K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

a, - Trạng ngữ: Nay

  -  Chủ ngữ: Ta, Nàng

  - Vị ngữ: Đưa năm mươi con xuống biển, Đưa năm mươi con lên núi, Chia nhau cai quản các phương

b, - Chủ ngữ 1: Bánh hình tròn 

   - Chủ ngữ 2: Ta

  - Vị ngữ 1: Là tượng trưng trời

   - Vị ngữ 2: Đặt tên là bánh dày

c, - Chủ ngữ: Lang Liêu

   - Vị ngữ: Người buồn nhất

( Mk ko chắc bài lm của mk 100% đâu, nếu sai mong bn thông cảm! )

Các bạn ơi truyện bánh chưng, bánh giầy mik nêu ý ngĩa như thế này:Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng...
Đọc tiếp

Các bạn ơi truyện bánh chưng, bánh giầy mik nêu ý ngĩa như thế này:

Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếpđậu xanhthịt lợnlá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch).

 

Bánh giầy (có người viết sai[1][2] thành bánh dầy hay thậm chí bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn.

Bánh có thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày giổ tổ Vua Hùng).

Cùng với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.[3]

Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như Tày, Mường cũng có bánh giầy; tuy rằng họ không gói bánh chưng. Thay cho bánh chưng, họ gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.

VẬY CÒN CÁCH NÓI VỀ Ý NGHĨA CỦA NÓ NÀO KHÁC KHÔNG?lolang

 

3
26 tháng 9 2016

 Không còn cách giải thích nào khác nhưng nếu có thể tóm tắt các ý trên thành với nhau thì sẽ mang lại ý nghĩa sâu sắc hơn.

20 tháng 11 2016

Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch).

Bánh giầy là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn.

Bánh có thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày giổ tổ Vua Hùng).

Cùng với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.[3]

Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như Tày, Mường cũng có bánh giầy; tuy rằng họ không gói bánh chưng. Thay cho bánh chưng, họ gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.

 
30 tháng 8 2018


Trong tiếng Việt có một câu chúng ta mới nghe qua thì thấy nó có vẻ khá vô lý và ngộ nghĩnh, đó là câu thành ngữ “Mẹ tròn con vuông”.

Hàm ý “Một trường hợp sinh sản tốt đẹp bình thường, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh. Đứa nhỏ không bị dị tật gì. Một kết quả đúng như người ta trông đợi.” Câu thành ngữ này nếu đem dịch nguyên văn ra tiếng nước ngoài, nhất là các ngôn ngữ Tây phương sẽ rất khó truyền đạt được cái ý nghĩa “tốt lành” của nó đến người nghe. Đơn giản là vì người Tây phương họ không có chung nhiều khái niệm về văn hóa và triết lý với chúng ta. Đối với họ, “vuông tròn” không mang một ý nghĩa hảo hợp, nếu không nói là còn không dung nạp được nhau. Về phương diện kỷ hà học, đó là những hình thể khác hẳn nhau. Nếu đặt cạnh nhau chỉ gợi ra ý tương phản. Đặt vào nhau không khớp.

Trái lại, trong văn hóa Việt Nam, hai hình thể đó trong nhiều trường hợp đi đôi, gắn liền với nhau lại biểu thị cho một sự kết hợp thuận lẽ trời, và cho ra một kết quả tốt lành.

Vì sao vậy? Đương nhiên, điều nghịch lý đó phải mang một ý nghĩa tích cực có thể giải thích được. Nó phải bắt nguồn từ những khái niệm cơ bản xuất phát từ trong dân gian; được người đời chấp nhận như những yếu tố cấu thành tốt đẹp. Cái “thiện căn” ấy khi được kết hợp sẽ cho ra những thành tố thiện. Thật vậy, sinh hoạt văn hóa Việt ảnh hưởng sâu đậm của ba tôn giáo lớn hiện hữu từ lâu đời trong đời sống dân chúng. Ảnh hưởng của “Tam giáo” (Phật, Lão, Khổng) tiềm tàng trong nền nếp sinh hoạt, trong ngôn ngữ dân gian. Thấm vào da thịt, luân lưu trong huyết quản người Việt chúng ta. Tam giáo có tiến trình thâm nhập từ hàng ngàn năm. Lý nhân quả trong nhà Phật được chấp nhận như một tiền đề của nhiều quan niệm sống trong dân gian. Do đó, từ những nhân tố được thừa nhận là tốt đẹp dẫn đến thành tố tốt lành theo định luật nhân quả: Cây nào quả nấy, hay cha nào con nấy là điều tất nhiên.

