K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 3 2022

Dù cuộc sống đầy đủ sung túc, dù đi đâu về đâu  nhưng con người ta cũng không toải mài bằng được ở trong ngôi  nhà của mình. Dành dụm yêu thương để giữ trong tim mình là điều ai cũng làm được, và đã làm được. Hơn thế, dành tình cảm cho những người mà mình yêu thương, cho gia đình đó là một điều ý nghĩa biết bao. Có một câu nói: : “Có một nơi để về, đó là nhà. Có những người để yêu thương, đó là gia đình. Có được cả hai, đó là hạnh phúc”. Liệu bạn có được nhà, được gia đình, được hạnh phúc không? Điều đó phụ thuộc vào chính bản thân các bạn.

“Nhà” là nơi mà ta có thể trú nắng, trú mưa bất cứ lúc nào. Nhà là nơi đợi ta về những lúc đi xa. Nhà là nơi chú giúp ta trưởng thành. Nhà là nơi mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Mọi sinh hoạt của mọi người hầu hết đều diễn ra ở nhà. Ta có thể đi rất nhiều nơi, ở rất nhiều chỗ nhưng không thể bằng nhà của chúng ta, ta không được quên nơi sinh ra, lớn lên- đó là nhà. Dù đi đâu cũng phải nhớ đường vè nhà. Như vậy, ta đã “Có một nơi để về, đó là nhà”.

“Gia đình” là nơi chứa đựng những yêu thương mà ta dành cho những người thân yêu. Cuộc sống có bao lo toan, vất vả, cuộc sống xô bồ đã làm cho con người ta mệt mỏi, gục ngã. Việc đầu tiên mà người ta nghĩ đến đó chính là gia đình. “ Gia đình” là nơi có cha, có mẹ, có những người thân yêu nhất. Khi chúng ta gục ngã- gia đình, những người thân yêu sẽ nâng chúng ta dậy, sẽ giúp chúng ta đứng lên:

“ Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”

Dù ta là ai, ta ở bất cứ đâu, bất cứ nơi nào thì gia đình, những người thân yêu vẫn dõi theo bước chân chúng ta trên đường đời nhiều chông gai, vất vả. “Gia đình” là nơi có những ngưới mà ta dành trọn thương cho họ. trong tim mỗi người, dù là người tốt hay xấu, dù bình thường hay tù tội, dù nghèo khổ hay giàu có,… thì họ đều dành trái tim mình những người mà họ yêu thương.

“Hạnh phúc” là gì hả bạn? “Hạnh phúc là một thứ gì đó không thành hình khối, cũng chẳng thể sờ thấy. Mà nó chính là cảm xúc của chúng ta. nếu một điều gì đó làm ta vui- ta sẽ cảm thấy “hạnh phúc”. Nếu ta làm một việc có ý nghĩa- ta sẽ cảm thấy “hạnh phúc”. Hơn tất cả có một nơi để về, có những người để yêu thương ta sẽ thấy hạnh phúc hơn hết. Yêu thương người khác giúp ta hạnh phúc hơn,giúp ta thấy cuộc sống này ý nghĩa biết bao. Nếu như: “ nhà to nhưng gia đình nhỏ” thì ta sẽ không cảm thấy hạnh phúc. Là khi những người trong gia đình không gắn kết, không có tình yêu thương giữa những người thân trong gia đình.

Hiện thực cuộc sống có những gia đình chỉ biết lo kiếm tiền, không chăm lo đến vun ven tình cảm giữa những người thân với nhau. Họ khiến cho con cái chỉ cảm thấy vật chất là đủ, còn tình cảm thi vô cùng thiếu thốn. Trong thực tế, có nhiều gia đình giàu có nhưng không chú trọng đến việc nuôi dưỡng, bồi đắp tình cảm cho con cái. Như thế sẽ khiến cho con cái cảm thấy mình không được coi trọng, không được quan tâm đến , chúng sẽ không muốn về nhà- nơi mà không có sự yêu thương. Những người cha, người mẹ cho rằng tiền có thể mua được tất cả.Nhưng họ hoàn toàn đã nhầm càng có nhiều tiền mà không có tình yêu thương thì con cái họ sẽ càng trở nên xa đọa tinh thần hơn. Có những gia đình nghèo vật chất nhưng lúc nào mọi người trong gia đình cũng đều cảm thấy vui vẻ, đầy đủ. Hạnh phúc là khi ta trở về luôn có những người mà ta yêu thương mở rộng vòng tay đón ta về. Hạnh phúc là khi chúng ta có một mái ấm ngập tàn tình thương. Hạnh phúc khi ta có nhà để về, có những người để yêu thương. Để ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi có nhà, có gia đình thì những người thân hay cả xã hội hãy cho họ một ngôi nhà thật đúng nghĩa. Ngay cả những đứa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa thì xã hội đã có những trại trẻ mồ côi, viện dưỡng lão- những nơi có thể giúp họ hòa nhập với mọi người. Đến xã hội những người không quen biết còn có thể cho họ được có nhà, có gia đình. Vậy thì sao những người trong một gia đình lại không thể cho nhau một gia đình đúng nghĩa? Ông bà, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cháu nên người. Con cháu có nghĩa vụ hiếu thảo, kính trọng ông bà, cha mẹ; phụng dưỡng ông bà, cha mẹ khi già yếu.

