K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 11 2018

Văn học Việt Nam là khoa học nghiên cứu các loại hình ngữ văn của người Việt Nam, không kể quốc tịch và thời đại. Ở hậu kỳ trung đại, phần lớn các tác phẩm thành văn của văn học Việt Nam được viết bằng chữ Hán và số ít bằng chữ Phạn. Về sau, văn học Việt Nam được thống nhất viết bằng chữ quốc ngữ.

Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết, nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.

Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.

Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới có những thể loại chung và riêng hợp thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo những nội dung và cách thức riêng. Hệ thống văn học dân gian Việt Nam gồm có: sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, thơ, chèo,...

Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, từ các tài liệu lưu trữ của các triều đại cho đến các tiểu thuyếthư cấu từ thời trung cổ để phục vụ cho các độc giả người Trung Quốc biết chữ. Mặc dù việc đưa vào sử dụng rộng rãi kỹ thuật in mộc bản trong thời nhà Đường (618-907) và sự phát minh ra kỹ thuật in ấn loại di động bởi Tất Thăng(990-1051) trong thời nhà Tống (960-1279) không làm tiêu tan tầm quan trọng hay sự nhấn mạnh vào việc viết thư pháp Trung Hoa, cả hai loại kỹ thuật in ấn này đã nhanh chóng truyền bá kiến thức bằng văn bản khắp Trung Hoa hơn bao giờ hết.

Trong thời kỳ hiện đại, tác gia Lỗ Tấn (1881-1936) có thể được xem là người sáng lập văn học bạch thoại hiện đại ở Trung Quốc. Văn học cổ đại Trung Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học các nước Hán hóa như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Cho đến khi văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là thời Pháp thuộc thì văn học Việt Nam mới dần chuyển qua chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây cho đến nay.

12 tháng 11 2018

So sánh văn học trung đại của Việt Nam và Trung Quốc không hề là một lĩnh vực nghiên cứu mới. Do thực tế giao lưu và ảnh hưởng của văn học Trung Quốc  đối với văn học Việt Nam, một cách tự giác hay không tự giác, bất cứ nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam nào trên mỗi bước đường nghiên cứu của mình đều “đụng chạm” đến công việc  so sánh. Tuy nhiên, mục đích, phương pháp so sánh không phải bao giờ cũng thống nhất trong các thời kỳ khác nhau của lịch sử, càng không thống nhất ở mỗi nhà nghiên cứu. Nói cách khác, so sánh văn học là một phạm trù lịch sử. Xưa, các nhà nho Việt Nam dường như không nhận thấy sự khác biệt giữa hai nền văn học. Với họ, việc nền văn hiến Việt Nam không khác, không thua kém Trung Quốc được xem là niềm tự hào chân chính của trí tuệ dân tộc. Có thời kỳ các nhà nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ truyền thống lâu đời giữa hai nền văn hoá, văn học này nhằm củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Lại có lúc, do tinh thần dân tộc kích thích mà hướng nghiên cứu chủ yếu nhắm vào tìm kiếm sự khác biệt để khẳng định tính chất độc lập của văn hoá và văn học Việt Nam. Hiện nay, mục đích so sánh theo nhận thức của  tôi  nên nhằm mục đích góp phần hiểu biết những quy luật vận động của văn học Việt Nam trung đại.

12 tháng 11 2018
Trung Quốc có một nền văn hóa lớn, lâu đời, nổi tiếng trên thế giới. Nhiều tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc đã được dịch sang tiếng Việt từ rất sớm. Các tác phẩm này giúp bạn đọc nhiều thế hệ Việt Nam hiểu rõ giá trị, tinh hoa của văn hóa cũng như văn học Trung Hoa. Nhà văn Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, chia sẻ sự trân trọng với các tác phẩm, tinh hoa của văn hóa Trung Quốc. Ông Hữu Thỉnh nói: Chúng ta đều là nhà văn và đều hiểu rằng, không có giao lưu nào bền chặt bằng giao lưu văn học và giá trị văn học dễ được chấp nhận, ở lại lâu bền trong lòng người… Các tác phẩm văn học của bạn giúp bạn đọc nhiều thế hệ Việt Nam hiểu rõ giá trị, tinh hoa của văn hóa cũng như văn học Trung Hoa… Bước vào thời kỳ cải cách, mở cửa, văn học Trung Quốc được dịch, cập nhật rất nhanh tại Việt Nam. Nhiều tác phẩm ưu tú được nhận giải thưởng Mao Thuẫn, Lỗ Tấn… được bạn đọc Việt Nam đón nhận, yêu mến. Giao lưu văn học đã tạo ra cầu nối bền chặt giữa bạn đọc hai nước, vì thế những thay đổi của văn học Trung Quốc cũng được giới sáng tác, bạn đọc Việt Nam quan tâm.Cùng chia sẻ những sự ảnh hưởng trong văn hóa, văn học trong cuộc sống đương đại, nhà phê bình Lý Kiến Trạch cho biết, văn học Trung Quốc cũng đi vào thời đại mới. Diện mạo của xã hội đã thay đổi là những điều mà các nhà văn Trung Quốc đang đau đầu để có thể bắt kịp. Thực tế, các nhà văn nước này đang tích cực thâm nhập, tìm hiểu cuộc sống hiện đại. “Nhiều câu chuyện sinh động của cuộc sống đang chờ các nhà văn thể hiện đã mở ra nhiều chân trời mới đối với văn học Trung Quốc”, ông Lý Kiến Trạch cho hay. Song cũng giống như Việt Nam, các nhà văn Trung Quốc thích được khen tặng hơn là chê, vì thế có một thời gian “nhà phê bình” đã trở thành “nhà biểu dương”. Lỗi ấy của các nhà phê bình đã bị vạch trần, ông Lý Kiến Trạch nói, song để trở thành một nhà phê bình chân chính, nói lời chân thực, lời đạo lý đúng với chức trách của mình, quả thực không đơn giản, vì sẽ làm sứt mẻ nhiều quan hệ với đồng nghiệp!Bà Lục Mai, Tổng biên tập Báo Văn nghệ Thượng Hải, một tờ báo “nặng ký” trong phê bình văn học Trung Quốc, cũng cho rằng, các nhà phê bình và nhà văn đúng là luôn song hành, nhưng lại luôn tồn tại trong mối quan hệ khó xử. Giới phê bình văn học Trung Quốc đang hướng tới việc trở thành những nhà phê bình thực thụ.Tuy nhiên, các nhà văn cũng đặt câu hỏi, phải chăng có độ chênh lớn giữa người sáng tác với giới phê bình mới dẫn tới mâu thuẫn lớn đến như vậy, đặc biệt là đối với những cây bút trẻ. 
12 tháng 11 2018

