K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 12 2018

Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!Việt nam vô địch!!!

Thật tự hào !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Đề 1:    “Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lại lên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ. Thần giúp dân diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh những loài yêu quái làm hại dân lành. Thần dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở....
Đọc tiếp

Đề 1:

   “Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lại lên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ. Thần giúp dân diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh những loài yêu quái làm hại dân lành. Thần dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. Xong việc,  thần  thường về thủy cung với mẹ, khi có việc cần thần mới hiện lên.   

  Bấy giờ ở vùng đất cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng bèn tìm đến thăm. Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu nhau rồi trở thành vợ chồng, cùng chung sống ở trên cạn ở cung điện Long Trang.

   [...]

     Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô [5] ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Triều đình có tướng văn, tướng võ, con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mị nương, khi cha chết thì được truyền ngôi cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi vua đều lấy danh hiệu Hùng Vương, không hề thay đổi.

      Cũng bởi sự tích này mà về sau, người Việt Nam ta con cháu vua Hùng, thường nhắc đến nguồn gốc của mình là con Rồng cháu Tiên.”   

                                      (Trích truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên) 

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?

Câu 2: Lạc Long Quân đã có những hành động nào để giúp dân?

Câu 3: Lời kể nào trong đoạn truyện có hàm ý rằng câu chuyện đã thực sự xảy ra trong quá khứ? Nhận xét về ý nghĩa của lời kể đó?

Câu 4: Em thấy mình có trách nhiệm gì trong cuộc sống để bảo vệ và phát huy nguồn gốc cao quý của dân tộc?

 

Đề 2:

“Sau khi đuổi sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi, lên làm vua được khoảng một năm, một hôm Lê Lợi cưỡi thuyền rồng quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền tiến ra giữa hồ, thì tự nhiên có một con rùa to lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng đang động đậy. Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu cao lên nữa và tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói:

       - Bệ hạ hoàn gươm lại cho Long quân! Nghe nói thế, nhà vua bỗng hiểu ra, bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao, cung kính cảm tạ thần linh. Chỉ một lát,  thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Cho đến khi cả gươm và Rùa đã chìm sâu xuống nước, người ta vẫn còn thấy vệt sáng le lói dưới mặt  hồ xanh.

     Khi thuyền của bá quan tiến kịp thuyền rồng, vua liền báo ngay cho họ biết:

      - Đức Long Quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai Rùa lấy lại.    

       Từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.”         

                                                                                       (Trích Sự tích Hồ Gươm)

Câu 1. Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần trong hoàn cảnh nào?

Câu 2. Em hiểu gì về tên gọi hồ Hoàn Kiếm?

Câu 3. Nêu ý nghĩa của hình ảnh vệt sáng le lói dưới mặt  hồ xanh sau khi cả gươm và Rùa đã chìm sâu xuống nước.

Câu 4. Có một du khách nước ngoài đến Việt Nam và muốn tìm hiểu về Hồ Gươm. Nếu em là hướng dẫn viên cho du khách đó thì em sẽ giới thiệu những điều gì về địa danh này?

Đề 3 :“Vào thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác. Thấy vậy, đức Long quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc”.

                                                                                                       (Trích Sự tích Hồ Gươm)

Câu 1. Xác định ngôi kể của đoạn trích.

Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn trích.

Câu 3. Tìm những chi tiết liên quan đến sự thật lịch sử có trong đoạn văn trên? Những chi tiết ấy có ý nghĩa gì với câu chuyện được kể?

Câu 4: Việc giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ Gươm gắn với cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống giặc Minh nói lên điều gì?

