K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
14 tháng 3 2018

Nhân dân ta có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm. Từ xưa đến nay, Triệu, Đinh, Lý, Trần,... đều anh dũng và đánh bay giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Kể cả những người phụ nữ, khi đất nước trong cơn nguy biến, những người phụ nữ cũng đứng lên dẹp yên quân thù. Như chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi ra trận, đền nợ nước trả thù nhà. Thời chống Pháp, chống Mỹ có những người phụ nữ kiên cường như Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Chiên, Định Thị Vân, Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắng, Nguyễn Thị Định,... Khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh. Những người phụ nữ kiên cường ấy cũng góp một phần to lớn bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

Tại vùng trang trại xa xôi, có một người nông dân năm nào cũng trồng được những cây ngô rất tốt. Năm nào ông cũng mang ngô tới hội chợ liên bang và năm nào ngô của ông cũng đạt giải nhất. Ai cũng cho rằng ông có những bí quyết riêng độc đáo. Có một lần, một phóng viên phỏng vấn ông và phát hiện ra rằng người nông dân luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những...
Đọc tiếp

Tại vùng trang trại xa xôi, có một người nông dân năm nào cũng trồng được những cây ngô rất tốt. Năm nào ông cũng mang ngô tới hội chợ liên bang và năm nào ngô của ông cũng đạt giải nhất. Ai cũng cho rằng ông có những bí quyết riêng độc đáo. Có một lần, một phóng viên phỏng vấn ông và phát hiện ra rằng người nông dân luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những người hàng xóm ở các trang trại xung quanh.

– Tại sao bác lại chia những hạt giống tốt nhất đi, trong khi năm nào họ cũng đem sản phẩm đến cùng hội chợ liên bang để cạnh tranh với sản phẩm của bác? – Phóng viên hỏi.

– Anh không biết ư?- Người nông dân thật thà đáp – Gió luôn thổi phấn hoa và cuốn chúng từ trang trại này sang trang trại khác, từ cánh đồng này sang cánh đồng khác. Nếu những người hàng xóm quanh tôi chỉ trồng được những cây ngô xấu thì việc thụ phấn do gió rõ ràng sẽ làm giảm chất lượng ngô của chính trang trại của tôi. Tức là, nếu tôi muốn trồng được ngô tốt, tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt.

a) mọi người đã nghĩ thế nào về sự thanh công của người nông dân?

b)Vì sao phòng viên vô cùng ngạc nhiên khi biết người nông dân này luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những người hàng xóm ở các trang trại xung quanh?

c)Câu chuyện muốn nói vơi chúng ta điều gì?

d) có ý kiến cho rằng:" Những người muốn được hạn phúc phải giúp những người sống quanh mình hạnh phúc. Những người muốn thành công phải giúp những người quanh mình thành công". Bạn có tán hành với ý kiến này ko? Vì sao ?

giúp mình mình xin, mình lạy các bạn đấy

0
8 tháng 7 2018

Em luôn tự hào vì mình là một con dân nước Việt.Bởi lẽ những phẩm chất tốt đẹp cao quý là một phần rất quan trọng tạo nên con người Việt Nam.Dân ta từ xưa đến nay đã có nhiều truyền thống tốt đẹp vẫn còn được phát huy đến nay đó là truyền thống tôn sư trọng đạo và hiếu thảo cha mẹ.Người Việt Nam hiền lành,chất phác siêng năng cần cù.Những phẩm chất đạo đức con người Việt đã được ca tụng qua rất nhiều bài thơ như cây tre Việt Nam,....Nước ta được phát triển đến ngày nay cũng nhờ vào phần lớn công lao của ông ta thời xưa,dân tộc Việt Nam có một trái tim quả cảm và lòng yêu nước vô bờ bến.Tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy đã tô điểm thêm cho con người Việt Nam từ đó thúc đẩy chúng ta luôn cần phải học hỏi và phát huy những phẩm chất tốt đẹp ấy.

8 tháng 7 2018

Tuỳ bút Cây tre Việt Nam được nhà báo, nhà văn Thép Mới viết vào năm 1956, để thuyết minh cho bộ phim Cây tre Việt Nam của một số nhà điện ảnh Ba Lan. Cảm hứng tự hào dạt dào, bút pháp tài hoa đã tạo nên chất thơ trữ tình của áng văn xuôi này.

Mở bài là một câu văn 18 chữ, Thép Mới giới thiệu cây tre trong tâm hồn nhân dân ta, nó là người bạn thân gần gũi thân thiết yêu thương. Câu văn đầy ấn tượng: Cây tre là người bạn thân của nông dân Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.

Phần thứ hai, tác giả nói đến cây tre trong đời sống vật chất và tinh thần, trong sản xuất, trong tâm hồn, trong chiến đấu của nông dân Việt Nam, của nhân dân Việt Nam qua trường kỳ lịch sử. ý tưởng đẹp, giàu có, cách diễn đạt và giọng văn biến hoá, hấp dẫn, đã tạo cho tre có một vị trí đặc biệt trong mỗi chúng ta.

Nước ta thuộc vùng nhiệt đới, chan hoà ánh nắng, cây cỏ tốt tươi xanh muôn ngàn cây lả khác nhau. Tác giả so sánh để ca ngợi vị thế cây tre trong lòng người: Cây nào củng đẹp, cây nào củng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa. Tre có mặt khắp mọi miền đất nước: Đồng Nai, Việt Bắc, Điện Biên Phủ, là luỹ tre thân mật làng tôi. Tre được nhân hoá, trở nên gần gũi yêu thương: đâu đâu ta củng có nứa tre làm bạn.