Nhà LLPB đối mặt với “sứt mẻ” tình bạn

Trung Quốc có một nền văn hóa lớn, lâu đời, nổi tiếng trên thế giới. Nhiều tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc đã được dịch sang tiếng Việt từ rất sớm. Các tác phẩm này giúp bạn đọc nhiều thế hệ Việt Nam hiểu rõ giá trị, tinh hoa của văn hóa cũng như văn học Trung Hoa. 

Nhà văn Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, chia sẻ sự trân trọng với các tác phẩm, tinh hoa của văn hóa Trung Quốc. Ông Hữu Thỉnh nói: Chúng ta đều là nhà văn và đều hiểu rằng, không có giao lưu nào bền chặt bằng giao lưu văn học và giá trị văn học dễ được chấp nhận, ở lại lâu bền trong lòng người… Các tác phẩm văn học của bạn giúp bạn đọc nhiều thế hệ Việt Nam hiểu rõ giá trị, tinh hoa của văn hóa cũng như văn học Trung Hoa… Bước vào thời kỳ cải cách, mở cửa, văn học Trung Quốc được dịch, cập nhật rất nhanh tại Việt Nam. Nhiều tác phẩm ưu tú được nhận giải thưởng Mao Thuẫn, Lỗ Tấn… được bạn đọc Việt Nam đón nhận, yêu mến. Giao lưu văn học đã tạo ra cầu nối bền chặt giữa bạn đọc hai nước, vì thế những thay đổi của văn học Trung Quốc cũng được giới sáng tác, bạn đọc Việt Nam quan tâm.

Cùng chia sẻ những sự ảnh hưởng trong văn hóa, văn học trong cuộc sống đương đại, nhà phê bình Lý Kiến Trạch cho biết, văn học Trung Quốc cũng đi vào thời đại mới. Diện mạo của xã hội đã thay đổi là những điều mà các nhà văn Trung Quốc đang đau đầu để có thể bắt kịp. Thực tế, các nhà văn nước này đang tích cực thâm nhập, tìm hiểu cuộc sống hiện đại. “Nhiều câu chuyện sinh động của cuộc sống đang chờ các nhà văn thể hiện đã mở ra nhiều chân trời mới đối với văn học Trung Quốc”, ông Lý Kiến Trạch cho hay. Song cũng giống như Việt Nam, các nhà văn Trung Quốc thích được khen tặng hơn là chê, vì thế có một thời gian “nhà phê bình” đã trở thành “nhà biểu dương”. Lỗi ấy của các nhà phê bình đã bị vạch trần, ông Lý Kiến Trạch nói, song để trở thành một nhà phê bình chân chính, nói lời chân thực, lời đạo lý đúng với chức trách của mình, quả thực không đơn giản, vì sẽ làm sứt mẻ nhiều quan hệ với đồng nghiệp!

Bà Lục Mai, Tổng biên tập Báo Văn nghệ Thượng Hải, một tờ báo “nặng ký” trong phê bình văn học Trung Quốc, cũng cho rằng, các nhà phê bình và nhà văn đúng là luôn song hành, nhưng lại luôn tồn tại trong mối quan hệ khó xử. Giới phê bình văn học Trung Quốc đang hướng tới việc trở thành những nhà phê bình thực thụ.

Tuy nhiên, các nhà văn cũng đặt câu hỏi, phải chăng có độ chênh lớn giữa người sáng tác với giới phê bình mới dẫn tới mâu thuẫn lớn đến như vậy, đặc biệt là đối với những cây bút trẻ. 

Nâng tầm sáng tác trẻ

Cùng trong buổi gặp gỡ, chủ đề về phát triển đội ngũ kế cận cho nền văn học cũng được các nhà văn hai bên đặc biệt quan tâm. Theo Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Nhân dân (Trung Quốc), các nhà văn trẻ của Trung Quốc đã có nhiều bước phát triển nở rộ. Nhiều cây bút trẻ không chỉ thu hút được lượng bạn đọc trên mạng, mà tác phẩm của họ khi được xuất bản cũng có lượng “fan” đông đảo. “Các bạn trẻ vừa sung sức, vừa mang tới nhiều góc nhìn mới tươi trẻ, hiện đại”- bà Lục Mai nói. Vì thế ban biên tập cũng như hội nhà văn nước này luôn tạo điều kiện như lập các chuyên trang, các diễn đàn cho các nhà văn trẻ để họ thỏa sức thể hiện những cách nhìn mới, bút pháp mới và đó cũng là tiền đề quan trọng cho sự phát triển lâu dài sau này.

Đối với việc phát triển văn học trẻ, nhà văn Khuất Quang Thụy (Việt Nam) cho rằng, có sự giống nhau kỳ lạ giữa nền văn học hai nước, đặc biệt là mối quan tâm tới văn học trẻ - tương lai của nền văn học. Để xây dựng đội ngũ nhà văn kế cận, Hội Nhà văn Việt Nam có Ban Nhà văn trẻ để giúp ban chấp hành hội tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, điều hành đội ngũ cây bút trẻ. Cùng đó, có những chuyên trang mang tên Văn nghệ trẻ dành cho các bạn viết trẻ cũng như bạn đọc trẻ. “Điều này không chỉ giúp các cây bút trẻ có thêm sân chơi sáng tạo mà còn góp phần xây dựng lực lượng cộng tác viên, bạn đọc hùng hậu”- nhà văn Khuất Quang Thụy nhấn mạnh. 