Vậy thì khái niệm vuông tròn dựa trên cái gì để trở thành các yếu tố “cơ bản thiện” trong triết lý cũng như văn hóa Việt? Trước hết, tưởng không cần phải đi truy tầm đâu cho xa. Ta hãy lấy ngay những câu chuyện mô tả sinh hoạt văn hóa để tìm hiểu nguồn gốc những khái niệm cơ bản này. Chứng cứ đầu tiên có thể rút ra từ câu chuyện bánh chưng bánh dày. Sự tích mang tính lịch sử này rất nhiều người đã biết. Nó xuất phát từ câu chuyện một vị Vua Hùng, dòng vua đầu tiên của giống Việt. Câu chuyện kể lại việc nhà vua “ra đề thi” cho các con để chọn người kế vị. Một trong những người con, vốn cảnh nhà đạm bạc, không có cao lương mỹ vị để dâng vua cha, nên mới sáng chế ra hai thứ bánh chưng bánh dày để làm quà dâng cha mẹ. Hai thứ bánh đơn sơ và đầy tính dân dã ấy đã được nhà vua nhiệt liệt khen ngợi tán thưởng. Và ông hoàng bé được vua cha truyền ngôi. Dĩ nhiên để được vua cha chấp nhận, ông hoàng con phải mặc cho hai món bánh đơn sơ ấy một ý nghĩa nào đó mà vua cha nghe chẳng những “lọt tai” mà còn đồng ý là nó mang một ý nghĩa cao đẹp tuyệt vời mới mong được thừa nhận và truyền ngôi cho.
Ai cũng biết, bánh chưng có hình vuông, bánh dày hình tròn. Bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời. Theo quan niệm cổ, từ Đông sang Tây, người ta vẫn tin rằng trái đất là một phiến phẳng hình vuông. Còn trời là một cái quả tròn rỗng như cái chuông chụp lên cái phiến đất hình vuông, trong đó vạn vật gồm cả con người sinh sống. Theo quan niệm đó, khi ta đi bộ hay đi thuyền, nếu cứ đi mãi, có lúc người ta sẽ tới cùng trời cuối đất và rơi vào khoảng không vô tận. Trời đất là hai khái niệm đầu tiên về thế giới quan.

Chẳng những thế, trời đất còn mang ý nghĩa của nguồn gốc sự sống, sinh vật. Những câu nói như “Trời đất sinh ra ta”, “Ông Trời” vừa nhân cách hóa hai thực thể tự nhiên vừa hàm ý giải thích nguồn cội con người. Trời là cha, Đất là mẹ. Gặp nguy biến, lúc đau khổ người ta nghĩ đến hai đấng sinh thành. Họ kêu lên “Trời đất ơi!” Hoặc đôi khi cả Trời đất lẫn cha mẹ “Trời đất cha mẹ ơi!” Trong vũ trụ quan của người Á Đông, khái niệm vuông tròn chính là khái niệm về Trời Đất, về Càn Khôn, về Âm Dương. Trong kiến trúc Đông phương, bao giờ cũng là những đường nét pha trộn giữa Âm và Dương. Ngoài những đường thẳng cần thiết phải có, bao giờ người ta cũng đưa những đường cong, những vòng tròn vào, để tạo nên một tổng thể hài hòa giữa Âm và Dương. Cái mái ngói cong cong, cái cửa sổ tròn. Trong kiến trúc Tây phương ít khi ta gặp những đường nét tròn như thế. Nhà cửa theo kiến trúc Tây phương phần lớn có dạng hình hộp là vậy. Dưới thời phong kiến, những đồng tiền kẽm lưu hành trong triều Nguyễn chẳng hạn có hình dáng mang ý nghĩa của càn khôn. Đồng tiền kẽm hình tròn, chính giữa có cái lỗ hình vuông, bốn góc có bốn chữ nho nằm bên mỗi cạnh hình vuông. Cái lỗ vuông là để người ta xỏ dây xâu thành từng xâu khi cất giữ hoặc mang trong người cho tiện. Mua bán gì thì cởi đầu dây, lấy ra từng đồng mà chi trả. Khi thiết kế mẫu tiền có thể người ta đã gửi gấm vào hình thể đồng tiền cái ngụ ý công ơn của triều đình, tức như cha mẹ, đối với thần dân. Quan đã là cha mẹ dân rồi, nói chi vua. Hoàng hậu được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, và hai tiếng “con dân” chẳng phải hàm cái ý đó sao? Ngoài ra, cái hình thể vuông tròn còn chứa đựng sự mong muốn chúc tụng vương triều sẽ trường cửu như trời đất.

Trong mắt một người bình thường không có gì tốt đẹp hoàn hảo hơn cha và mẹ. Trời đất ngoài khái niệm là cha mẹ, còn mang ý nghĩa lâu bền vĩnh cửu, hoặc rộng lớn phong phú dồi dào vô kể.

Những câu nói như “Công ơn cha mẹ như trời như biển”, “Sống lâu cùng trời đất” v.v... Chứng minh điều đó. Trời đất thường đi đôi với nhau, kết hợp thành một khái niệm thiện, tốt lành, trường cửu. Từ khái niệm “Trời Đất” trở ngược lại khái niệm “vuông tròn” phải chăng người ta muốn làm cho cái khái niệm trên trở thành gần gũi với cuộc sống hơn.

