K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

9 tháng 10 2017

Chọn đáp án: D

12 tháng 10 2021

đắc chí

12 tháng 10 2021

đắc chí

19 tháng 8 2016

giúp em trả lời gấp cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách HCM từ 5-7 dòng với

28 tháng 8

Nêu các nội dung cơ bản trong phong cách Hồ Chí Minh anh chị thấy tâm đắc với phong cách nào nhất? Vì sao? 

Những người lính trong thời kháng chiến chống Mỹ là đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng. Chính Hữu cũng góp vào kho tàng ấy một tác phẩm tiêu biểu là bài thơ "Đồng chí"Chính Hữu Sinh năm 1926 mất năm 2007 tên thật là Trần Đình Đắc quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông vừa là nhà thơ vừa là người chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính Hữu chủ...
Đọc tiếp

Những người lính trong thời kháng chiến chống Mỹ là đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng. Chính Hữu cũng góp vào kho tàng ấy một tác phẩm tiêu biểu là bài thơ "Đồng chí"

Chính Hữu Sinh năm 1926 mất năm 2007 tên thật là Trần Đình Đắc quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông vừa là nhà thơ vừa là người chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính Hữu chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ của ông mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực cảm xúc dồn nén hình ảnh và ngôn ngữ có chọn lọc hàm xúc. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật các tác phẩm tiêu biểu như "Đầu súng trăng treo", "Ngọn đèn đứng gác",..

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông đã đánh bại cuộc chiến công với quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ được in trong tập thơ Đầu Súng Trăng Treo 1966.

Về bố cục bài thơ có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu nói lên cơ sở hình thành tình đồng chí và phần thứ hai gồm 13 dòng thơ còn lại là biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Các câu thơ đã phản ánh chân thực và sâu sắc nội dung của bài thơ.

Bài thơ đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân từ miền quê nghèo có ra đi cùng chung nhiệm vụ mục đích và lý tưởng chiến đấu cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ với nhau. Bên cạnh đó vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vượt lên để chiến thắng kẻ thù.

Thêm vào đó bài thơ cũng thành công bởi sự phối hợp nghệ thuật một cách đặc sắc. Đó là thể thơ tự do hình ảnh thơ chân thực giản dị ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc sử dụng các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng và một loạt các biện pháp liệt liệt kê ẩn dụ.

Có thể nói đồng chí là thành công sớm nhất của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Nó đã góp phần mở ra phương hướng khai thác rất thương và vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị đời thường chân thật.

Gắn với tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu là bài thơ Đồng Chí. Kháng chiến đã đi xa có những người phải vùi mình ở nơi đất khách quê người cũng có những người sống sót trở về Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì những người lính vẫn sẽ hướng về với nhau hướng về tình đồng đội cao đẹp năm nào. Bởi lẽ đó mà dù thời gian có trôi nhanh thế nào thì bài thơ Đồng chí vẫn sẽ để lại trong lòng bạn đọc dấu ấn khó phai.

0
dưới đây là các ý kiến bàn về truyện ếch ngồi đáy giếng.em đồng ý với những ý kiến nào?vì sao?1)từ câu chuyện về cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ qua miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch,truyện phê phán những kẻ hiểu biết ít mà lại huênh hoang,khuyên nhủ người ta phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình,ko được chủ qan,kiêu ngạo(2)truyện ngụ ngôn ÊNĐG khuyên bảo mọi...
Đọc tiếp

dưới đây là các ý kiến bàn về truyện ếch ngồi đáy giếng.em đồng ý với những ý kiến nào?vì sao?

1)từ câu chuyện về cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ qua miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch,truyện phê phán những kẻ hiểu biết ít mà lại huênh hoang,khuyên nhủ người ta phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình,ko được chủ qan,kiêu ngạo

(2)truyện ngụ ngôn ÊNĐG khuyên bảo mọi người,chớ nên vì có chút hiểu biết mà dương dương tự đắc,chớ nên vì có chút công lao mà đắc chí.

3)ÊNĐG muốn ám chỉ những ngườ hiểu biết nông cạn,tầm nhìn hạn hẹp nhưng luôn tỏ vẻ ta đây hơn người.

