ta, đưa bạn đọc đến với những cảm nhận tuyệt vời nhất về ông đồ.

18 tháng 2 2017

Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được ở Nguyễn Khuyến một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.

10 tháng 10 2018

Nguyễn Du và Truyện Kiều
Trải qua một cuộc bể đâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều

Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, còn có biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ (phường săn núi Hồng) và Nam Hải điếu đồ (dân chài biển Nam). Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (1765), nhằm niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông, tại kinh thành Thăng Long, trong một gia đình đại quý tộc có thế lực bậc nhất thời bấy giờ.
Nguyễn Du vốn quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ là Nguyễn Nghiễm, mẹ là Trần Thị Tần.
Dòng họ Nguyễn của Nguyễn Du không chỉ thành đạt về đường hoạn lộ mà còn rất có truyền thống về văn học. Khi Nguyễn Du lên 10 tuổi thì thân phụ mất, hai năm sau ông lại mồ côi mẹ. Bốn anh em cùng cha mẹ chưa có ai trưởng thành. Nguyễn Du lớn lên trong một giai đoạn lịch sử vô cùng rối ren và phức tạp. Đất nước chia đôi, các thế lực phong kiến cầm quyền bị phân hóa, không còn đủ sức ổn định tình hình và lãnh đạo đất nước.hỉ trong vòng chưa đầy 30 năm mà mấy lần chuyển giao triều đại, mấy lần thay thời đổi thế.
Năm 1873, Nguyễn Du 18 tuổi đi thi Hương ở Nam Sơn và đậu tam trường.
Tháng 8 năm 1802, nhà thơ xứ Tiên Điền chính thức đi vào đường hoạn lộ. Nguyễn Du mất vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820 tại Kinh thành Phú Xuân, an táng tại xã An Ninh, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Bốn năm sau cải táng về làng Tiên Điền, quê hương của nhà thơ.
Sự nghiệp lớn nhất, có ý nghĩa nhất mà nhà thơ núi Hồng Lĩnh để lại cho đời là sự nghiệp văn chương của ông. Đỉnh cao thể hiện biệt tài ấy là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ của dân tộc ta đã được nâng lên một tầm cao mới với sự súc tích, đẹp đẽ đến không ngờ và trở thành linh hồn văn học của Việt Nam.
Truyện Kiều được Nguyễn Du viết ra theo thể văn thuần túy Việt Nam (thơ lục bát), phóng tác theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, một truyện viết bằng văn xuôi kể lại cuộc đời của một cô gái đời Minh nổi danh về tài sắc mà chẳng may bị lưu lạc khổ sở “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.
Truyện Kiều qua cái nhìn Phật học
Nội dung Truyện Kiều là một chuỗi những đau khổ tận cùng Thúy Kiều gặp phải và chịu đựng suốt 15 năm của đời mình mà khởi nguyên của đoạn trường đau đớn ấy là bắt nguồn từ lòng hiếu thảo của nàng.Trước cảnh hoạn nạn của gia đình, nàng phải đối trước một sự lựa chọn quá khắc nghiệp giữa “Tình” và “Hiếu” để rồi trong khoảng khoắc phải quyết định:
Để lời thề hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình,
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Hành động bán mình chuộc cha là đỉnh điểm của lòng hiếu thảo, và rồi trong những tháng ngày nơi chốn thanh lâu, cha mẹ vẫn là điểm tựa, là nỗi nhớ thương trong lòng nàng hiếu nữ họ Vương bạc mệnh. Nàng luôn nghĩ về cha mẹ, thương cha mẹ giờ đã già yếu đi nhiều vì từ ngày cách biệt đến giờ đã mười mấy năm có lẻ.
Khi nghĩ đến “bán mình” hẳn Thúy Kiều đã đoán trước được con đường phía trước cuộc đời nàng sẽ ra sao. 15 năm lưu lạc trải qua biết bao nhiêu là biến động theo chiều hướng khổ đau, bất hạnh. Cuộc đời bể đâu ấy đã hiện ra bóng dáng của cuộc thế tang thương, biến hoại, mang đậm nét giáo lý vô thường của đạo Phật.
Câu chuyện về cuộc đời nàng kỹ nữ Đạm Tiên là hình ảnh đầu tiên về lẽ vô thường và rõ nét nhất:
Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Trong Truyện Kiều, mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh tập trung ở nàng Kiều - con người và số phận. Với Nguyễn Du, triết luận là suy nghĩ về cuộc đời, về “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Đây là bi kịch trong tâm hồn ông và cũng là sự tốt cáo sâu sắc của ông với xã hội đương thời. Số mệnh ấy chẳng qua là quy luật thép của xã hội, nó không những giáng lên đầu Kiều mà còn bắt Kiều phải thừa nhận. Thế nên không lạ gì khi ông viết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Băn khoăn và không tin chắc lắm cho một “ông trời” bất công như thế, Nguyễn Du đã đi tìm một sự giải thích khác và ông đã tìm thấy triết lý nhân quả của Đạo phật ở cuộc đời nàng Kiều “thân yêu, tri kỷ” của ông.
Cuộc đời Thúy Kiều, nhân vật chính của câu chuyện là cuộc đời với tất cả khổ đau tận cùng, là hình ảnh minh họa rõ nét nhất của một kiếp nhân sinh. Nguyên nhân của việc phải chịu khổ đau ấy là do nghiệp lực của chính mình tạo ra, do những nhân ái, vô minh đã gieo trồng trong nhiều kiếp chứ không phải do một đấng tối cao nào đó áp đặt, mặc dù đấng tối cao ấy vẫn hiện diện trong câu chuyện của nhà thơ.