Từ khái niệm vuông tròn biểu trưng của Trời Đất, đến khái niệm vuông tròn của Âm Dương có một sự khác biệt: tròn tượng trưng cho Âm tính, vuông tiêu biểu cho Dương tính. Điều này sẽ được chứng minh bằng những thí dụ tiếp sau đây. Tuy nhiên, sự kết hợp hài hòa giữa Âm Dương bao giờ cũng được xem là một kết hợp thuận tự nhiên. Một kết hợp như thế luôn luôn mang lại kết quả tốt đẹp. Một khái niệm thiện. Hãy lấy một thí dụ, câu tục ngữ “Đầu tròn gót vuông”. Theo quan niệm trong Đông y, cơ thể con người ta nửa phần trên, tận cùng bằng cái đầu mang tính Âm (đầu tròn). Phần dưới tận cùng bằng đôi chân (gót vuông), mang tính Dương. Khi một người bị bệnh, thày thuốc sờ đầu sờ chân, thấy đầu mát (Âm), chân ấm (Dương) là thuận Âm Dương, không có gì phải ngại. Nếu ngược lại là không ổn. Các thày thuốc cũng khuyên nên luôn luôn giữ cho cái đầu mát và đôi chân ấm thì sẽ được khỏe mạnh.

Chỉ một trong hai cái ấy không tạo được hiệu ứng tương tự. Vuông đứng một mình chỉ là vuông. Tròn đi một mình chỉ là tròn. Nhưng “vuông tròn” sẽ tạo nên khái niệm trời đất, Âm Dương hài hòa, mang tính “Thiện”, hảo hợp và trường cửu. Khi nói “mẹ tròn con vuông” là người ta muốn nói một kết quả tốt đẹp. Chứ mẹ đâu có tròn. Trong thời gian đang mang bầu thì còn cái bụng tròn. Nhưng sau khi sanh rồi đâu còn tròn nữa. Còn con thì nhất định không thể vuông được. Trên thực tế, nếu một sản phụ không may đẻ ra một đứa trẻ có hình dạng thực sự vuông là điều thậm vô phúc. Cả mẹ lẫn con sẽ trở thành đề tài thời sự ngay.

Thử hình dung ra tình cảnh của hai trường hợp sinh đẻ. Nếu bác sĩ ra báo cho ông bố bằng câu sau đây: “Bà nhà sanh rồi. Mẹ tròn con vuông. Chúc mừng ông” thì là bình thường. Nhưng nếu câu nói chỉ thiếu đi một chút xíu thôi: “Xin báo cho ông rõ. Bà nhà sinh rồi. Đứa trẻ vuông”. Chắc có lẽ ông bố sẽ choáng váng mặt mày, xỉu liền tại chỗ.

Chẳng hạn như trong câu nói sau đây: “Anh chị tính sao thì tính. Miễn sao mọi sự vuông tròn là được.” Câu nói hàm ý miễn sao kết quả tốt đẹp, không có gì trục trặc, điều tiếng là được.

Hãy lấy một câu khác: “Trăm năm tính chuyện vuông tròn”, “Chuyện vuông tròn” là chuyện lứa đôi, chuyện âm dương kết hợp để tồn tại và tiếp nối dòng sinh hóa.
Có âm dương, có vợ chồng
Dẫu rằng thiên địa cũng vòng phu thê
Hoặc:
Đấy mà xử ngãi (nghĩa) vuông tròn
Ngàn năm ly biệt vẫn còn đợi trông (Ca dao)
“Ngãi vuông tròn” là nghĩa vợ chồng, nghĩa thủy chung.

Đó là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Ngoài khái niệm vuông tròn là đất trời, là mẹ cha, là trường cửu. Như trên đã viết, khái niệm vuông tròn còn là âm dương, nam nữ, vợ chồng. Chỉ khác một điều là trong sự tích bánh chưng bánh dày, nếu trời có hình ảnh tượng trưng là tròn, đất có hình vuông. Thì trong quan niệm về hai giới tính nam nữ, đực cái, âm dương, vuông lại thường tiêu biểu cho nam tính, và tròn tiêu biểu cho nữ tính.

Phụ nữ thân thể phải tròn trịa, chứa đựng nhiều đường cong mới đẹp, mới tiêu biểu cho nữ tính. Đàn bà con gái mặt mũi người ngợm nhiều nét gẫy, nhiều góc vuông quá đương nhiên trông không hấp dẫn tí nào, chưa nói là rất thô. Một thân thể như thế thường xương nhiều thịt ít. Nếu không to xương thì cũng quá gầy. Mình hạc cũng được nhưng phải xương mai. Còn những chỗ khác đặc biệt trời dành riêng cho nữ giới như một thứ vũ khí dùng để chinh phục nam giới thì dứt khoát là phải tròn. Nếu không phải là một vòng tròn khép kín như đôi gò bồng đảo, mà trong văn chương có khi được ví von như cặp dừa xiêm, hai trái bưởi, hoặc trái banh v.v... thì cũng phải là một phần của vòng tròn. Những đường cong. Chứ không được gẫy. Hãy nhìn những cô người mẫu thì biết. Cô nào cô nấy ốm tong ốm teo, nhưng ngực và mông thì cứ ngồn ngộn. Còn đối với các bà các cô bình thường, ai có sẵn, nhưng không nhiều, thì dùng thủ thuật đùn lên cho cao, mà mắt thiên hạ. Nếu chẳng may không có thì mượn cái ở ngoài đưa vào cho có. Khi làm như thế chẳng qua họ chỉ muốn khẳng định cái nữ tính của mình mà thôi. Chẳng có gì khiến các ông phải phàn nàn việc các bà đi đến các mỹ viện giải phẫu thẩm mỹ..