Sau mối quan tâm về lực lượng sáng tác trẻ, dưới cái nhìn của một dịch giả văn học, nhà văn Lê Bá Thự bàn tới sức ảnh hưởng của văn học dịch đối với thị trường văn học Trung Quốc, khi mà thị phần văn học nước ngoài ở Việt Nam lên tới 50% thậm chí còn hơn. Chia sẻ mối quan tâm này, đại diện Hội Nhà văn Trung Quốc khẳng định, văn học dịch cũng chiếm vị trí quan trọng đối với bạn đọc nước này. Với những tác phẩm văn học nước ngoài có giá trị, có sức ảnh hưởng lớn, việc phát hành ở nước sở tại gần như song song với việc chuyển ngữ và phát hành tại Trung Quốc. Không chỉ thế, hàng năm giải thưởng văn học uy tín của Trung Quốc là giải thưởng Lỗ Tấn đều có những giải dành riêng cho văn học dịch thuật. Các nhà văn Trung Quốc kỳ vọng sẽ nhận được nhiều hơn sự cộng tác của các nhà văn Việt Nam trên văn đàn nước bạn. Đồng thời, hai bên cũng mong muốn sẽ có thêm nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi.

Cũng tại buổi gặp gỡ, hai bên mong muốn có nhiều hơn các cuộc giao lưu, trao đổi về học thuật, có thể thẳng thắn trao đổi nhiều hơn nữa những vấn đề về trách nhiệm với văn học mỗi quốc gia, khu vực, làm bật lên tiếng nói của văn học châu Á, đáp lại mong muốn của độc giả Trung Quốc là được tiếp cận nhiều hơn nữa với các tác phẩm của Việt Nam. Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc Lý Kiến Trạch cho biết, hội sẽ tăng cường các biện pháp để thúc đẩy hơn nữa việc biên dịch, xuất bản các tác phẩm văn học của Việt Nam sang Trung Quốc.

Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: “(1) Chủ đề đánh giặc cứu nước là chủ đề lớn, co bản, xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam nói chung, văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Thánh Gióng thể hiện tập trung chủ đề đánh giặc cứu nước, thuộc loại tác phẩm hay nhất của chủ đề này. (2) Gióng ra đời kì lạ Mẹ Gióng có thai Gióng không bình thường. Bà ướm chân mình vào vết...
Đọc tiếp

Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: “(1) Chủ đề đánh giặc cứu nước là chủ đề lớn, co bản, xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam nói chung, văn học dân gian Việt Nam nói riêng. Thánh Gióng thể hiện tập trung chủ đề đánh giặc cứu nước, thuộc loại tác phẩm hay nhất của chủ đề này. (2) Gióng ra đời kì lạ Mẹ Gióng có thai Gióng không bình thường. Bà ướm chân mình vào vết chân khổng lồ rồi mang thai, lại có thai không phải chín tháng mười ngày mà mười hai tháng. Sự sinh nở thần kì, ta vẫn thấy trong truyện cổ dân gian. Chẳng hạn, truyện dân gian kể, lúc Lê Lợi sinh ra có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm; còn Nguyễn Huệ, khi ra đời, có hai con hổ chầu hai bên. Những chi tiết hoang đường kể về Gióng như thể là cách dân gian tưởng tượng ra để nhân vật của mình trở thành phi thường. Nhân dân muốn tạo những nét kì lạ, biểu hiện niềm yêu mến, sự tôn kính với nhân vật và tin rằng nhân vật đã ra đời kì lạ thì tất cũng lập chiến công kì lạ.[…] (3) Gióng lớn lên cũng kì lạ Ba năm, Gióng không nói không cười, chỉ nằm im lặng. Nhưng bắt đầu cất lên tiếng nói thì đó là tiếng nói yêu nước, cứu nước. Tiếng nói ấy không phải là tiếng nói bình thường […]. Gióng lớn nhanh như thổi, “cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc đã căng đứt chỉ”. […] Gióng lớn lên bằng những thức ăn, thức mặc của nhân dân. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi dưỡng từ những cái bình thường, giản di. Tất cả dân làng đùm bọc, nuôi náng. “Nhân dân ta rất yêu nước, ai cũng monh Gióng lớn nhanh đánh giặc cứu nước. Gióng đâu còn là con chỉ của một bà mẹ, mà là con của mọi người, của nhân dân. Một người cứu nước sao đặng? Phải toàn dân góp phần chuẩn bị cho sức mạnh đánh giặc. Có vậy, khả năng đánh giặc, cứu nước mới lớn lên mau chóng. Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân đó” (Lê Trí Viễn). […]”. (Trích Thánh Gióng – tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước, Bùi Mạnh Nhị) Câu 1. Chép lại câu văn nêu ý chính của cả đoạn trích. Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của dấu chấm phẩy trong phần (2) của đoạn trích. Câu 3. Chỉ ra tác dụng của việc trích dẫn ý kiến của Lê Trí Viễn trong phần (3) của đoạn trích. Câu 4. Em hãy rút ra ý nghĩa của việc tìm hiểu truyền thuyết “Thánh Gióng” với bản thân em.

3
5 tháng 12 2021

Giúp mình,mình cần gấp.Cảm ơn!