4)từ cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ thông qua miệng giếng của chú ếch nọ,truyện nhằm ám chỉ những người hiểu biết ítdo điều kiện tiếp xúc hẹp nhưng lại chủ quan,coi thường thực tế.số phận của những người đó,nếu ko giống như con ếch huênh hoang,hợm hĩnh nọ,thì chí ít,họ cũng phải trả giá bằng những thất bại chua xót với thực tiến phong phú và sinh động,mà khi hiểu ra thì sự đã rồi.

giup minh di can gap lam roi.....!nan ni moi nguoi :(((

1
24 tháng 10 2018

Câu 1 là đúng vì vừa khuyên nhủ vừa phê phán hiện tượng và nêu ra 1 bài học để lại cho đời

Rồng thì lúc to, lúc nhỏ, lúc bay, lúc nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hóa, cũng như người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời.Những câu nói trên đây cho thấy với Tào Tháo, những phẩm chất quan trọng nhất của người anh...
Đọc tiếp

Rồng thì lúc to, lúc nhỏ, lúc bay, lúc nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hóa, cũng như người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời.

Những câu nói trên đây cho thấy với Tào Tháo, những phẩm chất quan trọng nhất của người anh hùng là gì?

A. Người luôn luôn ôm ấp chí lớn; khao khát tung hoành; biết sống tùy thời; có thể cải biến hoàn cảnh.

B. Người luôn luôn ôm ấp chí lớn; khao khát tung hoành; biết nắm lấy mọi cơ hội; biết sống tùy thời.

C. Người luôn luôn ôm ấp chí lớn; khao khát tung hoành; giàu khả năng biến hóa; sống tùy thời.

D. Người luôn luôn ôm ấp chí lớn; khao khát tung hoành; cải biến hoàn cảnh; ẩn hiện, tiến thoái tùy thời; ứng biến nhạy bén, linh hoạt khôn lường.

1
1 tháng 2 2017

Chọn đáp án: D

26 tháng 12 2019

Phá thai không được xem là biện pháp sinh đẻ có kế hoạch mà chỉ là biện pháp tránh đẻ bất đắc dĩ vì chúng chỉ giúp người nữ không sinh con ngoài ý muốn nhưng có thể gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe người phụ nữ như mất máu, viêm nhiễm đường sinh dục, vô sinh,... thậm chí tử vong.

15 tháng 10 2016

Sau sự thất bại ở Xuân Lộc, ngày 23 tháng 4 tổng thống Mỹ tuyên bố: “cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ…” Nguyễn Văn Thiệu vội vã công bố từ chức tổng thống chuồn sang Mỹ. Trần Văn Hương lên thay, sau đó, ngày 28 – 4 – 1975, Dương Văn Minh thay Hương làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa.

          Địch vá víu 5 sư đoàn chủ lực tan rã từ miền Trung và Xuân Lộc về chốt giữ vòng cung: Biên Hòa – Long Bình – Tây Ninh – Long An.

          Ở Biên Hòa, sư đoàn 18 sau khi tháo chạy khỏi Xuân Lộc, nhưng củng cố lại thành 3 chiến đoàn án ngữ quốc lộ 1. Tàn quân bảo an Xuân Lộc chạy về kết hợp với bảo an thị xã Biên Hòa thành 2 liên đoàn 933 và 318, cùng với lữ đoàn 468 thủy quân lục chiến án ngữ quốc lộ 15. Lữ đoàn 3 kỵ binh và lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến chốt giữ khu vực Biên Hòa – Long Bình. Hai lữ đoàn dù đảm nhiệm giữ các cầu: Đồng Nai, Rạch Chiếc, cầu Gềnh, cầu Hóa An… và tuyến ngoại vi Sài Gòn.

          Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định mang tên là: CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH ([1][36]).

          Lực lượng quân chủ lực ta tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh tương đương 5 quân đoàn và tiến vào Sài Gòn từ 4 hướng:

          - Hướng bắc từ Bình Dương (theo quốc lộ 13) do quân đoàn 1 đảm nhiệm.

          - Hướng đông – đông bắc từ Biên Hòa theo quốc lộ 1 và 15 do quân đoàn 4 và quân đoàn 2 đảm nhiệm.

          - Hướng tây bắc từ Tây Ninh do quân đoàn 3 đảm nhiệm.

          - Hướng tây nam – Long An do đoàn 232 đảm nhiệm.

          Để chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng quét sạch quân thù, từ ngày 9 – 4, đồng chí Phan Văn Trang, Bí thư Thành ủy Biên Hòa vào nội thành triển khai kế hoạch chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy, thành lập 10 Ủy ban khởi nghĩa trong nội ngoại thành phố. Ngày 16 tháng 4, Thành ủy Biên Hòa ra nghị quyết về “Tổng công kích và nổi dậy ở thị xã Biên Hòa”.