Họ hàng nhà tre thật đông đúc: tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là cùng một mầm non măng mọc thẳng. Một phát hiện tinh tế, ý vị. Tre có một sức sống vô cùng mạnh mẽ vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. 15 năm sau, nhà thơ Nguyễn Duy cũng có những vần thơ xúc động về sức sống của cây tre:

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu.

(Tre Việt Nam)

Nhìn dáng tre, màu tre, sự sinh sôi nảy nở của tre, nhà văn phát hiện ra bao vẻ đẹp riêng của tre như mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre được nhân hoá trở thành một biểu tượng sáng giá: Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Phẩm chất của tre cũng là phẩm chất của con người Việt Nam xưa nay.

Thép Mới trích dẫn câu thơ của Tố Hữu: Bóng tre trùm mát rượi để từ đó nói lên vẻ đẹp của luỹ tre làng quê, một vẻ đẹp êm đềm của xứ sở: Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Tre là vẻ đẹp của cảnh sắc làng quê, là vẻ đẹp của nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nếp sống lao động cần cù và cuộc sống yên vui êm đềm của nhân dân ta qua hàng nghìn năm lịch sử. Các từ ngữ, hình ảnh: bóng tre, dưới bóng tre của ngàn xưa, dưới bóng tre xanh,... được điệp lại, láy lại đã tạo nên giọng văn nhẹ nhàng mênh mang biểu cảm:

Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoảng mái đình, mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu dời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Màu xanh của tre cũng là màu tâm hồn, màu thời gian, màu sắc của nền văn hoá, màu chung thuỷ.

Cánh tay là hình ảnh hoán dụ ca ngợi cây tre là người bạn cần cù trong lao động của nhà nông, từng chia ngọt sẻ bùi, từng một nắng hai sương với bà con dân cày Việu Nam:

Cánh đồng ta năm đôi ba vụ

Tre với người vất vả quanh răm.

Nói về cối xay tre thủ công Thép Mới gợi nhớ một thời gian khổ. Câu văn xuôi được cắt thành những vế ngắn 3, 4 chữ, có vần, nhằm tạo ra một trường liên tưởng về nền kinh tế lạc hậu, đời sống thiếu thốn của nhân dân ta sau một thế kỷ bị thực dân thống trị: Cối xay tre / nặng nề quay từ, nghìn đời nay / xay nắm thóc.

Tre được nhân hoá: Tre ăn ở với người, tre ... giúp người..., tre vẫn phải còn vất vả mãi với người, tre là người nhà,... Từ một vật thể, cây tre trở nên có tâm hồn, có linh hồn gắn bó với cuộc đời vất vả, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta trong dòng chảy thời gian. Tre gắn bó với tâm tình của nhân dân. Lạt giang mềm để gói bánh chưng; sự hiện hữu của nó trong sính lễ như "khít chặt" những mối tình quê thắm thiết; thuỷ chung. Cách viết của Thép Mới rất tài hoa, cách dẫn thơ đạm đà, lí thú.

Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình què cái thuở ban đầu thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:

Lạt này gói bánh chưng xanh

 Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng.

Chiếc điếu cày tre làm niềm vui tuổi già, chiếc nôi tre là sự ấm êm hạnh phúc của tuổi thơ, cái giường tre bình dị gắn bó với mọi người mọi nhà sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ. Qua cây tre, tác giả ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung là đạo lí cao đẹp của dân tộc.

Tre là bạn thân, là người nhà là cánh tay của người nông dân, tre là bạn tâm tình của mọi lứa tuổi. Tre còn là "đồng chí chiến đấu của ta" trong kháng chiến. Tre mọc thẳng, trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng là dáng đứng không chịu khuất của con người Việt Nam. Gậy tầm vông, cái chông tre là vũ khí đánh giặc rất lợi hại của ta, làm nên chiến công và truyền thống anh hùng của dân tộc. Thép Mới đã vận dụng phép nối trong văn xuôi cổ rất sáng tạo:

Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng nên Thành đồng Tổ quốc! Và sông Hồng bất khuất có cái chồng tre. Trong đoạn văn sau, tre được nhân hoá mang chí khí người nông dân mặc áo lính, người dũng sĩ anh hùng lẫm liệt hiên ngang. Chữ "tre" được điệp lại 7 lần, câu văn ngắn dồn dập diễn tả không khí chiến đấu và chiến thắng giòn giã của quân và dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp.

Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động! Tre, anh hùng clúển đấu!.

Đây là một trong những đoạn văn tráng lệ nhất, mang âm điệu anh hùng ca trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Không khí, lịch sử thời đại, chiến thắng Điện Biên Phủ thần kỳ đã đem đến sức tung hoành của ngòi bút của Thép Mới.

Nhạc của tre là khúc nhạc đồng quê. Nhạc của khóm tre làng rung lên man mác trong nồm nam con gió thổi, là diều lá tre là sáo tre sáo trúc giữa lồng lộng trời cao. Đoạn văn xuôi giàu tính nhạc và chất thơ cho ta bao cảm xúc và ấn tượng:

Diều bay, diều lá tre bay lưng trời...

Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời..

Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều

Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre...

Phần thứ ba của bài tuỳ bút nói về cây tre trong tương lai. Như một quy luật của sự sống vĩnh hằng: Tre già măng mọc. Búp măng non sẽ còn mãi trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam. Tre, nứa sẽ còn mãi... còn mãi... còn mãi... với dân tộc ta, "chia bùi sẻ ngọt" với nhân dân ta trong hạnh phúc, hoà bình.