5 tháng 12 2021

nhìn cái này đã thấy nản rồi bạn ạ:)))

 

Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong số những tác phẩm của ông khi viết về quê hương, đất nước là bài thơ Việt Nam quê hương ta:“Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơnCánh cò bay lả rập rờnMây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiềuQuê hương biết mấy thân yêuBao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đauMặt người vất vả in sâuGái...
Đọc tiếp

Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong số những tác phẩm của ông khi viết về quê hương, đất nước là bài thơ Việt Nam quê hương ta:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”
Những câu thơ trên đã đi vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam bộc lộ niềm tự hào về quê hương. Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh hài hòa màu sắc, cảnh vật của làng quê Việt Nam. Những hình ảnh quen thuộc của làng quê xưa đã đi vào lời thơ. Hình ảnh cánh đồng lúa mênh mông, với những cánh cò trắng bay lả rập rờn cũng từng xuất hiện trong ca dao:
“Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”
Cùng với đó là đỉnh núi Trường Sơn hùng vĩ hiện lên trong sương mờ. Cảnh thiên nhiên đất nước hiện lên với vẻ thanh bình. Và để có được điều đó, biết bao thế hệ đã phải chịu thật nhiều đau thương. Họ vất vả làm lụng ngày này tháng khác. Hình ảnh “áo nâu nhuộm bùn” đã cho thấy được sự tần tảo của những con người thật thà, chất phác nơi thôn quê.
Từ bức tranh làng quê, tác giả đã gợi lại quá khứ hào hùng của dân tộc Việt Nam:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung”
Con người Việt Nam phải chịu những đau thương, mất mát từ chiến tranh. Mảnh đất quê hương đã nuôi dưỡng những con người anh hùng dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Dù chìm trong máu lửa đau thương, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Không chỉ có vậy, con người Việt Nam trọn vẹn tình nghĩa thủy chung thật đáng ngưỡng mộ.
Như vậy, bài thơ đã gợi ra một đất nước Việt Nam luôn tươi đẹp, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Con người Việt Nam tuy vất vả nhưng khéo léo, kiên cường và thủy chung.                  Từ 6-8 câu sao cho vẫn có một cụm danh từ , tính từ

 

0

Em tham khảo :

 

VD: Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Đã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn củn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê. 

(Bài học đường đời đầu tiên)

VD: Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

(Đoàn Giỏi)

Em hiểu gì về Văn Miếu - Quốc Tử Giám ? Mình viết thế này được không ? Chưa hay thì bổ sung nha !Văn Miếu - Quốc Tử Giám (chữ Hán: 文廟 - 國子監) là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến...
Đọc tiếp

Em hiểu gì về Văn Miếu - Quốc Tử Giám ? 

Mình viết thế này được không ? Chưa hay thì bổ sung nha !

Văn Miếu - Quốc Tử Giám (chữ Hán: 文廟 - 國子監) là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đây từng là nơi các sĩ tử đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi bằng cách vuốt đầu rùa tại các bia tiến sĩ, tuy nhiên, ngày nay, để bảo tồn di tích, một hàng rào được thiết lập và các sĩ tử không còn làm nghi thức cầu may như trước nữa.

 

 

6
23 tháng 3 2018

đúng rồi nhưng thêm nha:

Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, các bậc Hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, người thầy đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Quốc Tử Giám được xây dựng năm 1076 dưới triều vua Lý Nhân Tông, là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, là trường đại học đầu tiên ở nước ta
 

Tớ không nghĩ là cậu viết.

Bài này tớ thấy trên mạng rồi.

Nhưng như thế này cũng tạm ổn. 

Học tốt ^^

2 tháng 9 2019

Tham khảo:

Qua các truyện dân gian trung đại của mỗi tác giả Việt Nam theo thời gian, đã giúp ta hiểu ra được tấm lòng cao cả của người Việt Nam ở một góc độ nào đó là tình thương người , là biển cả tình thương và lòng rộng lượng bao dung giữa người với người. Mỗi tác giả thể hiện đạo lí nhân nghĩa tình yêu người với người bằng những tác phẩm chân thật nhất về cuộc sống của nhân dân ta dưới chế độ phong kiến, tác giả đã vẽ lên được cả bầu trời u tối trong cuộc đời của mỗi nhân vật và lòng cảm thương, đau xót và phẫn nộ của tác giả dưới mỗi cuộc đời bất hạnh thể hiện rất rõ qua mỗi dòng thơ dòng chữ. Như bài ' Tức nước vỡ bờ' và ' Lão Hạc ' đây là hai tác phẩm thệ hiện rất rõ đạo lí làm người và tình nghĩa gia đình. Đối với Lão Hạc có lẽ làm tròn đạo lí của một con người là cái quan trọng nhất vì từ lúc sống đến lúc chết ông vẫn giữ được lòng tự trọng mặc dù cái nghèo khổ đàn áp ông tới lúc ông chết ông vẫn không bao giờ làm trái với tâm mình. Còn chị Dậu trong tác phẩm ' Tức nước vỡ bờ' đã cho ta thấy tình yêu thương chồng con của chị nhờ tình yêu cao cả ấy chị đã dũng cảm đứng lên tên cai lệ và người nhà lí trưởng để chống lại chế độ phong kiến khắt khe thời ấy. Qua hai tác phẩm đã cho ta thấy đạo lí , tình nghĩa của con người Việt Nam thật cao cả và quý báu, đây là đức tính mà ta cần học tập và noi theo