          Chiến dịch Hồ Chí Minh trên địa bàn Biên Hòa hình thành hai mũi tiến công của 2 quân đoàn chủ lực. Quân đoàn 4 tiến vào Sài Gòn – Gia Định theo quốc lộ 1 và xa lộ Biên Hòa. Quân đoàn 2 sau khi đập tan tuyến phòng thủ ở Phan Rang vào đến Xuân Lộc, tiến công vào Sài Gòn – Gia Định theo hai mũi là quốc lộ 15 và bến phà Cát Lái. Sư đoàn 2 đặc công (mới được thành lập) có nhiệm vụ đánh chiếm các cầu Đồng Nai trên xa lộ, cầu Rạch Chiếc, cầu Gành, cầu Rạch Cát và quốc lộ 1 đảm bảo cho đại quân ta tiến về Sài Gòn được thuận lợi.

          Ngày 26 tháng 4 năm 1975 chiến dịch lịch sử mang tên chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu.

          Tại Biên Hòa trận địa pháo tầm xa 130 ly ở Hiếu Liêm (chiến khu Đ) nã đạn dồn dập vào các căn cứ sân bay Biên Hòa, các sư đoàn bộ binh đồng loạt tấn công. Sư đoàn 6 tiến công yếu khu Trảng Bom. Sư đoàn 7 tiến công các căn cứ địch dọc lộ 1 đến Hố Nai. Lực lượng vũ trang huyện Thống Nhất và nhân dân nổi dậy giải phóng toàn huyện vào ngày 27 – 4 – 1975.

          Ngay từ 17 giờ ngày 26 tháng 4 đạn pháo 130 ly của ta trùm lên căn cứ Nước Trong (Long Thành ). Pháo vừa ngưng, bộ binh xe tăng ta từ nhiều hướng tiến công mãnh liệt. Sư đoàn 304 Quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Sư đoàn 325 Quân đoàn 2 tiến vào chi khu Long Thành. Lực lượng vũ trang địa phương tiểu đoàn 240 Biên Hòa phối hợp với quân chủ lực đánh phân khu Phước Thiền.

          Đêm 26 rạng 27 – 4 tiểu đoàn thuộc trung đoàn đặc công 116 đánh chiếm khu trung tâm tổng kho Long Bình, cụm bố phòng Bến Gỗ, tiến chiếm và chốt giữ cầu Đồng Nai. Đêm 27 rạng 28 tiểu đoàn 174 và tiểu đoàn 23 đánh chiếm cầu Hóa An (cầu Mới), cầu Gành, cầu Rạch Cát…

          Ngày 27 tháng 4 sư đoàn 6 và sư đoàn 7 Quân đoàn 4 quét sạch địch ở ngã ba Dầu Giây, trận địa pháo Sông Thao, tiến lên tiêu diệt địch và làm chủ chi khu Trảng Bom, Bàu Cá; sư đoàn 325 Quân đoàn 2 làm chủ chi khu Long Thành.

          Ngày 27 tháng 4 sân bay quân sự Biên Hòa hoàn toàn bị tê liệt.

          Ngày 28 tháng 4 hướng Biên Hòa sư đoàn 6, sư đoàn 7 đánh các cụm quân địch dọc theo quốc lộ 1 từ Suối Đỉa, Trà Cổ và truy kích địch về căn cứ ở Hố Nai. Tám giờ 30 phút trung tướng Nguyễn Văn Toàn tư lệnh quân đoàn 3 đến Long Bình giao nhiệm vụ “tử thủ” cho tướng Lê Minh Đảo tư lệnh sư đoàn 18 rồi lên máy bay chuồn thẳng. Các tướng tá trong Bộ tư lệnh quân đoàn 3 cũng cuốn gói chuồn về Sài Gòn. Sở chỉ huy quân đoàn 3 chỉ còn viên thiếu tá quản trị hành chánh quân đoàn tiếp tục “tử thủ”.

          Hai giờ sáng ngày 26 tháng 4 tiểu đoàn 9 trung đoàn đặc công 113 tập kích căn cứ thiết đoàn 15 tại Hóc Bà Thức bắt sống tên chỉ huy. Sư đoàn 6 phát triển ra ga Long Lạc. Sư đoàn 6 cùng sư đoàn 7 tiến quân về Hố Nai trước sự chống cự điên cuồng của địch.