0
Năm 2020 là một năm đã xảy ra vô số chuyện khiến cho đất nước Việt Nam và thế giới , đã phải chịu nhiều đau thương. Năm 2020 ở miền Trung đã phải hứng chịu một cơn bão lớn gây ra nhiều thiệt hại về người , tài sản .Tiếp theo trận lũ ấy là một trận đại dịch viêm đường hô hấp ( hay còn gọi là Covid 19). Đã lấy đi hàng triệu sinh mạng của nhiều người trong đó Việt Nam là số ít và thế...
Đọc tiếp

Năm 2020 là một năm đã xảy ra vô số chuyện khiến cho đất nước Việt Nam và thế giới , đã phải chịu nhiều đau thương. Năm 2020 ở miền Trung đã phải hứng chịu một cơn bão lớn gây ra nhiều thiệt hại về người , tài sản .Tiếp theo trận lũ ấy là một trận đại dịch viêm đường hô hấp ( hay còn gọi là Covid 19). Đã lấy đi hàng triệu sinh mạng của nhiều người trong đó Việt Nam là số ít và thế giới là số nhiều. Nó gây ra vô số triệu chứng như ho khan , sốt cao hoặc khó thở và còn nhiều triệu chứng khác, nhiều người cứ nghĩ đó là cảm thông thường nhưng khi xét nghiệm thì đã quá muộn vì vậy khi có những triệu chứng trên thì mình phải đi khám để phòng bệnh Covid 19. Trách nhiệm của em là phải thực hiện đúng theo quy định 5k do bộ y tế đưa ra , không tập trung quá 10 người , ra đường phải đeo khẩu trang về nhà phải rửa tay thật sạch sẽ,hạn chế ra đường khi không cần thiết . Và chúng ta hãy cùng đẩy lùi dịch bệnh và gửi những lời động viện đến những vị bác sĩ trực ở tuyến đầu của dịch bệnh , hãy động viên để họ có thêm sức mạnh để chóng lại dịch bệnh.

Hãy chỉ ra mối quan hệ ý nghĩa các vế trong câu ghép mà em tìm được.

Hãy gạch chân và chỉ ra các câu đó.

0
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: "Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết vô đạo". Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hỏng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, nghi thường. Chúa tầm thường, thầm...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi: "Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết vô đạo". Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hỏng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, nghi thường. Chúa tầm thường, thầm nịnh hót. Nước mất, nhà tam đều do những điều tệ hại ấy

Câu 1:Đoạn trích trên trích từ văn bản nào?Viết theo thể gì?Câu 2:Người đường thời gọi Nguyễn Thiếp là gì?Câu 3:Quan niệm của Nguyễn Thiếp về mục đích chân chính của việc họcCâu 4:Nội dung ý nghĩa của câu"Người ta đua nhau lối học hình thức cầu hòng cầu danh lợi,không còn biết đến tam cương,ngũ thường?Câu 5:Tác hại lớn nhất của những lối học mà tác giả phê phán?Câu 6:Câu "Ngọc không mài,không thành đồ vật,người không học,không biết rõ đạo"thuộc kiểu câu nào?
1
25 tháng 4 2023

1. Được trích từ văn bản: ''Bàn về phép học'' thể tấu

2. Gọi là: ''La Sơn Phu Tử''

3. Học phải đi đôi với hành. 

4. Tác giả phê phán lối học hình thức, không chịu đào sâu mà chỉ học để lấy lợi lộc

5. ''Không biết đến tam cương, ngũ thường'', ''không biết rõ đạo''

6. Câu nghi vấn

18 tháng 4 2020

MÌnh chịu luôn nhưng có lẽ có bạn nào đó biết rồi sẽ giúp bạn đấy mình đoán thế . 

hok tốt nha

Bài 1: Cho khổ thơ:Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,Đối thử lương tiêu nại nhược hà?Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,Nguyệt tòng song khích khán thi gia.1, Bài thơ trích trong tập thơ nào? Tác giả là ai? 2, Chọn và giải thích hai yếu tố Hán Việt trong khổ thơ 3, Chỉ ra câu nghi vấn trong đoạn thơ và nêu tác dụng 4, Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ em vừa chép.Bài 2: Đọc đoạn thơ sau và trả lời...
Đọc tiếp

Bài 1: Cho khổ thơ:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

1, Bài thơ trích trong tập thơ nào? Tác giả là ai?