Bên cạnh những tấm gương tốt về lòng hiếu thảo thì còn có những đứa con bất hiếu, không nghe lời. Vậy hạnh phúc là khi ta có nhà, có gia đình một cách đúng nghĩa. Ở đó giúp ta phát triển không chỉ về thể chất, mà còn cả về tâm hồn của chúng ta; Ở đó định hướng cho ta về sự phát triển của tâm hồn. Nhà, gia đình giúp ta trút bỏ những gánh nặng, lo toan phiền muộn của cuộc sống; giúp ta có thể tâm sự, chia sẻ những buồn vui của cuộc sống. Cảnh gia đình sum vầy, quây quần bên nhau đây cũng là đề tài của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ… Nhưng ý nghĩa của nó còn to lớn hơn thế. Vậy bạn đã có cả hai thứ ấy, đã có được hạnh phúc chưa? Và có biết phải làm thề nào để có được hạnh phúc không? Theo tôi nghĩ đó là tùy theo cách hiểu, cách nghĩ và cách thể hiện của mỗi người là không giống nhau. “… Đường tương lai nhiều chông gai và những lúc gian nan làm con ngã quỵ , để con nhớ rằng nơi ấy luôn có một góc bình yên luôn có mẹ cha chờ con tìm về”. Như thế mỗi chúng ta luôn có một góc bình yên của riêng mình. Các bạn hãy giữ hạnh phúc và một góc bình yên của mình bạn nhé!

4 tháng 12 2016

Cảnh sắc mùa xuân Hà Nội.

- Cảnh sắc của đất trời.

+ Màu sắc: Màu sông xanh, núi tím đắm say mộng ước.

+ Đường nét: Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, đường sá không lầy lội, cái rét ngọt ngào.

+ Âm thanh: Tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo, ấn tượng nhất là tiếng hát huê tình của cô gái đẹpnhư thơ mộng.

- Cảnh xuân tron người.

+ Nghi lễ đón xuân: Nhang trầm, đèn nến trên bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên.

+ Không khí gia đình: Đoàn tụ êm đềm trên kính dưới nhường.

+ Lòng người ngày xuân: Thấy ấm lạ lùng, vui như mở hội liên hoan.

= > Đó là những nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của con người là nét văn hóa truyền thống của thủ đô Hà Nội, của người Việt Nam.

Chúc bn hc tốt ! ^^

4 tháng 12 2016

Trong đoạn văn từ “Tôi yêu sông xanh, núi tím” đến “mở hội liên hoan”, cảnh sắc và không khí mùa xuân Hà Nội và miền Bắc đã được gợi tả qua nhiều chi tiết. Trước hết, tác giả đã gợi tả được cái đặc trưng của thời tiết và khí xuân miền Bắc với “mưa rêu rêu, gió lành lạnh”, như từ mùa đông còn vương lại, nhưng lại có cái ấm áp, tràn ngập của khí xuân, hơi xuân. Những âm thanh như tiếng nhạn kêu, tiếng trống chèo, những câu hát huê tình,…hoà quyện trong làn hương ấm áp của nhang trầm, đèn nến, nhất là cái ấm áp toả ra từ không khí gia đình đoàn tụ…Tất cả gợi lên một nét hương sắc không thể nào phai trong tâm hồn của người xa xứ.

21 tháng 3 2022

- PTBĐ: nghị luận

- ND chính: Văn bản bàn luận về vấn đề sự chia sẻ những chiếc khẩu trang miễn phí trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp.

- Bản thân em cần có ý thức phòng chống dịch cho bản thân, tuân thủ 5K, tuyên truyền người thân có ý thức phòng chống dịch bệnh...

- TN: Tại các công viên hay khu tập trung công cộng => TN chỉ nơi chốn

8 tháng 5 2021

làm bạn với mình ko

 

9 tháng 5 2021

haha

21 tháng 2 2022

e tk:

https://vietjack.com/van-mau-lop-7/images/so-do-tu-duy-duc-tinh-gian-di-cua-bac-ho-a01.PNG

23 tháng 11 2018

Lòng yêu nước là một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học Việt Nam. Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai thác thể hiện lòng tự hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta có thể kể đến các tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,... Và không thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Trích đoạn sau đây của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của tác giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
....
Chứng có còn ghi".

Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu nàm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt hoạ đô hộ cùng những chính sách dã man, những hành động tàn bạo mà giặc Minh gây ra cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn; những nỗi đau mà dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước và giương cao lòng nhân nghĩa trong nhân gian.