Đất nước sẽ được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sẽ có nhiều sắt thép, nhưng cây tre vẫn sống mãi trong tâm hồn dân tộc. Bóng mát của tre xanh, khúc nhạc tâm tình của tre, cổng chào thắng lợi, những chiếc đu tre, tiếng sáo diều tre vẫn trường tồn cùng đất nước và nhân dân ta trên dặm đường trường của những ngày mai tươi hát...

Cây tre Việt Nam, cây tre xanh với bao phẩm chất nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm là biểu trưng cao quý của dân tộc Việt Nam". Thép Mới đã dành những lời tốt đẹp nhất ca ngợi cây tre với tất cả tình yêu và niềm tự hào về quê hương xứ sở, về đất nước và con người Việt Nam.

23 tháng 4 2020

giúp với

26 tháng 8 2018

Đã 38 năm kể từ ngày ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (30/4/1975-30/4/2013). Đất nước ta đã độc lập, nhân dân ta đã được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chiến tranh đã đi qua nhưng những nỗi đau chiến tranh vẫn còn đó, người Việt Nam vẫn kiên cường bất khuất, gồng mình hàn gắn vết thương chiến tranh và nỗ lực lao động để xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập. Trong mỗi chúng ta, có ai biết rõ số lượng vũ khí mà Mỹ đã sử dụng cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam? Con số đó không hề nhỏ, có những lúc, cường quốc to lớn ấy phải dốc hết toàn lực để nhằm khuất phục đất và người Việt Nam. Nhưng chính nghĩa luôn chiến thắng, đất nước Việt Nam đã chiến thắng vẻ vang trước một kẻ khổng lồ. Họ quyết tâm đánh Mỹ bằng tất cả những gì họ có, bằng cả chông tre, tổ ong, dao, búa, tầm vông vót nhọn,…Họ thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.

Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, các nhà quân sự Mỹ đã thừa nhận rằng: Một số lượng lớn binh sĩ Mỹ bị chết là do vũ khí tự chế của Việt Nam. Những vũ khí tự chế ấy đơn giản chỉ là những cây chông làm bằng tre được vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng ở ngoài vườn; súng ngựa trời dùng để phóng mảnh kim loại, thủy tinh gây sát thương cao; giàn thun bắn lựu đạn hay chất độc được đồng bào dân tộc dùng để săn thú rừng,…Tất cả những thứ ấy, lúc thanh bình nó là những vật gần gũi với người dân. Nhưng khi có giặc ngoại xâm thì vũ khí tự chế của Việt Nam mang tính sát thương cực kì lớn và đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những kẻ mang dã tâm xâm lược. Từ đó, ta mới thấy được sự mưu trí, dũng cảm của những con người Việt Nam, luôn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, luôn thể hiện được chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một dân tộc đối đầu với các thế lực ngoại xâm qua các thời đại lịch sử. Nhân dịp kỉ niệm 38 năm ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một số loại vũ khí tự chế của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhằm ôn lại truyền thống kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm của nhân dân ta.

Hầm chông giết giặc

Trong những trận càn, nhiều binh sỹ Mỹ vẫn nói với nhau rằng “Đi một bước nữa có thể là bước đi cuối cùng của đời mình!”. Bởi vì: Chúng có thể bị sụp xuống hầm chông và hậu quả thì từ chết tới bị thương. Trên những con đường làng êm ả của Việt Nam, hằng ngày người dân Việt Nam đi làm đồng, đi chợ, đi bắt cá,…rất đỗi bình thường. Nhưng tới khi quân Mỹ đi càn thì con đường ấy lại trở thành con đường xuống địa ngục. Vì nó đầy rẫy những cạm bẫy không lường trước được. Đó là những hầm chông sắc nhọn được vót bằng loại tre già hay tầm vông được cắm thật chặt xuống hố đã được đào sẵn, chỉa mũi nhọn lên trên. Ở trên được ngụy trang bằng những cành cây, rơm rạ, hay lá cây. Bình thường không biết đấy là hầm chông chỉ khi nào quân địch bị rơi tọt xuống hố đó, rồi bị chông đâm thủng bụng, xuyên qua mông, xuyên qua chân thì mới biết là mình đã rơi vào trận địa được nhân dân ta bày sẵn. Nhân dân ta đã sáng tạo ra rất nhiều loại chông: Chông đòn, chông hầm, chông quay, chông bàn, chông hom,…đa số chông được làm bằng tre, có những nơi chông được làm từ thân của cây cau già, hay làm bằng sắt. Hầm chông được bố trí ở khắp nơi: Ở trên đường làng, ở hiên nhà, dưới gốc cây, trong vườn nhà,…có mặt ở khắp đất nước Việt Nam. Hầm chông dễ làm, tre thì ta có sẵn ngay ngoài vườn, từ những cụ già, những người phụ nữ, những em bé cũng tham gia vót chông để giết giặc. Chính vì vậy, hầm chông đã góp phần vào việc đánh giặc giữ làng, giữ nước của dân ta và đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của binh lính Mỹ. Tôi nhớ mãi một cảnh trong phim Biệt Động Sài Gòn, một toán lính Mỹ đi càn ở Củ Chi, có một tên bị rơi xuống hầm chông đau đớn kêu cứu trong tuyệt vọng: “Help me! Help me!” (Cứu tôi với! Cứu tôi với!). Nhưng những tên đồng bọn của hắn dù không bị rơi xuống hầm chông nhưng cũng hoảng sợ cực độ, quay súng bỏ chạy với sự bất lực “No…! No…! I can’t!” (Không! Không! Tôi không thể!). Một đội quân Mỹ được trang bị vũ khí tối tân hiện đại nhưng phải bỏ chạy trước hầm chông đơn giản của Việt Nam. Thấy tự hào làm sao dân tộc ta, một dân tộc bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.