2, Chọn và giải thích hai yếu tố Hán Việt trong khổ thơ

3, Chỉ ra câu nghi vấn trong đoạn thơ và nêu tác dụng

4, Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ em vừa chép.

Bài 2: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày

...Non xanh nước biếc tha hồ dạo

Rượu ngọt chè tươi mặc sức say...

( Cảnh rừng Việt Bắc - Hồ Chí Minh )

Những lời thơ trên gợi em nhớ tới bài nào đã học trong chương trình văn 8. Hãy chép lại chính xác bài thơ đó. Ghi rõ thời gian sáng tác.

1
20 tháng 4 2021

1.Bài thơ được trích trong tập thơ"Nhật ký trong tù".Tác giả Hồ Chí Minh

5 tháng 5 2020

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” - một câu nói thật giản dị của Bác Hồ, nhưng từ lâu đã trở thành lẽ sống, phương châm sống và khẩu hiệu hành động của Đảng ta, dân tộc ta.

 

Tư tưởng đoàn kết đến với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khá sớm. Ngay từ những năm 1920, khi còn đang bôn ba hoạt động tìm đường cứu nước ở nước ngoài, trong nhiều bài báo, bài nói chuyện, Người đã kêu gọi tinh thần đoàn kết giữa người lao động ở các nước chính quốc với quần chúng nhân dân ở các nước thuộc địa. Lời kêu gọi đã dần dần thức tỉnh những người cộng sản, những người dân chủ ở các nước quan tâm nhiều hơn đến phong trào giải phóng dân tộc ở những nước đang bị chế độ thực dân xâm chiếm.

Kể từ khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh càng có điều kiện hiểu sâu hơn giá trị của tinh thần đoàn kết. Những ai nghiên cứu về lịch sử văn hóa Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước, đều không xa lạ với câu chuyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra 100 trứng. Từ “bọc trứng” đó sản sinh ra hàng triệu, hàng chục triệu người Việt Nam sau này. Từ đó, trong ngôn ngữ Việt Nam, từ xa xưa đã xuất hiện hai tiếng “đồng bào”. Đồng bào có nghĩa là cùng chung một bọc trứng (đồng = cùng, bào = bọc). Hai tiếng “đồng bào” từ xa xưa vốn đã mang ý nghĩa một thông điệp cực kỳ quan trọng: những người Việt Nam chúng ta, dù sinh sống ở đâu, ở trong hay ngoài nước, ở vùng đồng bằng hay rừng núi, hải đảo đều có chung một cội nguồn, một sự gắn bó máu thịt với nhau. Tất cả chúng ta đều có chung một bà mẹ. Tất cả chúng ta đều là những phần tử từ bọc trứng của mẹ Âu Cơ. Có lẽ Hồ Chí Minh là người hiểu sâu sắc nhất ý nghĩa to lớn của tinh thần đoàn kết và phổ biến sâu rộng chân lý đó trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.

Ngay khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, cùng với rất nhiều hoạt động thực tiễn nhằm tuyên truyền tổ chức lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã dành thời gian để viết cuốn “Lịch sử nước ta” bằng thơ. Chắc chắn đây không phải là công việc dễ dàng, vì đòi hỏi ở tác giả một vốn kiến thức phong phú và hệ thống về lịch sử dân tộc. Một tập thơ ngắn, chưa đầy 250 dòng, nhưng đã thâu tóm được toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước đến các phong trào cách mạng đầu thế kỷ XX. Đây là một hành động vô cùng cần thiết để tổ chức và huấn luyện, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng lúc bấy giờ. Tư tưởng chủ đạo của tập “diễn ca” “Lịch sử nước ta” là cùng với chủ nghĩa yêu nước, dân tộc ta đã sớm phát huy tinh thần đoàn kết (đoàn kết trong các triều đại phong kiến, đoàn kết toàn dân, và quan trọng nhất là sự đoàn kết chung sức chung lòng giữa những người lãnh đạo đất nước với toàn thể nhân dân). Đồng thời cho thấy, thời kỳ nào mà triều đình phong kiến quay lưng lại với nhân dân, thì tất yếu khối đoàn kết dân tộc bị lỏng lẻo và thời kỳ đó đất nước, nhân dân - đồng bào thường bị lâm vào cảnh bị áp bức bóc lột. Hồ Chí Minh viết:

“Kể gần sáu trăm năm giời
Ta không đoàn kết bị người tính thôn”.

Có thể dẫn thêm một số ví dụ từ “Lịch sử nước ta” của Bác Hồ về sự thắng - bại liên quan đến tinh thần đoàn kết, như: Thời Mai Hắc Đế, dù rất thương dân bị lầm than đau khổ, Mai Hắc Đế đã lãnh đạo cuộc chiến tranh chống xâm lược Tàu, nhưng:

“Vì dân đoàn kết chưa sâu
Cho nên thất bại trước sau mấy lần”.

Trái lại, đến đầu thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, nhân dân ta đã “cùng nhau một lòng” giành được những chiến công rực rỡ:

“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm giặc Tàu
Ông đà chí cả mưu cao
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng
Cho nên Tàu dẫu tàn hung
Dân ta vẫn giữ non sông một nhà…”.

Nói là tổng kết lịch sử, nhưng thực chất là rút ra những bài học lớn mà cha ông để lại. Trong hoàn cảnh những năm đầu của cách mạng, bài học lớn nhất của lịch sử, theo Bác Hồ là bài học về tính cộng đồng, về tinh thần đoàn kết. Chính vì vậy, kết thúc tập thơ “Lịch sử nước ta”, Người viết:

“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
… Dân ta xin nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.

Khám phá ra những bài học lịch sử của quá khứ là để hiểu những thông điệp, những lời truyền dạy của tổ tiên. Tinh thần đó được thể hiện rất rõ trong dịp Trung ương và quân đội ta trở về tiếp quản Thủ đô (1954). Khi Bác Hồ cùng Đại đoàn Quân Tiên phong dừng chân tại Đền Hùng (Phú Thọ), tại đây Người nói một câu bất hủ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Có thể coi đó là lời thề thiêng liêng của Bác, của cả dân tộc trước anh linh tổ tiên. “Công dựng nước” mà Bác nói ở đây không chỉ có ý nghĩa tạo lập nên giang sơn đất nước, mà còn có ý nghĩa tạo ra sức sống và hồn cốt của dân tộc. Vì vậy, “giữ lấy nước” mà Người nói cũng có nghĩa phải giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc, đồng thời, phải giữ cho được những đạo lý làm người Việt Nam mà tổ tiên ta đã dày công vun đắp.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta lại phải đương đầu với các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống xâm lược của đế quốc Mỹ. Đó là các cuộc chiến tranh hoàn toàn không cân sức. Về phương diện kinh tế, vũ khí, đất nước ta thua xa đối phương. Trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc trong những ngày đầu kháng chiến, trong các bài phát biểu của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết. Chính câu nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được Người nói ra trong thời kỳ gian lao nhất của cách mạng, của dân tộc. Bằng cảm nhận thực tế một cách sâu sắc, Người đã phát hiện ra một số biểu hiện đáng lo ngại trong nhân dân, trong cán bộ và cả trong quân đội. Tuy chưa thật phổ biến, nhưng rõ ràng những hiện tượng “dao động”, “phân tâm”, “mơ hồ” đó sẽ làm suy yếu tinh thần cách mạng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và quân đội. Vì vậy để diễn đạt đầy đủ tư tưởng của mình, Người nhấn đi nhấn lại 3 lần chữ “đoàn kết” và cũng nhấn 3 lần chữ “thành công”. Có đoàn kết thì sẽ thành công và muốn thành công thì trước hết phải đoàn kết. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó. Ngoài yêu cầu phải đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh còn luôn nhấn mạnh đến đoàn kết giữa nhân dân và quân đội; đoàn kết giữa nhân dân với cán bộ, đảng viên; đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, các tổ chức Đảng và Nhà nước.