23 tháng 4 2017

NOT BEST BUT YOU CAN REFER!!!!!!!♥♥♥♥♥leuleu

Sinh thời, đại thi hào Nga M. Gorki từng nói “ Văn học là nhân học”. Văn học là khoa học về con người, lấy con người làm đối tượng và mục đích cứu cánh. Có lẽ vì thế mà văn học bất kì dân tộc nào, ở thời kì nào cũng có chức năng giáo dục, dù ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Trong chức năng giáo dục, có lẽ yếu tố nổi trội nhất là giáo dục đạo đức, đạo lí cho con người, hướng con người đến với chân trời Chân – Thiện – Mỹ. Sở dĩ văn học gánh vác sứ mệnh này là vì trong mỗi tác phẩm văn học thường chứa đựng những ý tứ về đạo làm người, dù bàng bạc hay đậm đà. Nói về đạo lí làm người, không chỉ trong văn chương mới có. Tuy nhiên, khác với các lĩnh vực khác, văn chương phản ánh đạo làm người thông qua lăng kính thẩm mỹ, bằng chất liệu ngôn từ nên nó không còn là những bài giáo huấn khô khan mà là những sự thưởng thức và thẩm thấu một cách nghệ thuật. Nền văn học Việt Nam cũng không nằm ngoài ý hướng chung đó.
Trong nền văn học dân tộc ta, nội dung nhân đạo là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi thời kì, giai đoạn văn học. Người Việt Nam bao đời này trọng tình nghĩa, nhân đức nên ở nội dung nhân đạo, vấn đề đạo làm người luôn được các nhà văn bám sát, phản ánh, được đọc giả từ cổ chí kim nhiệt tình đón nhận, trân trọng và cổ xúy. Dọc chiều dài lịch sử văn học, có thể thấy ở mỗi bộ phận văn học, việc thể hiện đạo làm người vừa có những nét tương đồng, vừa có sự độc đáo, riêng khác, vừa có sự ảnh hưởng, kế thừa, vừa có yếu tố tiếp biến, đổi mới.
Đối với người nghiên cứu văn học, đặt ra nhiệm vụ khảo sát vấn đề này trên toàn bộ nền văn học dân tộc là điều cần thiết. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ có thể chọn một khía cạnh nhỏ của vấn đề: So sánh một số biểu hiện nội dung “ Đạo làm người” trong văn học trung đại và văn học dân gian Việt Nam.
  1. “Đạo làm người” là một mảng nội dung lớn trong văn học trung đại và văn học dân gian Việt Nam.
"Đạo làm người" là khái niệm được hình thành từ rất lâu, nhưng ngày nay, luận bàn về nó không phải là một điều đã cũ, cổ hủ. Bởi lẽ, từ khi có con người và xã hội loài người thì những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với chính bản thân mình luôn nảy sinh và do vậy, "Đạo làm người" luôn vận hành.

Như đã nói trên, “ Đạo làm người” là một trong những vấn đề cốt lõi trong nội dung nhân đạo của nền văn học Việt Nam, trong đó có Thời kì văn học trung đại và bộ phận văn học dân gian. Bởi vì, phàm là con người, nói về “Đạo làm người” để răn mình nhắc người chẳng bao giờ là đủ. Đây con đường dẫn con người Việt Nam đến với tính nhân bản của dân tộc và nhân loại. Mặt khác, việc thẩm thấu “ đạo làm người” thông qua các tác phẩm văn chương có lẽ là cách thẩm thấu thẩm mỹ nhất, nhẹ nhàng mà thâm thúy nhất, dễ đi vào lòng người nhất.
1.1. “Đạo làm người” trong văn học trung đại Việt Nam
Người Việt Nam từ xưa đến nay có truyền thống trọng đạo, trọng văn. Thấu hiểu điều đó, các nhà văn Việt Nam, đặc biệt là các nhà văn thời kì Trung đại đã biến truyền thống thành thế mạnh, đưa vấn đề đạo làm người vào trong các áng thơ văn của mình như một điểm sáng để tìm kiếm tri âm. Đặc biệt, thời kì văn học trung đại lớn lên trên nền xã hội phong kiến nên văn chương trở thành một công cụ đắc lực để bảo vệ và duy trì trật tự xã hội. Chức năng cơ bản của văn học thời kì này là “ văn dĩ tải đạo”. Các nhà văn, nhà thơ đều là vua quan, quý tộc, kẻ sĩ, đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nên họ sáng tác văn chương là để đề cao đạo đức phong kiến. Đạo ở đây chủ yếu là các vấn đề cơ bản của Nho giáo, là những lời răn dạy của đức Khổng – Mạnh. Tuy nhiên, trong các sáng tác của mình, các nhà văn trung đại không chỉ phản ánh một cách cứng nhắc, khiên cưỡng, đơn thuần tính quan phương mà còn lên tiếng khuyến thiện trừ gian. Nguyễn Trãi có câu thơ:
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có chí có anh hùng.
Câu thơ trên, có người cho là nói về chức năng của văn chương. Nhưng ẩn sâu trong đó, điểm sáng của nó chính là nói về “ Đạo làm người” của người quân tử. Ở đây, Nguyễn Trãi vừa cổ vũ cho quan niệm đạo đức phong kiến, nhưng đồng thời thơ ông còn thể hiện tư tưởng: người quân tử phải luôn hành đạo giúp đời, phải diệt trừ cái xấu, cái ác để “yên dân”. Với người quân tử, Nguyễn Trãi đã đặt chữ “ Trạch” lên trước chữ “ Trí”( trong quan hệ “ Trí quân trạch dân”).Nguyễn Đình Chiểu từng viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Sáng tác thơ văn không chỉ để chở đạo đức, đạo lý mà còn làm ra thứ vũ khí để chiến đấu với kẻ gian tà, độc ác trong xã hội. Đó là chính đạo trong văn chương.
Càng về cuối thời kì Văn học trung đại, quan niệm về “ Đạo làm người” của các nhà văn càng gần gũi với quan niệm của người bình dân thể hiện trong dòng văn học dân gian. “Đạo làm người” xa dần các tiêu chí của kinh điển Nho gia và đạo lý phong kiến và giảm dần tính chính trị, tính quan phương. Thay vào đó, trong tư tưởng của các nhà văn, tư tưởng Nho giáo dần được mài giũa, thẩm thấu qua lớp lọc văn học dân gian. Từ đó, trong sáng tác của họ, “ Đạo làm người” là hướng đến cuộc sống đề cao chữ “ Nghĩa” coi trọng chữ “ Tình”
1.2. “ Đạo làm người” trong văn học dân gian Việt Nam.
Văn học dân gian là bộ phận văn học của người dân, sáng tác và lưu truyền bằng hình thức truyền miệng, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bình dân. Dưới chế độ phong kiến, người dân chiếm số đông và thuộc giai cấp bị trị nên không có điều kiện học chữ để đọc văn học viết. Họ tự sáng tác văn học cho mình và để lại cho nền văn học dân tộc kho tàng văn học dân gian tinh anh, đồ sộ với hơn 12 thể loại khác nhau. Văn học dân gian không chỉ thỏa mãn nhu cầu giải trí của người bình dân mà còn chứa đựng những bài học quý về “đạo làm người”. Người bình dân gửi gắm vấn đề này vào các sáng tác văn chương để nhắc nhở nhau, bảo ban con cháu sống đôn hậu, hài hòa với cộng đồng, với người thân. Nổi bật trong “ đạo làm người” theo tư tưởng của người bình dân là sống có đạo đức, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình. So với văn học trung đại, vấn đề này được văn học dân gian thể hiện một cách khá tự do, phóng khoáng, phong phú hơn. “Đạo làm người” trong văn học dân gian không nhằm mục đích chính trị mà chủ yếu xuất phát từ mục đích tự thân nên không có tính quan phương, không có những nội dung, tiêu chí định sẵn, bó buộc. Tuy nhiên, xét cho cùng “ Đạo làm người” dù ở bộ phận hay thời kì văn học nào đều nói về ứng xử của con người đối với mình và với người khác để tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Cho nên, vấn đề này ở văn học trung đại và văn học dân gian vừa có những điểm tương đồng, vừa có những nét độc đáo, riêng khác trong cách thể hiện. Nó làm nên diện mạo phong phú và đầy đặn cho nội dung này trong văn học nước nhà.
  1. So sánh một số biểu hiện nội dung “ Đạo làm người” trong văn học trung đại và văn học dân gianViệt Nam
Như đã nói trên, vẻ nên diện mạo của “ đạo làm người” và biểu hiện của nó trong văn học là một việc làm thực sự có ý nghĩa. Trong tiểu luận này, chúng tôi chỉ chọn và so sánh một số biểu hiện của “ Đạo làm người” trong văn học trung đại và văn học dân gian, như là viên gạch mở đầu, đặt nền móng để người viết tiểu luận này có thể tiếp tục phát triển trong tương lai. Qua khảo sát một số lượng tác phẩm, người viết nhận thấy rằng “ Đạo làm người” của văn học trung đại và văn học dân gian đều xoay quanh những khía cạnh cơ bản như: Nhân nghĩa, trung, hiếu, tiết, để. Tuy nhiên, cách thể hiện ở ở hai mảng văn học lại có những nét riêng. Sau dây, người viết đi vào cụ thể từng khía cạnh, phân tích , so sánh để thấy sâu hơn những nét tướng đồng và khác biệt.
2.1. Nhân
Khi bàn đến "Đạo làm người", Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân”. Nhân là người, gồm 2 phần thể xác và tâm hồn. Nó bao hàm nhiều ý nghĩa: Nhân là tha nhân, nhân tính, nhân nghĩa, nhân đạo và nhân ái. Khổng Tử nói: “Ái nhân như kỷ” .Người có lòng nhân luôn sống lương thiện và thương yêu mọi người. Đức Nhân với ý nghĩa đơn thuần như trên cũng là một trong những tư tưởng đạo đức cốt lõi của nhân dân Việt Nam. Cho nên, lòng nhân trong văn học trung đại và văn học dân gian nhiều đều được thể hiện đậm nét và nét tương đồng.