* Đánh giặc bằng ong vò vẽ

Ở quê hương Bến Tre, cái nôi của phong trào Đồng Khởi. Chẳng ai mà không biết ông Nguyễn Văn Tư (sinh năm 1933, hy sinh ngày 26/10/1964), bí danh Thanh Ngọc, quê ở xã Tân Thành Bình nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc tỉnh Bến Tre. Ông là một chiến sĩ du kích có kỹ năng đánh độc lập, nhỏ lẻ, với vũ khí thô sơ như chông, mìn, bẫy lựu đạn. Đặc biệt, ông đã sáng tạo ra cách đánh địch bằng ong vò vẽ phối hợp với trận địa chông, mìn, gây cho giặc nhiều tổn thất đáng kể. Trận địa có ong vò vẽ được ông thiết kế công phu: Ong được bắt về điểm sẽ xây dựng trận địa từ hồi tổ còn nhỏ, đem về hàng ngày cho ong ăn thịt trâu, bò cho tổ ong lớn nhanh. Bên cạnh tổ ong, ông Tư thiết kế trận địa hầm chông, mìn, cấm chông dày đặc ở dưới các mương gần đó. Khi địch đã lọt vào “ổ” từ xa ông giật dây phá vỡ tổ ong cho ong bay ra rượt bọn địch đánh tới tấp, khiến chúng hoảng loạn đâm đầu chạy, không biết xung quanh mình trận địa đã bày sẵn: Thằng thì rớt xuống hầm chông, thằng thì rơi vào điểm có cài lựu đạn nổ, thằng thì nhảy xuống mương mong rằng thoát nạn bị ong đánh, ai dè bị chông dưới mương đâm lủng bụng, làm bọn địch chết loạn xạ và phải dừng cuộc hành quân.

Ở Cần Thơ, nhân dân ta bắt ong về nuôi. Hằng ngày đem áo, khăn của mình ra treo ở gần tổ ong để cho ong quen mùi, nhân dân ta lại gần tổ ong thì không sao nhưng khi Mỹ càn tới, ong thấy mùi lạ bèn xông ra đánh tới tấp làm bọn lính Mỹ bị ong đốt bỏ chạy toán loạn.

Ở nước ta, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước có nhiều người dân, đội du kích sáng tạo cách đánh giặc bằng ong vò vẽ rất hiệu quả. Tạo nên một sức mạnh toàn dân đánh giặc càng làm cho phong trào giải phóng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ong vò vẽ được mệnh danh là “Binh chủng không quân” của chiến tranh nhân dân.

* Súng ngựa trời

Súng ngựa trời được quân và dân Bến Tre sản xuất tháng 1/1960, được sử dụng ở ba xã Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp và một số trận chống càn ở Bến Tre trong phong trào Đồng Khởi. Sau đó, súng được sử dụng phổ biến trong du kích đồng bằng sông Cửu Long và Nam Bộ đầu những năm 60 của thế kỷ XX.

Là loại vũ khí thô sơ có hình con ngựa trời, dùng phóng các mảnh kim loại, thuỷ tinh, đá vụn để sát thương sinh lực địch. Cấu tạo của súng ngựa trời gồm: Nòng bằng kim loại (ống nước, ống tôn) đường kính 35-70 mm, dài 0,4-0,8 mét, đáy nòng bịt kín (hàn hay đập dẹt) đặt trên hai chân chống, gần đáy nòng khoan một lỗ để lắp cơ cấu cò hay bộ phận phát hoả đơn giản. Trong nòng nhồi thuốc phóng (thường dùng thuốc đen), tấm đệm bằng gỗ và các mảnh gang, sắt, mảnh sành, thuỷ tinh, đá, bi xe đạp,...có thể ngâm nọc rắn độc, nước tiểu nhằm tăng tính sát thương. Cự ly phóng mảnh tới 150 mét, sát thương sinh lực địch khoảng cách tới 100 mét.

* Giàn thun bắn lựu đạn

Giàn thun cao su bắn lựu đạn do đội du kích sử dụng được làm bằng hai dây lớn, buộc một mảnh bạt vào đuôi. Hai đầu dây cột vào một cây có hai chạc cao hơn đầu người kéo căng ra để quăng lựu đạn đã rút chốt sẵn. Phần mỏ vịt được quấn chặt bằng dây cao su và tính toán sao cho lựu đạn bay xa từ 100m đến 150m thì dây cao su mở hết, rồi phát nổ trong đồn địch. Thời gian cháy chậm của lựu đạn là 7s nên khoảng cách tối thiểu mà ta có thể bắn trúng đó là 330m.