Ngoài ra, ở thời đại Hồ Chí Minh, mối liên hệ giữa các quốc gia dân tộc không ngừng mở rộng. Sự liên kết quốc tế giữa các quốc gia đã hình thành. Chính xuất phát từ đó, chữ “đại đoàn kết” mà Bác Hồ dùng ở đây còn có ý nghĩa mới: đoàn kết giữa dân tộc ta, cuộc kháng chiến của chúng ta với lương tri ở mọi quốc gia trên thế giới. Tư tưởng đoàn kết của Bác đã nhanh chóng trở thành động lực của các cuộc kháng chiến và cũng là động lực trong xây dựng đời sống mới, trong các quan hệ xã hội mới trên đất nước ta.

Tư tưởng đoàn kết của Người cũng đã tạo nên một luồng sinh khí mới trong đời sống văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Hàng loạt các tác phẩm thuộc các loại hình thơ, ca, văn xuôi, kịch, báo chí… của những văn nghệ sĩ tiêu biểu đã góp phần thắp sáng tư tưởng lớn của Bác. Hình ảnh cán bộ với nhân dân, quân đội với nhân dân được thể hiện một cách hấp dẫn như “cá với nước”. Một trong những thành công về phương diện này phải kể đến các tác phẩm như bài thơ “Bộ đội về làng” của Hoàng Trung Thông, bài hát“Tấm áo mẹ vá năm xưa” của Nguyễn Văn Tý... Những bài thơ, bài ca của thời kỳ lịch sử đó, cho đến nay vẫn in đậm trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu người Việt Nam. Những thiên phóng sự về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của các nhà văn, nhà báo, học giả đến từ nước ngoài, đã minh chứng cho sự thắng lợi - thành công gắn liền với tư tưởng đại đoàn kết của Bác Hồ.

Ngày nay cùng với sự xuất hiện nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, bên cạnh nhiều thuận lợi giúp đất nước phát triển nhanh chóng, dân tộc ta cũng phải đương đầu với không ít thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Trong lịch sử cách mạng nước ta, có lẽ chưa có lúc nào chủ nghĩa cá nhân, đầu óc trục lợi lại xuất hiện khá phổ biến như hiện nay. Đáng chú ý, nhiều tính toán ích kỷ, xấu xa, sẵn sàng “bán rẻ linh hồn cho quỷ sứ” đã và đang xuất hiện trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đó có những cán bộ ở cấp cao, cấp chiến lược.

Khi một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thì sự suy thoái đó sẽ như những “vi rút độc” tìm cách thâm nhập, lan rộng vào những người thiếu “sức đề kháng”, bao gồm cả cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nếu “vi rút” này không được ngăn chặn hữu hiệu, thì nguy cơ đầu tiên - nguy cơ của mọi nguy cơ - mà chúng ta phải nhận chính là sự suy giảm niềm tin - mất đoàn kết - thiếu thống nhất trong Đảng, giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng.

Hồ Chí Minh từng nhiều lần phê phán thái độ “làm quan cách mạng” của một số cán bộ Đảng và Nhà nước, phê phán tư tưởng bè phái trong một số thôn xã, phê phán việc phân biệt các sắc tộc - chủng tộc, phê phán hiện tượng một số cán bộ quân đội còn làm phiền hà nhân dân… Đó là những nguyên nhân làm ảnh hưởng, suy thoái tinh thần đoàn kết của nhân dân.