Trong thời kì văn học trung đại, các nhà văn, nhà thơ thể hiện lòng yêu thương con người với tất cả những gì nhân bản nhất. Nhiều tác phẩm lên tiếng ca ngợi vẻ đẹp của con người, sẻ chia với nỗi thống khổ của những con người bất hạnh, lên tiếng tố cáo các thế lực chà đạp lên giá trị của con người và bênh vực quyền sống của con người. Các tác phẩm tiêu biểu là : Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Sở kiến hành, Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du, Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái.... Mỗi tác phẩm là một khúc là một hồi chuông kêu cứu thống thiết cất lên tự đáy lòng của nhà văn trước những mảnh đời bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hộ phong kiến. Lòng nhân thể hiện đầy đủ, hàm súc qua hai câu mở đầu Truyện Kiều:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trong thấy mà đau đớn lòng.
Văn thơ Trung đại vào thế kỉ XVIII-XIX là giai đoạn rực rỡ của chủ nghĩa nhân đạo nên lòng nhân được thể hiện đầy đủ và sâu sắc hơn bao giờ hết.
Văn học dân gian có đặc trưng truyền miệng nên ít có những tác phẩm lớn thể hiện lòng nhân như văn học trung đại. Tuy nhiên, không vì thế mà nội dung này trong văn học dân gian trở nên mờ nhạt. Nó được thể hiện rộng khắp trên toàn bộ 12 thể loại và kết tinh trong những câu chuyện, câu thơ dân gian bất hủ. Những câu chuyện cổ tích như : Tấm Cám, Sọ Dừa, phản ánh cuộc chiến đấu không khoan nhượng giữa cái thiện và cái ác, khẳng định vẻ đẹp và sức mạnh của con người, giử gắm niềm mơ ước về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Đồng thời những câu chuyện trên còn nêu bài học quý về cách lựa chọn lối sống phù hợp để trở thành người tốt, được hưởng phúc hậu, tránh hại mình hại người. Văn học dân gian còn biểu hiện lòng nhân một cách trực tiếp qua các câu tục ngữ:
- Thương người như thể thương thân
- Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
- Lá lành đùm lá rách
Hay những câu ca dao như:
- Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
- Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng

Ở văn học dân gian, lòng nhân, đức nhân là phẩm chất cơ bản của mỗi con người, vì lòng nhân, con người yêu thương, tôn trọng và bình đẳng với nhau. Còn ở phần lớn các tác phẩm văn học trung đại, lòng nhân ít nhiều mang tính quan phương, theo chuẩn mực phong kiến nên nó mặc định là phẩm chất cần có của người quân tử, người đọc sách thánh hiền. Cho nên đức nhân, đức hiếu sinh không còn nguyên ý nghĩa bình đẳng cho mọi người mà là sự ban ân của người trên dành cho kẻ dưới.(“Bậc quân tử mà chẳng nhân thì có đấy, chưa có kẻ tiểu nhân mà lại có nhân vậy” – Khổng Tử). Mặt khác, lòng nhân theo quan điểm phong kiến không đơn thuần là vấn đề đạo đức mà gắn liền với địa vị, nghĩa vụ của bậc trượng phu( nhân nghĩa, nhân chính, chính nhân...). Còn trong tư tưởng của người bình dân, lòng nhân là một vấn đề đạo đức đơn thuần, bình đẳng giữa mọi người và không hàm chứa bất cứ một động cơ chính trị nào.
2.2. Nghĩa.
Tương tự chữ Nhân, Nghĩa cũng là một trong 5 điều quan trọng mà đức Khổng Tử cho là hết sức cần thiết của mỗi người quân tử. Nghĩa là ân nghĩa, ân tình, nghĩa khí, tri ân (trả ơn), thi ân (làm ơn, phước) có tình nghĩa và cư xử tử tế với mọi người. Chế độ phong kiến đã cố định hóa những nội dung này trong một số tư tưởng, mối quan hệ mang tính chính trị - xã hội như: nhân nghĩa, nghĩa vua tôi, nghĩa tào khang....Chữ Nghĩa ở đây cũng ít nhiều mang tư tưởng giai cấp như chữ Nhân. Điều này thể hiện khá rõ qua thơ văn Nguyễn Trãi:
Trong “Lệnh dụ các tướng hiệu quân nhân ở Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá” (Quân trung từ mệnh tập) câu mở đầu là “Ta khởi nghĩa ở đất các ngươi, nay muốn thành công mong các ngươi giữ chung thuỷ một lòng, đá vàng một tiết để toàn cái nghĩa quân thần, phụ tử”.
Trong “chiến cấm các đại thần, tổng quan cùng các quan ở Viện, Sảnh, Cục tham lam lười biếng” (phần văn loại chép phụ vào Quân trung từ mệnh tập) gần cuối có câu: “Vua tôi nghĩa lớn, trọn vẹn trước sau…”
Ngay như một nhà thơ “ ngất ngưởng” như Nguyễn Công Trứ vẫn không quên:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Từ cuối thế kỉ XVIII chế độ phong kiến bước vào thời kì khủng hoảng. Văn nhân xa dần với quy chuẩn phong kiến mà tìm về với tư tưởng của quần chúng nhân dân. Cho nên, biểu hiện của chữ Nghĩa trong văn học trung đại giảm tính quan phương, chuẩn mực mà hấp thụ cách hiểu chữ nghĩa phóng khoáng và bình đẳng của người bình dân. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có đoạn thơ :
Vân Tiên nghe nói liền cười,
"Làm ơn há dễ trong người trả ơn.
"Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
"Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
"Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Cũng trong tác phẩm này có đoạn:
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.
Ở những câu thơ trên, nghĩa là nghĩa khí của con người, là tình nghĩa giữa người với người. Đó là những hành động hướng về người khác một cách vô tư, đối xử tình cảm, tử tế, có trước có sau, không tính toán thiệt hơn, không mưu cầu tư lợi. Người Việt Nam có truyền thống trọng chữ Nghĩa với cách hiểu này. Chữ Nghĩa trong văn học dân gian vừa cụ thể, cảm tính nhưng cũng vô cùng trừu tượng, thâm sâu:
-Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng
- Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước biếc ta đừng quên nhau
- Trai mà chị, gái mà chi
Con nào có nghĩa có nghì thì hơn
Biểu hiện chữ Nghĩa trong văn học dân gian vì thế mà trở nên vô cùng phong phú, đa dạng, linh hoạt và phóng khoáng. Cho nên, nó có sức lan tỏa, sức ảnh hưởng lớn trong đời sống con người từ xa xưa cho đến ngày nay. Qua nhiều thế hệ, nó hun đúc nên truyền thống trọng nghĩa tình trọng tình trong văn hóa của dân tộc Việt Nam.

2.3. Trung
Theo kinh điển Nho gia, nếu như Nhân , Nghĩa thuộc Ngũ thường thì Trung, hiếu , tiết đễ thuộc Thập nghĩa, nằm trong những mối quan hệ hai chiều như: Quân nhân, thần trung (Vua hiền, tôi trung), Phụ từ, tử hiếu (Cha hiền, con hiếu thảo) Phu nghĩa, phụ chính (Chồng có nghĩa, vợ vâng phục) Huynh lương, đệ đễ (Anh hiền lương, các em thương kính). Quân nhân, thần trung (Vua hiền, tôi trung) Phụ từ, tử hiếu (Cha hiền, con hiếu thảo) Phu nghĩa, phụ chính (Chồng có nghĩa, vợ vâng phục) Huynh lương, đệ đễ (Anh hiền lương, các em thương kính). Tuy nhiên, văn học trung đại nhằm mục đích góp phần duy trì trật tự cai trị của chế độ phong kiến nên chủ yếu nói về bổn phận, trách nhiệm của kẻ dưới đối với bề trên. Vì vậy, “ Đạo làm người” trong văn học trung đại cũng chỉ phản ánh mối quan hệ một chiều, định hình làm thước đo phẩm chất của con người: trung, hiếu, tiết, đễ. Văn học dân gian tuy là sáng tác của người bình dân nhưng vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến. Mặt khác, người Việt Nam có truyền thống kính trên nhường dưới và coi đó là phẩm chất đạo đức của con người. Cho nên, văn học dân gian cũng thể hiện “ Đạo làm người” qua các chuẩn mực đạo đức nói trên
Văn học trung đại nói nhiều đến chữ Trung, coi đây là phẩm chất quan trọng bậc nhất của người quân tử, nhà Nho,văn nhân....Họ lĩnh hội quan niệm chữ Trung của Khổng Mạnh và tuyệt đối hóa nó thành tư tưởng chính trị “ trung quân ái quốc”- trung với vua là yêu nước. Nguyễn Trãi có nhiều câu thơ nói về đạo trung, trung quân:
- Văn chương chép lấy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.
- Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con với đạo làm tôi
- Bui một tấc lòng trung với hiếu
Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen
- Bui(chỉ vì) một tấc lòng ưu ái
Đêm ngày cuộn cuộn nước triều đông
- Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả
Qua ngày qua tháng được an nhàn
Nguyễn Trãi sống trong thời chế độ phong kiến thịnh nên đức trung được cổ xúy và xuất hiện khá dày trong thơ ông và hầu hết các nhà thơ khác. Từ Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về sau, chế độ phong kiến khủng hoảng, thoái trào nên lòng Trung biểu hiện mờ hơn và không còn khắt khe như trước.
- Ái ưu vặc vặc trăng in nước
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
...Ưu ái chẳng quên niềm trước,
Thị phi biếng nói sự nay.
(Nguyễn Bĩnh Khiêm)
- Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất ngẩng lên thẹn trời
(Nguyễn Khuyến)
- Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
(Nguyễn Công Trứ)
- Trai thời trung hiếu làm đầu
(Nguyễn Đình Chiểu)
Tuy nhiên, về thời phong kiến suy tàn, nhiều nhà Nho, quan lại, kẻ sĩ có quan niệm “người trung thần tòng đạo bất tòng quân”, hoặc phủ nhận tư tưởng “ trung quân ái quốc” : Dân là dân nước nước là nước dân”( Phan Bội Châu).
Văn học dân gian không nói nhiều về đức trung bởi người bình dân không coi trung quân là bổn phận, là đại đức như các nhà Nho. Những câu chuyện dân gian ca ngợi những ông vua hiền và phê phán những vị hôn quân tàn bạo. Ca dao có những câu như:
- Ong kiến còn có vua tôi,
Huống chi loài người chẳng có nghĩa ư?
- Làm tôi thì ở cho trung,
Chớ ở hai lòng mà hóa dở dang.