Khuôn mặt của Thúy Vân trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, cho dẫu không đẹp lắm, nhưng phúc hậu. Trong khoa tướng số, phúc hậu cũng là một khía cạnh đẹp của phụ nữ. Khuôn mặt tròn có thể không đẹp bằng khuôn mặt trái xoan, nhưng phúc hậu. Vẻ đẹp của phụ nữ có nhiều loại; đẹp lộng lẫy, đẹp sắc xảo, đẹp phúc hậu. Đẹp phúc hậu là vẻ đẹp vượng phu ích tử (chồng con nhờ đó mà phất lên). Muốn biết rành về chuyện này, phải đọc cụ Vũ Tài Lục. Đàn bà mặt mũi gồ ghề chẳng những không có vẻ hiền hậu thùy mị, mà còn bị xem như khuôn mặt khắc sát (chồng con). Cho nên mặc dù Thúy Kiều đẹp hơn em, nhưng Thúy Vân cũng không kém là bao. Ở chỗ: “Kiều càng sắc xảo mặn mà”, tuy so với Thúy Vân: “So bề tài sắc lại là phần hơn.” Kiều đẹp hơn. Vì nàng có nhân dáng của một cô “mô đồ” ngày nay, “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Đành rằng thế. Nhưng so ra Thúy Vân không kém chị nhiều lắm. Vì thi hào đã khẳng định “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.

Ngược lại, nét vuông trên thân thể đàn ông lại được xem như ưu điểm. Mặt vuông chữ điền là bảnh trai. Đàn ông miệng vuông là kẻ thét ra quyền uy. Nếu đàn bà mặt mũi thân hình gồ ghề là không tốt thì ở đàn ông lại là một nét hấp dẫn. Đàn ông không cần có khuôn mặt phúc hậu, mà cần “gồ ghề”; tức nhiều nét vuông. Từ mặt cho đến vai. Đàn bà mặt tròn, cổ tròn, đôi gò bồng đảo, mông miếc gì cũng phải tròn trịa thì mới hấp dẫn. Ngược lại, đàn ông hấp dẫn phải có một bộ ngực vạm vỡ, nhưng khuôn ngực phải vuông, mới ngầu. Đàn ông mà ngực cũng tròn trịa như đàn bà thì trông bẩn lắm. Đàn ông to vú chẳng khác gì đàn bà rậm râu. Đó là một chứng trạng cho thấy anh đàn ông phát triển bất bình thường, cơ thể nhiều chất oestrogen (Kích thích tố nữ). Còn nếu không, thì cũng là một anh chàng bệu, lười luyện tập. Vai u thịt bắp nếu không phải ưu điểm tuyệt đối của đàn ông con trai thì nó cũng hứa hẹn anh ta nhiều khả năng bảo vệ phụ nữ khi cần.

Tả người phụ nữ, các nhà văn thường cho nàng những đường nét tròn trịa. Nhưng một anh đàn ông tròn trịa rất nhiều khi chỉ gợi ra cái ý niệm mập béo phì nộn mà thôi.
“Có mực anh tình phụ son,
Có kẻ đẹp tròn, anh phụ người duyên”
(Ca dao)

Người Á đông nói chung, người Nhật nói riêng, họ thấu hiểu được vẻ hấp dẫn của những đường cong nên từ những đường nét trong kiến trúc, trang trí đến hình dáng các vật dụng họ sử dụng khá nhiều những đường cong. Chiếc xe hơi của Nhật ngoài ưu điểm máy móc bền, tốt còn một điểm khác hấp dẫn người mua, nhất là dân châu Á, đó là cái hình dáng thon thả nhiều đường cong hơn nét gẫy của nó. Ta gọi cái xe, với tiếng “cái” đi trước; hẳn cũng hàm cái ý giống cái của nó. Cũng có khi xe được gọi là “con” như “con xe” trong bàn cờ tướng (Thí con chốt, hốt con xe, chẳng hạn). Nhưng khi xe được gọi với tiếng “con” thì lại khác. Đó là một thứ xe để ra trận đánh nhau. Mà nói đến trận mạc là nói đến đàn ông con trai, nói đến cái dương tính của nó.

Ngày chưa mất nước, những chiếc xe hơi đầu tiên lắp ráp ở Việt Nam là chiếc xe La Dalat. Có thể nói người thiết kế hình dáng chiếc xe kém về khoa thẩm mỹ. Nghe nói công ty gốc là hãng Citroen, cung cấp máy móc. Còn phần thân xe làm tại Việt Nam. Nhìn chiếc xe La Dalat thấy không mấy cảm tình, vì cái dáng thô kệch, nhiều nét gẫy tạo ra những góc vuông, rất ít đường cong của nó.

Ở một khía cạnh khác, tròn còn mang ý nghĩa là trọn vẹn, đầy đủ.
“Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Tròn đây chính là trọn vẹn, đầy đủ. Làm tròn bổn phận vừa là cách nói trại, vừa hàm cái ý trọn vẹn.