Cách dùng giàn thun bắn lựu đạn để tấn công một đồn địch rất đơn giản mà cực kỳ hiệu quả. Những chiến sĩ du kích của ta thường chọn những bụi rậm, có nhiều cây để buộc giàn thun. Đến một cây to có thân chia ra hai nhánh hoặc hai cây đứng cạnh bên nhau, các du kích lặng lẽ buộc dây thun vào. Họ phân công nhau người thì trèo lên cây cao để quan sát mục tiêu, người thì cầm trái lựu đạn tra vào giàn thun, người đo cự ly để kéo giãn dây thun, còn lại tất cả tập trung kéo dây thun giãn ra để tạo lực đàn hồi bắn trái lựu đạn bay xa. Người chỉ huy hô “bắn”, tất cả đồng loạt buông ra, trái lựu đạn được bắn đi vào không trung và rơi xa mấy trăm mét. Người quan sát trên cây hô “trúng rồi”, ở dưới đất người chỉ huy tra quả lựu đạn tiếp theo; hoặc người trên cây yêu cầu điều chỉnh “qua trái - qua phải, xa hơn - gần hơn” năm mười mét để những người dưới đất điều chỉnh lại “thước ngắm”. Cứ thế mà các du kích nã đạn, chỉ đến khi đánh cháy được đồn địch, họ mới tháo giàn thun và âm thầm rút lui không để lại dấu vết. Bọn địch ở trong đồn được nhận những quả lựu đạn “từ trên trời rơi xuống” chỉ biết âm thầm chịu đựng chứ chẳng biết ai tấn công mình và ở phía nào, chúng chỉ bắn trả một cách mông lung không chủ đích trong khi đội du kích của ta đã rút lui an toàn. Nhờ giàn thun bắn lựu đạn mà du kích Bến Tre đã hạ được nhiều đồn địch trong phong trào Đồng Khởi năm 1960.

* Hạ trực thăng địch bằng cụm 3 trái nổ đơn giản mà hiệu quả

Với trí thông minh óc sáng tạo của một người dân Bến Tre, đồng chí Nguyễn Văn Chồn và đồng đội đã tận dụng đạn pháo lép của Mỹ chế thành trái nổ, lấy vũ khí địch đánh địch, diệt máy bay trực thăng Mỹ ở ấp 5 xã Long Mỹ huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào năm 1969.

Trái được đặt cách mặt đất 0,7m trên giá tréo và được gài bằng 4 sợi dây cho 1 chốt an toàn của trái, mỗi dây dài 25m căng qua các chông sào (chống máy bay). Giữa trái này và trái khác có khoảng cách 50m và được bố trí thành thế tam giác 3 trái 3 cụm. Đồng thời, trên các sợi dây dẫn đến chốt an toàn các chiến sĩ ta còn thêm tàu cau, lá chuối tạo sức giật mạnh chốt, khi có sức gió căng bảo đảm trái sẽ nổ đúng yêu cầu”. Ngày 13/4/1969, trực thăng Mỹ đổ quân vào trận địa, sức gió căng do cánh quạt máy bay giật mạnh tàu cau, lá chuối làm 1 cụm trái nổ, kết quả 2 chiếc tan xác tại chỗ, 2 chiếc khác bị thương.

Bọn Mỹ đưa trực thăng khác đến chở thương, 1 cụm trái khác nổ tiếp làm tan xác thêm 1 chiếc. Trận này ta diệt và làm hư hại nặng 5 máy bay trực thăng, 52 lính Mỹ bị tiêu diệt khi chưa kịp xuống mặt đất.

Cách đánh trực thăng đơn giản nhưng tiêu diệt nhiều giặc được phổ biến ra toàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Văn Chồn được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang.

* Lấy bom bi Mỹ, đánh Mỹ

Đó là sáng kiến của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Việt Hùng, (tên thường gọi Tư Trung) sinh năm 1944, trong một gia đình có truyền thống cách mạng tại ấp 3, xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Giai đoạn 1965-1966, hầu hết địa bàn Đức Huệ là vùng trắng (vùng không có cơ sở cách mạng, là địa bàn bị địch chiếm đóng), vì thế nên đội du kích của ông phải ở dưới hầm bí mật. Việc tiếp tế vũ khí, đạn dược cực kỳ khó khăn; lương thực, thực phẩm, thuốc men đều phải do nhân dân Đức Hoà, Đức Huệ chi viện. Trước khó khăn đó, nhiều đêm ông trăn trở phải đánh giặc cách nào cho hiệu quả. Và ý tưởng chế tạo bom mìn bằng chính vật liệu từ bom đạn của Mỹ đã hình thành trong ông từ những đêm trăn trở ấy.

Sau mỗi lần địch thả bom bi, có nhiều trái nhỏ sau khi bung ra từ “trái mẹ” song vẫn không nổ, ông tranh thủ lượm về, cùng với đồng đội tìm hiểu nguyên lý hoạt động của chúng và phát hiện ra rằng trái bom bi chưa nổ là do chưa đủ vòng quay. Sau đó, ông và đồng đội đã “chế” ra trái gài bằng cách bật nắp trái bom bi chưa nổ, điều chỉnh kim hoả, buộc dây kẽm bên ngoài, làm một cần bật rồi móc chỉ vào cần bật này (tuỳ theo địa hình để sợi chỉ dài 5-10m hoặc lớn hơn). Với trái gài này, khi có lực tác động vào sợi chỉ, cần bật sẽ bung ra, làm kim hoả chạm hạt nổ và trái bom bi sẽ nổ ngay. Sau đó, ông và đồng đội còn làm mìn gồm: Nguyên trái bom bi ở giữa, khối thuốc nổ, kẽm gai cắt nhỏ trộn xi măng xung quanh, gây sát thương rất lớn khi nổ. Ngoài ra, ông còn mày mò, chế tạo bệ phóng để phóng trái đánh tàu với sức công phá đủ đánh chìm tàu hàng trăm tấn…

Sau khi có vũ khí tự tạo, ông điều nghiên cứu kỹ quy luật đi càn quét của Mỹ, ngụy để tạo trận địa mìn liên hoàn, dày đặc. Cứ một trái mìn tự chế, ông lại đặt kèm theo gần đó cả chục trái gài. Có lần, ông và một đồng chí nằm dưới hầm bí mật sau một bụi tre, khi địch đến gần bụi tre, ông bật nắp hầm, quăng lựu đạn ngay. Bọn địch hoảng hốt tản ra, vấp ngay phải dây của trái gài thứ nhất, khiến trái gài nổ, làm mấy tên chết ngay tại chỗ. Hoảng loạn, chúng chạy thục mạng, tiếp tục vấp phải trái thứ hai rồi đến trái thứ ba. Tổng số 12 tên địch đã phải bỏ mạng vì thứ vũ khí tự chế của ông…