Nếu “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” chính là đoạn trích thể hiện rỏ nhất nội dung tuyên ngôn ấy.

Mở đầu đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Điều ấy có nghĩa là việc nhân nghĩa trên đời cốt ở việc giữ sự bình yên cho dân chúng, quân đội binh lính việc trước tiên là lo trừ bạo, trừ giặc cho dân. Hai câu văn ấy đã khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc “dĩ dân vi bản” đầy tiến bộ. Trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, tư tưởng nhân nghĩa thường bó hẹp trong cách hiểu là làm điều thiện giúp đỡ người khác. Như trong “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, việc nhân nghĩa là việc cứu người bị nạn: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư cứu Lục Vân Tiên... “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng - nhà vua Lê Lợi, ông đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng, bản chất của nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến. Song trong trích đoạn này, Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả nhất của quân đội là “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng ấy chi có thể có ở một bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.

Và cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi có một lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả bài thơ “thần” đã khẳng định nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh thổ, đất,đai và bộ máy quyển lực. Nay, Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

“Nước Đại Việt ta từ trước” đã vốn có nền văn hiến từ lâu. Văn hiến là những giá trị tinh thần mà con người đã sáng tạo ra, đó là tín ngưỡng, là tư tưởng, là đạo đức... Phải là một dân tộc có bề dày lịch sử, có trí tuệ, có chiều dài phát triển lâu bền mới xây dựng được cho mình một nền văn hiến riêng biệt. Nói cách khác, văn hiến là dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ có sự riêng biệt về nền văn hiến của dân cư, xét về cương vị lãnh thổ nước ta cũng có biên giới riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu văn này gợi đến cái hồn của câu thơ “thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách trời”. Núi sông bờ cõi và cương vực lãnh thổ của đất nước đã được phân chia rạch ròi trong lịch sử, trong tiềm thức của mỗi người dân hai quốc gia. Và chính điều tâm niệm thiêng liêng ấy đã tạo nên ý thức xây dựng, bảo tồn, phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai đất nước: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Phong tục tập quán là những thói quen trong đời sống, sinh hoạt đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. Có thể nói, cùng với nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán đã cùng góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.

Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự độc lập về bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó khẳng định vị thế ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ “đế” trong câu thứ hai “mỗi bên xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”. Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình là “thiên tử” (con trời), họ tự xưng “đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài cáo này, Nguyễn Trãi đầy tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng là “đế” sánh ngang hàng với vua chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hề có quan hệ nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm. Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước ta lên trước. Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc: nó khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả nói riêng và mỗi người Việt Nam nói chung.

Bên cạnh những ông vua hiền và các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta cũng có những anh tài hào kiệt. Dù rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi cũng không phóng đại những ưu điểm và không giấu giếm những giai đoạn suy thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người nghe về những yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền độc lập thiêng liêng ấy mà mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân vì đất nước và dẫu kẻ thù có mạnh đến đâu cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ linh thiêng...

Bởi vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”

Những dẫn chứng cụ thể của đoạn trích về những thất bại của giặc đanh thép như một bản cáo trạng. Hàng loạt tên của giặc được liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã liền theo đó là những địa danh lẫy lừng gắn với thất bại thê thảm của giặc và cũng là chiến thắng vang dội của ta: cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có nhịp câu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn và đanh hơn; các câu lại đối nhau rất chặt “Lưu Cung” - "Triệu Tiết", "tham công” - "thích lớn", "nên thất bại" - "phải tiêu vong", "Cửa Hàm Tử" - "Sông Bạch Đằng", "bắt sống Toa Đô” - "giết tươi Ô Mã",... Những yếu tố đó khiến đoạn văn giống như lời cảnh cáo đối với những âm mưu xâm lược của kẻ thù đồng thời nêu cao niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông.

Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn lòng yêu nước thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân đồng thời bày tỏ niềm tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị, tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm xúc của mỗi chúng ta về nơi mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành động lực để chúng ta phân đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.

23 tháng 11 2018

hình như sai bài đó về chủ đè khác bn ơi

6 tháng 10 2021

Câu 1

(1) từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ

(2) từ ghép chính phụ

(3) từ ghép đẳng lập

(4) phân nghĩa

(5) hợp nghĩa

Câu 2

từ ghép chính phụ: áo lặn, bình hơi, đáy biển, cá biển, cá vẹt, cá bướm, cá đuối, vàng xám, đen nhạt, cá heo, tròn xoe

từ ghép đẳng lập: mờ ảo, màu sắc, to lớn, dẹt mỏng

(Mình có lẻ thiếu hoặc sai ở câu 2)

6 tháng 10 2021

Mik cảm ơn bn nha, tiếc quá vì mik bt rùi !

4 tháng 4 2022

Vì miền Bắc viện trợ sức người , đồ ăn thức uống , tinh thần cho những người ra trận, chiến sĩ ở chiến trường miền Nam.