Người viết thủa trước vốn từng có thời khoác áo lính. Nên tiện đây cũng xin ghi lại những chiêm nghiệm thực tiễn về những nét gẫy, những hình thể vuông vức góc cạnh tiêu biểu cho tính cách mạnh mẽ của nam giới. Những vị nào từng xuất thân từ các quân trường đào tạo sĩ quan như Trường Võ Bị Đà-Lạt, Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, Trường Thủ Đức v.v... đều biết. Ở giai đoạn sơ khởi gọi là “Thời kỳ huấn nhục”, hay thời kỳ “Tân khóa sinh”, tại các quân trường kể trên người ta áp dụng một lề lối sinh hoạt tạm gọi là “sinh hoạt vuông góc” để đào luyện người thanh niên dân sự trở thành một người lính với nam tính mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, ngoài những huấn luyện về thể chất, về nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, về đạo đức chiến tranh, người thanh niên được rèn luyện một cung cách sống “vuông góc”. Đi đứng vuông góc, ngồi vuông góc. Thậm chí đưa chén cơm lên miệng ăn cũng phải theo một động tác vuông góc. Mọi sắp xếp trong phòng người Tân khóa sinh, từ gối chăn, áo quần, sách vở đều phải theo một lề lối chặt chẽ về vuông góc.

Để làm gì vậy? Mục đích của sự rèn luyện trên chính là để dần dần từng bước biến đổi phong cách ẻo lả yếu ớt của một con người dân sự trở thành một nhân dáng đàn ông đích thực. Tạo ra những góc cạnh vuông vức trên thân thể và cả trong tâm hồn người sĩ quan tương lai. Những phần thân thể bọc đầy mỡ tròn trịa dần dần biến đi để thay vào đó những đường nét góc cạnh. Chân tay, ngực vai đều trở thành vuông vắn. Cằm bạnh ra (kết quả của động tác gặp cằm), mái tóc hớt theo kiểu “bàn chải” tạo thành khuôn mặt vuông chữ điền (tương đối). Những nét vuông đó tạo cho người thanh niên vẻ cứng cát, mạnh bạo, dứt khoát, đầy dương tính. Những nhân dáng “vuông góc” đó có sức hút rất mạnh đối với các nhân dáng tròn trịa nhiều đường cong của nữ giới. Âm dương đối cực hút lẫn nhau.
“Trai khôn tìm vợ chợ đông,
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân” là thế.

Tóm lại, nếu không hiểu được, không có được cái nhãn quan tổng hợp của triết lý Đông phương, sẽ khó mà thâm cảm được cái “khái niệm vuông tròn” trong ngôn ngữ và văn hóa Việt.

Đi từ cái khái niệm sơ khởi về trời đất, đến quan niệm về Âm dương đối đãi, hàm chứa dung nạp lẫn nhau, sau cùng dẫn đến một khái niệm rốt ráo về một trật tự tự nhiên. Từ đó khái niệm vuông tròn mới có thể hàm chứa một sự kết hợp tốt đẹp, đó chính là cái khái niệm “Thiện” đầu tiên (bổn thiện) vậy.

31 tháng 8 2018

Nguyễn Minh Quang chép mạng

Bài 2: Hãy tìm các từ Hán Việt trong truyện Bánh chưng, bánh giầy sau :         Hùng Vương lúc về già, muốn truyền ngôi, nhưng nhà vua có những hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng. Giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng dân có ấm no, ngai vàng mới vững. Nhà vua bèn gọi các con lại rồi nói :         - Tổ tiên ta từ khi dựng nước, đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm lấn...
Đọc tiếp

Bài 2: Hãy tìm các từ Hán Việt trong truyện Bánh chưng, bánh giầy sau :

         Hùng Vương lúc về già, muốn truyền ngôi, nhưng nhà vua có những hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng. Giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng dân có ấm no, ngai vàng mới vững. Nhà vua bèn gọi các con lại rồi nói :

         - Tổ tiên ta từ khi dựng nước, đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm lấn bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương ta đều đánh đuổi được, thiên hạ được hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.

          Các lang ai cũng muốn ngôi báu về mình, nên cố làm vừa ý vua cha. Nhưng ý vua cha thế nào, không ai đoán được. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên Vương.

           Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám ; mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. So với anh em, chàng thiệt thòi nhất. Những anh em của chàng sai người đi tìm của quý trên rừng, dưới biển. Còn chàng, từ khi lớn lên, ra ở riêng chỉ chăm lo việc đồng áng, trông lúa, trồng khoai ; bây giờ nhìn quanh trong nhà cũng chỉ có khoai, lúa là nhiều. Nhưng khoai, lúa tầm thường quá !

           Một hôm, chàng nằm mộng thấy thần đến bảo :

           - Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ thấy chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được. Còn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương.

           Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng. Chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn.

            Đến ngày lễ Tiên Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tói, chẳng thiếu thứ gì. Vua cha xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời, Đất cùng Tiên Vương.

            Lễ xong, vua cho đem bánh ra ăn cùng với quần thần. Ai cũng tấm tắc khen ngon. 