          Tại khu kỹ nghệ Biên Hòa, Ủy ban khởi nghĩa của Thành ủy Biên Hòa phát lệnh đánh địch. Lập tức cơ sở mật trong 17 nhà máy lãnh đạo tự vệ và công nhân nổi dậy. Trên 200 công nhân và nông dân khu vực Bình Đa, Tam Hiệp cùng nổi dậy hỗ trợ cơ sở mật ở khu kỹ nghệ. Cờ giải phóng được kéo lên trung tâm SONADEZI và các nhà máy. Cơ sở nội tuyến của Thành ủy Biên Hòa lái 2 chiếc xe thiết giáp M113 của địch đầy ắp súng đạn, dẫn đầu đoàn người tiếp tục truy kích tàn quân địch trong khu kỹ nghệ, bắt sống tên Lành cảnh sát trưởng khu kỹ nghệ, thu toàn bộ hồ sơ. Đến chiều 29 tháng 4, hầu hết các nhà máy Khu kỹ nghệ Biên Hòa và một số ấp lân cận hoàn toàn giải phóng.

          Sau hơn một ngày liên tục tiến công, đến 11 giờ ngày 29 tháng 4 sư đoàn 304 làm chủ căn cứ ngã ba Thái Lan, quét sạch địch từ căn cứ Nước Trong đến tổng kho Long Bình, phát triển về xa lộ Biên Hòa. Sư đoàn 325 đã làm chủ chi khu Nhơn Trạch và tiếp tục tiến công Thành Tuy Hạ, chiếm được đồi Bình Phú, đặt trận địa pháo 130 ly. Đêm 29 tháng 4 tại đồi Bình Phú pháo binh ta nã đạn dồn dập vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đến chiều 29 tháng 4 toàn bộ địch ở Long Thành – Nhơn Trạch bị quét sạch, sư đoàn 325 tập kết ở bến phà Cát Lái, nơi đây Huyện ủy Nhơn Trạch đã chuẩn bị trên 100 ghe thuyền sẵn sàng đưa lực lượng quân đoàn 2 tiến vào Sài Gòn.

          Sáng 30 tháng 4 từ Long Thành, Nhơn Trạch - lữ đoàn tăng 203 đến cầu Đồng Nai. Trung đoàn đặc công 116 sau 3 ngày đếm đánh chiếm giữ cầu đã lên xe tăng dẫn đường cho lữ đoàn 203 hành quân vào đánh chiếm dinh Độc Lập. Sư đoàn 325 (quân đoàn 2) dùng xuồng, ghe máy, ghe chèo tay… ào ạt vượt sông - tại bến phà Cát Lái cùng tiến vào Sài Gòn.

          15 giờ ngày 29 – 4 – 1975, tù nhân trong nhà tù Tân Hiệp nổi dậy phá khám ra quốc lộ 1 về hướng Trảng Bom. Đến tối ngày 29 – 4 đoàn đến Bộ chỉ huy tiền phương Mặt trận Biên Hòa, được đưa về chỉ huy sở sư đoàn 6 tại nhà thờ Bắc Hòa (Hố Nai). Pháo địch vẫn còn bắn xối xả dọc quốc lộ 1. Bộ phận tiếp nhận đưa tù nhân về hướng Gia Kiệm. Lực lượng ta tiếp tục tiến công. 6 giờ sáng ngày 30 –  4 – 1975, Bộ Tư lệnh sư đoàn 6 đến ngã ba Kẻ Sặt, cùng lúc đài phát thanh Sài Gòn thông tin tổng thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng. Quân đoàn 4 nhanh chóng triển khai lực lượng tiến về Sài Gòn. Sư đoàn 6 tiếp quản sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình.

          6 giờ sáng 30 – 4 – 1975, đảng viên mật Trương Thị Sáu (chi bộ Đảng chợ Biên Hòa ) được anh Muộn, cơ sở nội tuyến bảo vệ đã hạ cờ ba que thượng cờ Tổ quốc ở Tòa hành chánh tỉnh Biên Hòa.

          10 giờ 30 phút sáng 30 – 4 – 1975, Ủy ban Quân quản thành phố Biên Hòa, trung đoàn 5 tiến vào tiếp quản Tòa hành chánh Biên Hòa trong tiếng reo hò, hoan hô của hàng ngàn quần chúng trong thành phố Biên Hòa.

          Lịch sử đã lập lại một cách kỳ diệu. Ba mươi năm trước (26 – 8 – 1945), nhân dân Biên Hòa đã chiếm Tòa bố giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Ba mươi năm sau, một lần nữa quân dân Biên Hòa cắm cờ ở Tòa hành chánh, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng quê hương, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống nhất đất nước và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

like giúp nha!
28 tháng 10 2016

làm sao để coppy bình luận đc ạ ?