Từ thắng lợi ban đầu, diệt địch bằng chính bom đạn địch ấy, ông và đồng đội đã chế tạo được một số lượng lớn mìn, lựu đạn gài và bệ phóng đánh tàu chiến. Nhờ những loại vũ khí lợi hại đó nên mặc dù lực lượng của ta ở ngay sát nách địch, ngày ngày khiến địch chết và bị thương mà chúng không thể tìm ra nơi quân ta phục kích. Chẳng thế mà ngày ấy địch hay nói câu cửa miệng “Không đụng độ “Việt Cộng” mà vẫn đầu rơi máu chảy”.

* Đánh giặc bằng mìn gạt

Cựu chiến binh, Trung tá Tô Hoài Đức ở Củ Chi chính là người sáng tạo ra loại vũ khí: Mìn gạt. Ông sớm giác ngộ cách mạng, tham gia du kích từ khi mới 13 tuổi (năm 1960) và hai năm sau nhập ngũ trực tiếp chiến đấu. Tháng 9/1967, ông vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ông được biết đến như người có “biệt tài” sáng chế vũ khí. Ban đầu, ông mượn cán bộ quân giới hai trái mìn cán của Liên Xô về tìm hiểu, sau đó mang đi đánh thử xe tăng. Tuy nhiên, nhược điểm của loại mìn này là khi xe tăng cán lên mới gây nổ. Ông bèn tìm cách dùng thuốc từ những trái đạn, quả bom chưa nổ để làm mìn đánh xe tăng, “chế” bộ điểm hỏa gắn vào và chừa một lỗ nhỏ để cắm chiếc que dài. Làm xong, ông mang mìn đi cài đánh thử và đánh thắng ngay lần đầu. Loại mìn này chỉ cần xe tăng chạy qua, “gạt” nhẹ vào chiếc que là nổ ngay.

Từ đó quân và dân Củ Chi dùng mìn “gạt” để đánh xe tăng, tàu chiến Mỹ và cả lính bộ binh đi càn, máy bay đổ bộ nữa,…Chỉ cần biết được những vị trí địch có thể tập trung quân, máy bay có thể đổ quân, cài sẵn mìn ở đó và chờ kết quả. Hiệu quả của mìn “gạt” giúp quân và dân Củ Chi càng hăng hái thi đua giết giặc, đánh xe tăng địch.

* Đánh giặc bằng độc Ch’pơơr

Ch’pơơr là một loại cây rừng, thường mọc ở những vùng núi cao dọc các thượng nguồn sông suối, thác ghềnh. Mủ cây Ch’pơơr được người Cơtu chứa trong một chiếc lá, sau một quá trình thêm thắt các nguyên vật liệu (như nọc rắn, bồ hóng ở dưới bếp hay mủ cây sơn) thì được nấu kĩ, phơi sương được cô đặc lại; mất gần 2 ngày mới có thể làm được Ch’pơơr. Loại kịch độc này được dùng để phết lên đầu mũi tên để đi săn là chủ yếu. Không những giúp đồng bào Cơtu trong việc săn bắn, tự vệ, mà kịch độc Ch’pơơr còn làm nên những chiến thắng lẫy lừng của người Cơtu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Kịch độc Ch’pơơr đã giúp dân làng Cơtu giết thú dữ và làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngày nay chiến tranh đã kết thúc, thú dữ cũng không còn nhưng đồng bào Cơtu vẫn giữ gìn bí quyết chế tác Ch’pơơr để thể hiện sự trân trọng tổ tiên.

Những loại vũ khí tự chế như hầm chông, tổ ong, súng ngựa trời, giàn thun bắn lựu đạn, mìn gạt, trái nổ,…và nhiều loại vũ khí khác như mìn xi măng, mìn tĩnh nước mắm, mìn chông, dao, búa, mã tấu, súng tự tạo,…đã thể hiện được mưu trí sáng tạo của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quân đội Mỹ hùng mạnh với những vũ khí tối tân hiện đại nhưng phải khiếp sợ trước những vũ khí tự chế của quân và dân Việt Nam. Những vũ khí ấy đã góp phần cho thắng lợi của toàn dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh giữ nước, viết thêm cho lịch sử hào hùng của một dân tộc anh hùng. Là thanh niên của thế hệ Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước của dân tộc ta, thể hiện sự mưu trí, sáng tạo trong lao động, học tập. Tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc cùng tiếp bước cha anh xây dựng chủ nghĩa xã hội, viết tiếp lịch sử hào hùng của dân tộc bằng những chiến công trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

28 tháng 7 2016

Câu 1:

Khôngbanh

Câu 2:

Khôngbanhqua

Câu 3:

mk chịu

28 tháng 7 2016

1. ko

    2. ko

    3. ko

7 tháng 11 2021

Sau khi đọc truyện “Thánh Gióng”, em  rất tự hàovề truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Là học sinh, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của cha ông,  chúng ta phải nổ lực học tập để trở thành người tài giỏi sau này phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chăm lo rèn luyện sức khỏe, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, sẵn sàng đáp lời non nước khi đất nước cần.