            Vua họp mọi người lại nói:

             - Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.

             Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.

Giúp mình nha!

 

1
14 tháng 8 2019

từ Hán Việt: Nhà vua, Tiên Vương, mĩ vị, sơn hào, hải vị,phúc ấm

ko chắc lắm

27 tháng 8 2019
  •  Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh: Lúc về già và đã đất nước đã thanh bình, Vua Hùng muốn truyền ngôi nhưng có 20 hoàng tử không biết chọn ai xứng đáng để truyền ngôi. 
  • Ý định của vua trong việc chọn người nối ngôi tức phải nối được chí của vua, không nhất thiết là con trưởng.
  • Hình thức là nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi. Chính vì thế, nhà vua dùng hình thức thử tài để chọn (nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi).

-    Hoàn cảnh vua Hùng chọn ngôi: Giặc ngoài đã yên, vua có thể tập trung chăm lo cho dân được no ấm; vua về già, muốn truyền ngôi.

-   Ý định của vua: Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

-  Hình thức: Điều vua đòi hỏi mang tính chất là một câu đố đặc biệt để thử tài: Nhân ngày lễ Tiên vương, các lang dâng lễ vật sao cho vừa ý vua cha.



Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/soan-bai-banh-chung-banh-giay-c33a13330.html#ixzz5xo7DsNK8

29 tháng 8 2016

1)

+ Đã già, muốn truyền ngôi nhưng có 20 hoàng tử không biết chọn ai xứng đáng để nối chí tiên vương.

+ Sau khi dẹp giặc và đất nước trở lại thanh bình. 

- Ý định của vua là chọn người có thể làm cho dân ấm nó để giữ ngai vàng của tổ tiên đã truyền được sáu đời.

- Hình thức là nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi không nhất thiết phải là con trưởng.

2)

- Chàng là người thiệt thòi nhất.

+ Sớm mồ côi mẹ.

+ Ra ở riêng và chỉ chăm lo chuyện đồng áng một cách tích cực: trong nhà rất nhiều lúa, khoai.

- Thần thực ra chính là trí tuệ ý nguyện của nhân dân lao động.

Nhân dân rất đống cảm với các nhân vật mô côi, chăm chỉ lao động bằng bàn tay của mình và sống chân chất thật thà. Ông Bụt giúp cô Tấm (Tấm Cám), chàng Khoai (Cây tre trăm đốt) cũng như Thần giúp Lang Liêu vậy. Bởi vì đây là người “của mình” thuộc “phe ta”.

29 tháng 8 2016

1)+ Đã già, muốn truyền ngôi nhưng có 20 hoàng tử không biết chọn ai xứng đáng để nối chí tiên vương.

 + Sau khi dẹp giặc và đất nước trở lại thanh bình. - Ý định của vua là chọn người có thể làm cho dân ấm nó để giữ ngai vàng của tổ tiên đã truyền được sáu đời. - Hình thức là nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi không nhất thiết phải là con trưởng.
2)- Chàng là người thiệt thòi nhất. + Sớm mồ côi mẹ.+ Ra ở riêng và chỉ chăm lo chuyện đồng áng một cách tích cực: trong nhà rất nhiều lúa, khoai. - Thần thực ra chính là trí tuệ ý nguyện của nhân dân lao động. Nhân dân rất đống cảm với các nhân vật mô côi, chăm chỉ lao động bằng bàn tay của mình và sống chân chất thật thà. Ông Bụt giúp cô Tấm (Tấm Cám), chàng Khoai (Cây tre trăm đốt) cũng như Thần giúp Lang Liêu vậy. Bởi vì đây là người “của mình” thuộc “phe ta”.


3)+ Bánh giầy là tượng trời; bánh chưng là tượng đất có cây cỏ muôn loài còn là biểu tượng cho sự “đùm bọc nhau”. + Vua cha thấy rằng Lang Liêu đã hiểu ý mình là phải phát triển nghề nông thì dân mới no ấm, thái bình. Đây là nguyên nhân thành công của các đấng Tiên Vương. - Lang Liêu được kế ngôi báu vì qua hai chiếc bánh đã: + Đề cao được sự kính thờ trời đất và Tổ tiên. + Thể hiện ý đồ sau khi lên ngôi sẽ phát triển nghề nông mong mang lại ấm nó, thái bình cho dân.

 4)Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy có nhiều ý nghĩa, trong đó nổi bật nhất là: thông qua việc giải thích nguồn gốc sự vật (bánh chưng, bánh giầy – hai thứ bánh tiêu biểu cho truyền thống văn hoá ẩm thực của người Việt Nam trong dịp tết cổ truyền Việt Nam), truyện đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông. Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
17 tháng 8 2018

1. Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào, với ý định ra sao và bằng hình thức gì?

Trả lời:

-    Hoàn cảnh vua Hùng chọn ngôi: Giặc ngoài đã yên, vua có thể tập trung chăm lo cho dân được no ấm; vua về già, muốn truyền ngôi.