Ngay từ 1969, khi hoàn thành bản Di chúc lịch sử, Bác Hồ đã yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên “phải giữ gìn sự đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Câu nói đó của Người chắc chắn có nguồn gốc từ một thực tế lúc bấy giờ, tuy rằng thực tế đó chưa trở thành một hiện tượng xã hội lớn. Nhưng, như trên đã nói, sự xuất hiện kinh tế thị trường và hậu quả từ mặt trái của nó, sẽ là “cái bẫy” của “xã hội tiêu dùng vật chất” khiến không ít người lao vào tiền bạc, tiện nghi, thậm chí trác táng trong lối sống. Đối với họ, các khái niệm “hy sinh”,  “lý tưởng”, “đầy tớ của dân” đã trở nên xa lạ. Trước tình hình đó, từ sau Đổi mới, Đảng ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đích thân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chỉ đạo hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng… Các nghị quyết gần đây của Đảng đã khẳng định chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không đội trời chung với đạo đức cách mạng. Đảng yêu cầu các tổ chức đảng, các cơ quan pháp luật phải nghiêm trị những cán bộ, đảng viên suy thoái, tự diễn biến… bất cứ họ là ai, ở cương vị nào, đương chức hay đã nghỉ hưu. Tinh thần và nội dung của các nghị quyết gần đây của Đảng trong công cuộc chống tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang từng bước góp phần làm trong sạch Đảng, nâng cao đạo đức của người cán bộ. Từ đó, Đảng sẽ từng bước thực hiện bằng được lời dạy của Bác: phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Khi sự đoàn kết thực sự trong Đảng được củng cố thì trí tuệ của Đảng, trái tim của Đảng sẽ trở nên trong sáng. Sự trong sáng đó sẽ tỏa ánh sáng trong đời sống quần chúng nhân dân. Chỉ khi đó đất nước chúng ta mới có đủ các điều kiện phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ từng mong muốn. Và cũng chỉ khi đó mỗi người Việt Nam mới có đủ điều kiện, toàn tâm toàn ý thực hiện lời kêu gọi của Người:

“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau”./.

5 tháng 5 2020

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta lại phải đương đầu với các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống xâm lược của đế quốc Mỹ. Đó là các cuộc chiến tranh hoàn toàn không cân sức. Về phương diện kinh tế, vũ khí, đất nước ta thua xa đối phương. Trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc trong những ngày đầu kháng chiến, trong các bài phát biểu của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết. Chính câu nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được Người nói ra trong thời kỳ gian lao nhất của cách mạng, của dân tộc. Bằng cảm nhận thực tế một cách sâu sắc, Người đã phát hiện ra một số biểu hiện đáng lo ngại trong nhân dân, trong cán bộ và cả trong quân đội. Tuy chưa thật phổ biến, nhưng rõ ràng những hiện tượng “dao động”, “phân tâm”, “mơ hồ” đó sẽ làm suy yếu tinh thần cách mạng trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và quân đội. Vì vậy để diễn đạt đầy đủ tư tưởng của mình, Người nhấn đi nhấn lại 3 lần chữ “đoàn kết” và cũng nhấn 3 lần chữ “thành công”. Có đoàn kết thì sẽ thành công và muốn thành công thì trước hết phải đoàn kết. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó. Ngoài yêu cầu phải đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh còn luôn nhấn mạnh đến đoàn kết giữa nhân dân và quân đội; đoàn kết giữa nhân dân với cán bộ, đảng viên; đoàn kết trong nội bộ các cơ quan, các tổ chức Đảng và Nhà nước.