Văn học dân gian không đồng nhất đức trung với lòng yêu nước như trong văn học trung đại.
2.4. Hiếu.
Hiếu thảo với ông bà cha mẹ là một truyền thống đạo đức đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, cả văn học trung đại và văn học dân gian đều thể hiện đức hiếu với những nội hàm giống nhau . Biểu hiện của lòng hiếu trong văn học hết sức phong phú, đa dạng. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều bán mình cứu cha cho vện chữ hiếu. Mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều vẫn không nguôi thương nhớ song thân:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh lấy ai đó nhờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, khi nghe tin mẹ mất, Lục Vân Tiên đã đau đớn vô hạn, khóc đến mù hai mắt.
Văn học dân gian cũng kể chuyện Phạm Công Cúc Hoa, nhân vật Cúc Hoa đã tự xẻo thịt để nuôi mẹ già. Ca dao có nhiều câu nói về công đức của cha mẹ và tấm lòng của bậc làm con:
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
- Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sanh ta
- Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
- Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Phụ tử tình thâm. Không dễ một lời mà nói hết thâm tình máu mủ. Cho nên, tình mẫu tử, tình phụ tử thiêng liêng mà gần gũi, một đôi lời khó nói hết. Văn học trung đại và văn học dân gian đều có một số lượng lớn tác phẩm viết về lòng hiếu thảo, tình cảm của con cái dành cho hai đấng sinh thành. Dù là quân tử văn nhân hay người bình dân đầu trần chân đất, những lời văn, lời thơ giãi bày lòng hiếu đều thiết tha, làm xúc động lòng người.
2.5.Tiết.
Tiết là tiết hạnh của người phụ nữ đối với chồng. Theo quan niệm phong kiến, người vợ phải nhất nhất phục tùng ý chồng: “ Xuất giá tòng phu”. Văn học trung đại coi người vợ là người có vị trí thấp hơn chồng, là người “ nâng khăn sửa túi” cho chồng. Người đàn ông được phép cưới năm thê bày thiếp nhưng người phụ nữ buộc phải chính chuyên một chồng. Chồng qua đời thì phải ở vậy nuôi con để được danh tiết hạnh. Người chồng toàn quyền định đoạt cuộc sống của người vợ. Trong truyện “ Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, chỉ vì chuyện hiểu lầm mà Trương Sinh đã ép vợ vào cái chết oan nghiệt để giữ trọn chữ Tiết. Trong truyện Kiều, lúc gặp lại Kim Trọng, Thúy Kiều nghĩ mình không đủ tiết hạnh, không xứng đáng với Kim Trọng nên đã: “ Đổi duyên cầm sắt hóa ra cầm kì”. Chữ tiết trong văn học phong kiến không còn là một phạm trù đạo đức mà trở thành chiếc vòng kim cô trói chặt cuộc đời, hạnh phúc của người phụ nữ.
Văn học dân gian không nói nhiều về tiết hạnh, thay vào đó, người bình dân nói nhiều về tình cảm vợ chồng. Không phải là “ nam nữ thụ thụ bất thân” hay “ tương kính như tân” mà là sự đồng lòng, đồng tâm: “ Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, đồng cam cộng khổ: “ Râu tôm nấu với ruột bầu. Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”, “ Đi đâu cho thiếp đi cùng. Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp theo”, thủy chung, trọn nghĩa vẹn tình “ Chồng em áo rách em thương. Chồng người áo gấm xông hương mặc người”....Quan hệ vợ chồng của người bình dân bình đẳng, dân chủ hơn so những nhà Nho. Chính vì thế, văn học dân gian không quá khắt khe với vấn đề tiết hạnh mà đề cao tình nghĩa vợ chồng.
Văn học là một dòng chảy không ngừng được hợp lại bởi nhiều chi lưu. Mỗi chi lưu xuyên qua những cảnh quan khác nhau nhưng đều chung quy luật trăm sông đổ về biển lớn. Văn học Việt Nam có thể nói cũng ví như sự hợp lưu của như là nơi dung hợp của những chi lưu khác nhau, trải qua nhiều thời kì, nhiều biến cố của đời sống của con người Việt Nam từ xa xưa. Các nhà văn ở mỗi