-   Ý định của vua: Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

-  Hình thức: Điều vua đòi hỏi mang tính chất là một câu đố đặc biệt để thử tài: Nhân ngày lễ Tiên vương, các lang dâng lễ vật sao cho vừa ý vua cha.

2. Vì sao trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ?

Trả lời:

Trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ vì:

-   Lang Liêu là người thiệt thòi nhất: nghèo, chỉ làm việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu là con vua nhưng rất gần gũi với dân thường.

-  Quan trọng hơn, chàng là người duy nhất hiểu được ý thần ("Trong trời đất không gì có quý bằng hạt gạo [...] Các thứ khác đều ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được") và thực hiện được ý thần: "Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương". Còn các lang khác chỉ biết mang cúng Tiên vương sơn hào hải vị - những món ăn ngon nhưng vật liệu để chế biến thành các món ăn ấy thì con người không làm ra được:

3. Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời, Đất, Tiên vương và Lang Liêu được chọn nối ngôi vua?

Trả lời:

-   Hai thứ bánh có ý nghĩa thực tế: quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con người và là sản phẩm do chính con người làm ra.

-  Hai thứ bánh có ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho trời, đất và muôn loài.

-  Hai thứ bánh, do vậy hợp với ý vua, chứng tỏ dược tài đức của người con có thể nối chí vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, của đồng ruộng, do chính tay mình làm ra mà tiến cúng Tiên vương, dâng lên cha thì đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo, trân trọng những người sinh thành ra mình.

4. Hãy nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy?

Trả lời:

-  Truyện giải thích nguồn gốc hai loại bánh cổ truyền của dân tộc: Bánh chưng bánh giầy.

-  Truyện đề cao lao động, đề cao nghề nông.

-  Giải thích phong tục làm bánh, chưng bánh giầy thờ cúng tổ tiên ngày Tết.

⟹ Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy có nhiều ý nghĩa, trong đó nổi bật nhất là: thông qua việc giải thích nguồn gốc sự vật (bánh chưng, bánh giầy – hai thứ bánh tiêu biểu cho truyền thống văn hoá ẩm thực của người Việt Nam trong dịp tết cổ truyền Việt Nam), truyện đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông. Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

17 tháng 8 2018
  • Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh: Lúc về già và đã đất nước đã thanh bình, Vua Hùng muốn truyền ngôi nhưng có 20 hoàng tử không biết chọn ai xứng đáng để truyền ngôi. 
  • Ý định của vua trong việc chọn người nối ngôi tức phải nối được chí của vua, không nhất thiết là con trưởng.
  • Hình thức là nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi. Chính vì thế, nhà vua dùng hình thức thử tài để chọn (nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý vua sẽ được truyền ngôi).
  • Trong số các người con của vua, chỉ có Lang Liêu được thần giúp đỡ, vì:

  • Chàng sớm mồ côi mẹ, so với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất.
  • Tuy là con vua, nhưng “từ khi lớn lên, ra ở riêng” chàng chăm chỉ làm việc đồng áng,  sống cuộc sống như dân thường.
  • Đồng thời, chàng là người có trí sáng tạo, hiểu được ý thần: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo” và lấy gạo làm bánh để lễ Tiên vương.
  • Qua đó truyện đã thể hiện ý nguyện của nhân dân lao động, những người hiền lành, chăm chỉ sẽ luôn nhận được sự giúp đỡ khi khó khăn, hoạn nạn.

  • Vua Hùng đã chọn bánh của Lang liêu vì:

  • Hai thứ bánh đã thể hiện thể hiện sự quý trọng nghề nông, quý trọng sản phẩm do con người làm ra. Đồng thời còn có ý nghĩa sâu xa: Bánh giầy là tượng trời; bánh chưng là tượng đất có cây cỏ muôn loài còn là biểu tượng cho sự “đùm bọc nhau”. Cách thức gói “lá bọc ngoài, mĩ vị để trong” thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa con người với thiên nhiên, đồng thời thể hiện truyền thống đoàn kết, gắn bó và tinh thần đùm bọc nhau giữa những người dân đất Việt
  • Vua cha thấy rằng Lang Liêu đã hiểu ý mình là phải phát triển nghề nông thì dân mới no ấm, thái bình. Đây là nguyên nhân thành công của các đấng Tiên Vương.
  • Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy là:

  • Truyện giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy, đó là hai thứ bánh tiêu biểu có trong ngày Tết cổ truyền nước ta.
  • Truyện cũng phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông.
  • Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
  • hok tok
CẢM NHẬN CỦA EM VỀ TRUYỆN BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦY . VD : Trong truyện cổ dân gian, sự xuất hiện của Thần, Tiên, Bụt, Phật... đã tạo nên yếu tố hoang đường, kì ảo. Những nhân vật siêu nhiên ấy nhằm giúp đỡ, độ trì người nghèo, bênh vực kẻ yếu, ban phép lạ cho người tốt, và trừng phạt những kẻ xấu xa, gian ác. Truyện cổ Sự tích bánh chưng bánh giày cũng có hai nhân vật Thần. Thần...
Đọc tiếp

CẢM NHẬN CỦA EM VỀ TRUYỆN BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦY .

 VD :

 

Trong truyện cổ dân gian, sự xuất hiện của Thần, Tiên, Bụt, Phật... đã tạo nên yếu tố hoang đường, kì ảo. Những nhân vật siêu nhiên ấy nhằm giúp đỡ, độ trì người nghèo, bênh vực kẻ yếu, ban phép lạ cho người tốt, và trừng phạt những kẻ xấu xa, gian ác. Truyện cổ Sự tích bánh chưng bánh giày cũng có hai nhân vật Thần. Thần xuất hiện trong giấc mộng, mách bảo Lang Liêu làm bánh đề lễ Tiên Vương. Nói rằng: Nhờ có Thần mách bảo mà Lang Liêu mới được nối ngôi vua tuy đúng, nhưng chưa thật đầy đủ. Đó là vì ý kiến ấy chưa đề cập đến yếu tố con người, vai trò con người. Đó là Lang Liêu và nhà vua.

Lang Liêu là một ông hoàng chỉ chăm lo việc đồng áng trồng lúa, trồng khoai.... Đó là một ông hoàng giàu lòng nhân đức, rất cần cù, sống gần dân, biết trọng nghề nông là nghề căn bản của dân tộc. Ông mồ côi mẹ, vì thế mà trở thành một ông hoàng bị "lép vế" trong hoàng tộc nên mới được Thần hiến kế và độ trì. Chuyện kể Lang Liêu gặp Thần trong giấc mộng, có nghĩa là Lang Liêu được lòng dân, bởi lẽ: Thần bảo như nhân bảo.

Lang Liêu là một con người rất sáng tạo. Thần chỉ nói về giá trị của gạo, và mách bảo Lang Liêu nên lấy gạo để làm bánh, chứ không chỉ vẽ cách thức cụ thể làm bánh ra sao. Thế nhưng Lang Liêu đã biết lấy gạo nếp đem vo sạch, lấy đỗ đãi và thịt lợn làm nhân, lấy lá giong gói thành bánh hình vuông đem nấu chín; biết đồ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Lang Liêu đã sử dụng chất liệu sẵn có của nhà nông, của quê hương xứ sở, sáng tạo thành hai thứ bánh rất ngon. Anh rất xứng đáng nhận mọi phần thưởng cao quý.

Bánh của Lang Liêu sáng tạo nên không chỉ ngon mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa, tốt đẹp. Bánh giày tượng Trời; bánh chưng tượng Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá giong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài. Có thể nói đó là sự hoà hợp giữa con người với đất trời, thiên nhiên tạo vật. Lá giong bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Vua Hùng qua chiếc bánh chưng xanh gói bằng lá giong mà nêu cao bài học thương yêu, đoàn kết. Nhà vua ngầm nhắc các hoàng tử và quần thần bài học giữ nước. Bánh chưng bánh giày với biểu tượng cao quý ấy đã thể hiện cái tâm và cái tài, nhất là lòng trung hiếu của Lang Liêu. Lang Liêu đã làm vừa ý vua cha, biết nối chí vua cha, xứng đáng dược vua Hùng truyền ngôi báu, có Tiên Vương chứng giám.

 

Truyện cổ tích này đã giải thích nguồn gốc và tính nhân văn của bánh chưng, bánh giầy. Truyện đã biểu lộ niềm tự hào về một nét tuyệt đẹp: hương vị của đất nước ta rất phong phú, hương vị Tết cổ truyền dân tộc rất dậm đà. Đó chính là bản sắc tốt đẹp của nền văn hiến Việt Nam.

Sâu xa hơn nữa, Sự tích bánh chưng, bánh giày còn thể hiện ý thức lấy nước, lấy dân làm gốc, coi trọng nghề nông, quý hạt gạo, biết ơn tổ tiên, kính Trời, Đất với tất cả tấm lòng hồn hậu, chân thành của con người Việt Nam chúng ta.

                                  mÌNH VIẾT VÍ DỤ SỞ DĨ MK BIK SẼ CÓ 1 VÀI BẠN COPY NHƯNG MK MUỐN XEM BÀI VĂN CỦA CÁC BẠN NÊN HÃY LÀM THÀNH THẬT NHÉ !                        nHỚ GIÚP MK ^-^ ! ~                                      

0
16 tháng 6 2021

Ý nghĩa của truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy:

+ Giải thích tục lệ làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết Nguyên Đán.

+ Thể hiện sự biết ơn với thế hệ đi trước, ông bà tổ tiên và tôn kính với đất trời.

+ Ca ngợi người Việt ta luôn có ý thức sáng tạo, tìm tòi, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

16 tháng 6 2021

Bạn tham khảo:

Bài làm:

Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy là:

Truyện giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy, đó là hai thứ bánh tiêu biểu có trong ngày Tết cổ truyền nước ta.Truyện cũng phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao trí thông minh và lòng hiếu thảo của người lao động, đề cao nghề nông.Qua cách vua Hùng lựa chọn người nối ngôi là Lang Liêu, truyện còn đề cao ý thức tôn kính tổ tiên, xây dựng phong tục tập quán trên cơ sở coi trọng những giá trị sáng tạo thiêng liêng của nhân dân, ca ngợi truyền thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.