11 tháng 1

Tham Khảo 
Hà Nam quê tôi-một vùng đất sơn thủy hữa tình.Nơi đây nổi tiếng vs nhiều dãy núi đá vôi rêu phong,với các thảm rừng xanh soi mình xuốg sông Đáy cùng những thắng cảnh đẹp đẽ như:hồ Tam Trúc,Ngũ Động Sơn,hang Luồn-ao Dong,Kẽm Trống,Bát Cảnh sơn,núi Ngọc,động Phúc Long...Huyện Kim Bảng,Thanh Liêm là nơi có những dãy đồi bát úp xen kẽ các thảm rừng xanh ngắt,khiến chúng ta có cảm tưởng đang đc chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên to lớn mà tạo hóa ban tặng .Hà Nam đặc biệt có 4 huyện có nhữg ngọn núi nằm gần các bờ sông tạo cho Hà Nam có nhiều biểu tượng thiên nhiên như sông Châu - núi Đọi<Duy Tiên>,sông Ninh-núi Quế<Bình Lục>,sông Đáy-núi Cấm<Kim Bảng>,sông Đáy-núi Thiên Kiệm<Thanh Liêm>.Ko những thế,đất mẹ Hà Nam còn là vùng địa linh nhân kiệt,phát tích cho đất nước rất nhiều nhân tài như:Nguyệt Nga,Quỳnh Chân,Thiên Công,Vực Công,Đinh Lôi,Cao Thị Liên....Ôi ,tự hào biết bao❕Nếu có thể,các bạn hãy đến thăm Hà Nam quê tôi để có những hiểu biết thêm về con người và thắng cảnh nơi đây bạn nhé.

11 tháng 1

⚠!!!Tham khảo!!!⚠

Hà Nam theo cách mô tả rất hình ảnh của các nhà sử học là vùng đất nằm lọt giữa bốn dòng sông lớn, vùng đất có lịch sử lâu đời, lưu giữ nhiều trầm tích văn hóa tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng. Nói đến Hà Nam là nói đến mảnh đất qua nhiều triều đại phong kiến tự chủ luôn gắn bó khăng khít, là một phần của Đại La thành, Hà Nội. Hà Nam còn được biết đến là vị trí tâm điểm của một vòng tròn khép kín các kinh đô, cố đô và đô thị cổ nổi tiếng. Có lẽ bởi sự độc đáo về hình thái địa lý ấy nên dưới chế độ quân chủ, Hà Nam luôn được chọn làm căn cứ tụ nghĩa, luyện binh, tích trữ lương thảo cho nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Hà Nam tự hào có những người con trung liệt, những công tích hiển hách lưu danh muôn đời cùng lịch sử dựng nước, giữ nước, như thời Vua Hùng dựng nước có Thiện Công, Vực Công đứng lên đánh giặc Ân, bảo vệ bờ cõi Văn Lang, những năm đầu Công nguyên có các Nữ tướng Cao Thị Liên, Quỳnh Chân, Nguyệt Nga cùng hàng chục nữ tướng nổi danh dấy binh, tụ nghĩa dưới cờ Hai Bà Trưng. Hà Nam còn được biết đến là miền "đất lành" được Đại Hành Hoàng đế Lê Hoàn chọn làm nơi Tịch điền, mở đầu một phong tục đẹp - coi trọng khuyến nông. Những trầm tích văn hóa đặc sắc, những “kỳ tích” đổi thay cùng những khát vọng vươn tới tương lai đó chính là sự kết tinh từ bề dày truyền thống lịch sử, văn hiến và cách mạng của dải đất sông Châu - núi Đọi, kết tinh từ niềm tự hào, tự lực, tự cường, từ bàn tay, khối óc cùng một quá trình nỗ lực kiên trinh không mệt mỏi của nhiều thế hệ người dân quê hương Hà Nam yêu dấu.

(Link liên kết: https://baohanam.com.vn/que-huong-nui-doi-song-chau/tu-hao-manh-dat-con-nguoi-ha-nam-42247.html)

13 tháng 5 2018

nước vô tình triệu năm không tắm

mây vô tình mây bay mãi chẳng ngưng

trăng vô tình trăng giỡn mặt với gió 

người vô tình có chó mới thương

theo em bài thơ dzô cùng sâu sắc