Tóm tắt lại truyền thuyết Nàng HanTRUYỀN THUYẾT NÀNG HANNỮ TƯỚNG ANH HÙNG CỦA NGƯỜI THÁIChuyện truyền thuyết Nàng Han từ thời xưa của dân tộc Thái kể về nữ tướnganh hùng ,trong lúc bản mường bị giặc ngoại xâm cướp phá,có người phụ nữ trẻ mặc giả trai đến kêu gọi thanh niên trai trẻ đi đánh đuổi giặc ra khỏi bản mường.Truyền thuyết như vậy nên nhiều bản mường người Thái có đền thờ...
Đọc tiếp

Tóm tắt lại truyền thuyết Nàng Han

TRUYỀN THUYẾT NÀNG HAN
NỮ TƯỚNG ANH HÙNG CỦA NGƯỜI THÁI

Chuyện truyền thuyết Nàng Han từ thời xưa của dân tộc Thái kể về nữ tướng
anh hùng ,trong lúc bản mường bị giặc ngoại xâm cướp phá,có người phụ nữ trẻ mặc giả trai đến kêu gọi thanh niên trai trẻ đi đánh đuổi giặc ra khỏi bản mường.Truyền thuyết như vậy nên nhiều bản mường người Thái có đền thờ và lễ hội Nàng Han,như địa danh có thật dưới đây.

 

Bờ sông Nậm Na ở đầu bản Chiềng Nưa,xã Chăn Nưa,huyện Sìn Hồ,tỉnh Lai Châu có bãi cát mịn tên gọi là Đon Tướng ( bãi cát tướng quân ) phía đầu nguồn có mỏm đá nhô ra bờ sông,nơi đây ngày xưa có đền thờ Nàng Han.Ngày rằm tháng giêng hằng năm lễ hội cúng tế Nàng Han được tổ chức tại đây .

Truyện kể rằng : Ngày xửa ngày xưa bản mường phía Bắc đang sống yên vui thanh bình thì bị giặc ngoại sâm tràn xuống cướp bóc. Bọn giặc hunh ác, đi đến đâu là khói lửa ngút trời,chúng đốt phá nhà cửa,chém giết dân lành,người già trẻ nhỏ cũng không tha,tiếng kêu khóc oán hận thấu tận trời xanh .Các tù trưởng tổ chức quân lính chống cự nhưng thế giặc mạnh không thắng được bọn chúng,các bản mường lần lượt thất thủ rơi vào tay giặc. Trong tình cảnh bản mường ngàn cân treo sợi tóc.

Một hôm bỗng xuất hiện một chàng trai trẻ,khôi ngô tuấn tú mặt hồng hào tươi như bông hoa,mặc áo giáp.Không ai biết người từ phương nào đến,cũng không biết họ tên là gì. Chàng trai kêu gọi những thanh niên trai trẻ chưa lập gia đình vào quân lính để chống giặc cứu bản mường.Chàng huấn luyện cho họ biết sử dụng cung nỏ,gươm giáo cũng như cách sung pha trận mạc giáp mặt với quân thù.Tất cả đều bầu chàng trai làm tướng và gọi chàng là anh tướng.
Khi quân lính đã được huấn luyện thành thạo,anh tướng chọn được ngày lành đã tập trung quân lính tại Đon Tướng , anh tướng lệnh cho mổ trâu trắng tế thần trời thần đất,thần núi thần sông và khao quân sĩ cơm thịt no say trước khi ra trận. Rồi anh tướng cưỡi ngựa dẫn đầu đưa quân ra trận đánh giặc,có câu thơ làm chứng :
“ Tắm nước Nàng Han lội chỗ sâu
Đánh giặc Nàng Han dẫn đầu”.(1)
Anh tướng xông vào chém giết bọn giặc như vào chỗ không người,không mũi tên,gươm giáo nào đụng được đến người vị tướng trẻ.Anh tướng cùng quân lính dũng mãnh kéo đến bản nào là bọn giặc thua chạy tan tác.Bọn chúng run rẩy,kêu khóc giẫm đạp lên nhau bỏ chạy về mường chúng ở phương Bắc.
Đánh đuổi bọn giặc ác ra khỏi bản mường,quân lính kéo về trước sự vui mừng chào đón của dân các bản mường.Anh tướng dẫn quân về tập trung ở bãi cát tướng quân,rồi lệnh cho mọi người xuống sông Nậm Na tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dự liên hoan mừng chiến thắng.Khi đó anh tướng cũng lấm lem bụi đất lẫn máu quân địch,nên đã trèo qua mỏm đá chắn phía đầu nguồn Đon Tướng sang tắm ở vũng có tên gọi là Nghe Van Hung ,nơi này khuất ở Đon Tướng nhìn sang không thấy.Anh tướng tắm rửa sạch sẽ,bỏ lại quần áo,giáp trụ bên bờ sông rồi biến mất cũng đột ngột như lúc anh đến vậy.


Dân chúng và quân lính chờ lâu quá không thấy anh tướng quay về nên đã kéo nhau đi tìm.Người đâu không thấy ,chỉ thấy quần áo,đồ đạc bỏ lại ở bờ sông, họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy quần áo lót của tướng quân là đồ của con gái! Xem xét kỹ mọi người mới vỡ lẽ,thì ra anh tướng trẻ tuổi dũng mãnh của họ là người con gái xinh đẹp,mặc giả trai để chiêu mộ binh sĩ và cầm quân đánh giặc(2),họ mới đặt tên cho anh tướng là: Nàng Han.
(Nàng là chỉ người con gái danh giá xinh đẹp. Han là từ chỉ những người gan dạ dũng cảm)

 

 

 

Một số hình ảnh trong Lễ hội gội đầu để tưởng nhớ Nàng Han và Lê hội đua thuyền truyền thống Quỳnh Nhai