Theo Đạo Phật, con người có tự do trong việc tạo y báo và chánh báo, tức là chuyển hóa các tâm hành để thăng hoa đời sống của mình. Vì vậy, mặc dù quá khổ đau nhưng trong Kiều vẫn tiềm tàng một khao khát được giải thoát. Kiều nhận lời làm vợ lẽ Thúc Sinh; Kiều theo về với Từ Hải đều nằm trong ý hướng ấy. Như vậy, trong tận cùng của đau khổ, nhận diện được đau khổ, con người mới khát khao, ý thức diệt khổ. Diệt khổ có căn nguyên từ trong chân lý “đời là bể khổ”. Trong ý nghĩa ấy và trên bình diện triết lý, Truyện Kiều đã hàm chứa hai thánh đế “Khổ” và “Tập” của Đạo phật rồi.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy rằng suốt trên quãng đường 15 năm lưu lạc của nàng Kiều, Nguyễn Du đã chọn cho nhân vật của mình giải pháp sống lại trong sự che chở dưới mái chùa - mái nhà tôn giáo đương thời. Những mái chùa hiện hữu như “giọt nước cành dương” mà không đòi hỏi “một chỗ đứng thế tục”, như một định thế thoát tục nhưng chúng nằm trong thế đối đãi với thế tục như cặp tương quan “khổ tận - cam lai”; “khổ - diệt khổ”. Với ý nghĩa đó, Nguyễn Du đã không để nàng Kiều lưu lại trong chùa trong quãng đời còn lại. Cuộc “trở về đoàn tụ” được thực hiện ngay trong “lòng đời”, sau những ngày thanh tịnh “sự đời đã tắt lửa lòng”
Giấc mộng “hương quan, đoàn viên” của nàng Kiều biến thành hiện thực. Kiều tái hợp gia đình trong niềm vui khôn tả.

Và sau hết, thông điệp về tư tưởng có ý nghĩa thâm áo nhất mà nhà thơ họ Nguyễn muốn gửi lại cho hậu thế là một chữ “Tâm” đặc sắc, một chữ “Tâm” thiên biến vạn hóa, tác nhân của hạnh phúc hay khổ đau, Niết Bàn hay địa ngục. Một chữ “Tâm làm thiện căn tăng trưởng, đưa con người đến bến bờ an lạc vĩnh hằng. Do vậy, mở đầu của Truyện Kiều là một cuộc “bể dâu” được giới hạn bởi “trăm năm trong cõi người ta” thì ở phần kết Nguyễn Du lại hạ bút:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Như vậy sự mở đầu là “Tài - Mệnh” nhưng kết thúc là “Tài - Nghiệp”. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Du đã rõ: dùng chữ “Tâm” đối lại với chữ “Tài” và bù đắp cho “Tài”. Tư tưởng này đã có dụng ý ngay từ trong toàn bộ bố cục tác phẩm. Bởi lẽ chính chữ “Tâm” là điều kiện có thể xây dựng “đoàn viên” trong “đạo làm người” theo nhà thơ họ Nguyễn. Dùng chữ “Tâm” mà Nguyễn tiên sinh đã thắm đượm, miệt mài “kinh lòng hằng đọc” để sửa chữ “Tài mệnh tương đố ” của Nho giáo. Với Nguyễn Du, mục đích sáng tác “Đoạn trường tân thanh” là để nói đến “Tâm” và “Tu”, sâu sắc như điều tâm đắc mà cả cuộc đời tu học Nguyễn Du đã thấu hiểu.

Đọc Truyện Kiều qua lăng kính Phật học, ta chợt nhận ra bao nhiêu tư tưởng Phật học ẩn chứa trong những vần thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh, âm điệu của Nguyễn tiên sinh. Nguồn tư tưởng ấy góp phần tạo nên phần hồn sâu kín cho tác phẩm. Như những hạt vàng chưa được đãi lọc, chúng ta hy vọng trong tương lai sẽ được đọc những công trình biên khảo lớn hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về tư tưởng hay của các bậc “túc Nho đạt Thích” để Truyện Kiều không chỉ là “mua vui cũng được một vài trống canh”
Như nhà thơ khiêm tốn tự nhận. Trái tim của những thế hệ khác nhau sẽ còn rung động sâu sắc với những tâm tư tình cảm của Nguyễn Du, của nàng Kiều trong câu Truyện Nguyễn Du viết lại.