Không tìm thấy người,quần áo thì bỏ lại ở bờ sông nên có người cho là Nàng Han đã lâm nạn ở dưới sông rồi.Có người cho rằng Nàng Han là nàng thuồng luồng(3) lên giúp dẹp giặc,giặc tan nàng trở về thủy cung ở dưới sông rồi. Có người lại nói,Nàng Han là nàng tiên trên mường trời xuống giúp dân Thái đánh giặc, đánh đuổi hết giặc, bản mường bình yên nàng bay lên mường trời rồi. Không biết ai đúng ai sai,nhưng chiến công của Nàng Han giúp dân đánh đuổi giặc ác là có thật nên các tù trưởng đã thông báo cho các bản, mường người Thái ở gần bờ sông lập đền thờ cúng Nàng Han,cầu khấn Nàng phù hộ:
“Bản, mường bình yên
Muôn dân mạnh khỏe
Trẻ nhỏ sinh sôi
Người già thượng thọ
Mùa màng tốt tươi
Thóc lúa ngập đồng
Cá đầy sông suối”.(4)
Chính vì thế nhiều bản,mường người Thái mới có đền thờ Nàng Han.Còn tại địa điểm trên,nơi mỏm đá chắn Đon Tướng với vũng nước Nàng Han tắm người ta dựng đền thờ để cúng tế lễ hội Nàng Han hàng năm.Trước đây vào chiều mười lăm tết đều có tổ chức lễ cúng tế long trọng và độc đáo.Nhưng về sau đã bị bãi bỏ,hiện nay đã thất truyền.
Địa danh này hiện nay cũng không còn nữa vì đã chìm sâu dưới đáy lòng hồ thủy điện Sơn La rồi.

Chú thích:

1+4) Trích trong lời cúng tế Nàng Han.
2) Mặc giả trai: Ngày xưa việc nhà binh trận mạc là đều tối kỵ đối với đàn bà con gái.Vì thế Nàng Han mới phải mặc giả con trai,nếu người ta biết là con gái thì sẽ không có ai đi theo.
3) Nàng thuồng luồng: Những con vật linh thiêng đối với người Thái không có trong tứ linh ( Long,li,quy,phượng ) Mà là con thuồng luồng ngự dưới lòng sông.Có truyện thơ “Nàng É Khạy” chữ Thái cổ tả chi tiết về thuồng luồng.

 

0
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: “(1) Chủ đề đánh giặc cứu nước là chủ đề lớn, co bản, xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam nói chung, văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Thánh Gióng thể hiện tập trung chủ đề đánh giặc cứu nước, thuộc loại tác phẩm hay nhất của chủ đề này. (2) Gióng ra đời kì lạ Mẹ Gióng có thai Gióng không bình thường. Bà ướm chân mình vào vết...
Đọc tiếp
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: “(1) Chủ đề đánh giặc cứu nước là chủ đề lớn, co bản, xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam nói chung, văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Thánh Gióng thể hiện tập trung chủ đề đánh giặc cứu nước, thuộc loại tác phẩm hay nhất của chủ đề này. (2) Gióng ra đời kì lạ Mẹ Gióng có thai Gióng không bình thường. Bà ướm chân mình vào vết chân khổng lồ rồi mang thai, lại có thai không phải chín tháng mười ngày mà mười hai tháng. Sự sinh nở thần kì, ta vẫn thấy trong truyện cổ dân gian. Chẳng hạn, truyện dân gian kể, lúc Lê Lợi sinh ra có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm; còn Nguyễn Huệ, khi ra đời, có hai con hổ chầu hai bên. Những chi tiết hoang đường kể về Gióng như thể là cách dân gian tưởng tượng ra để nhân vật của mình trở thành phi thường. Nhân dân muốn tạo những nét kì lạ, biểu hiện niềm yêu mến, sự tôn kính với nhân vật và tin rằng nhân vật đã ra đời kì lạ thì tất cũng lập chiến công kì lạ.[…] (3) Gióng lớn lên cũng kì lạ Ba năm, Gióng không nói không cười, chỉ nằm im lặng. Nhưng bắt đầu cất lên tiếng nói thì đó là tiếng nói yêu nước, cứu nước. Tiếng nói ấy không phải là tiếng nói bình thường […]. Gióng lớn nhanh như thổi, “cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc đã căng đứt chỉ”. […] Gióng lớn lên bằng những thức ăn, thức mặc của nhân dân. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi dưỡng từ những cái bình thường, giản di. Tất cả dân làng đùm bọc, nuôi náng. “Nhân dân ta rất yêu nước, ai cũng monh Gióng lớn nhanh đánh giặc cứu nước. Gióng đâu còn là con chỉ của một bà mẹ, mà là con của mọi người, của nhân dân. Một người cứu nước sao đặng? Phải toàn dân góp phần chuẩn bị cho sức mạnh đánh giặc. Có vậy, khả năng đánh giặc, cứu nước mới lớn lên mau chóng. Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân đó” (Lê Trí Viễn). […]”. (Trích Thánh Gióng – tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước, Bùi Mạnh Nhị) Câu 1. Chép lại câu văn nêu ý chính của cả đoạn trích. Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của dấu chấm phẩy trong phần (2) của đoạn trích. Câu 3. Chỉ ra tác dụng của việc trích dẫn ý kiến của Lê Trí Viễn trong phần (3) của đoạn trích. Câu 4. Em hãy rút ra ý nghĩa của việc tìm hiểu truyền thuyết “Thánh Gióng” với bản thân em.
2
5 tháng 12 2021
Giúp mình câu 1,2,3 nha, cảm ơn nhiều.
5 tháng 12 2021
Mình cần gấp