K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1.Nhớ rừngCâu 1:Bài thơ là lời của ai?Việc mượn lời như z có ý nghĩa j?Câu 2:Đoạn 3 của bài thơ đc xem như 1 bộ tranh tứ bình đệp lộng lẫy.Em hãy c/m2.Quê hươngCâu 1:Bài thơ quê hương là 1 bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng,giàu sức sống của 1 làng quê miền biển.Em hãy c/mCâu 2:Phân tích cái hay,cái đẹp của những câu thơ sau:             -Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng             ...
Đọc tiếp

1.Nhớ rừng

Câu 1:Bài thơ là lời của ai?Việc mượn lời như z có ý nghĩa j?

Câu 2:Đoạn 3 của bài thơ đc xem như 1 bộ tranh tứ bình đệp lộng lẫy.Em hãy c/m

2.Quê hương

Câu 1:Bài thơ quê hương là 1 bức tranh mang vẻ đẹp tươi sáng,giàu sức sống của 1 làng quê miền biển.Em hãy c/m

Câu 2:Phân tích cái hay,cái đẹp của những câu thơ sau:

             -Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

              Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

             -Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

              Cả thân hình nồng thở vị xa xăm 

              Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

              Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

3.Khi con tu hú

Câu 1:Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ là j?

Câu 2:cảnh đất trời vào mùa hè trong tâm tưởng của người tù cách mạng đc thể hiện qua những câu thơ nào?Cảm nhận của em về những câu thơ đó

Câu 3:Phân tích tâm trạng của người tù c/m

4.Chùm thơ của Hồ Chí Minh

Câu 1.Kể tên những bài thơ nói về tình yêu thiên nhiên của Bác Hồ mà em đã học

Câu 2.Trình bày hoàn cảnh ra đời bài thơ ''Tức cảnh Pắc Bó'' và''Ngắm trăng'' của Bác Hồ.Qua hoàn cảnh đó em hiểu j về Bác Hồ kính yêu

Câu 3.Cái ''sang'' của cuộc đời c/m trong bài thơ ''Tức cảnh Pắc Bó''

Câu 4.Bài học của em từ bài thơ ''Đi đường'' của HCM

II.Tập làm văn

Hãy thuyết minh về 1 danh lam thắng cảnh ở địa phương em(Chùa Đậu,đền thờ cuj Nguyễn Trãi)

1
12 tháng 2 2020

Chùa Đậu là một ngôi chùa nổi tiếng được có tên chữ là“法雨寺”(Pháp Vũ tự) hoặc “成道寺” (Thành Đạo tự), chùa nằm tọa lạc tại thôn Gia Phúc xã Nguyễn Trãi huyện Thường Tín (xưa là phủ Thường Tín – tỉnh Hà Đông).

Thực chất khởi thủy căn nguyên của hệ thống chùa là thờ thần linh nông nghiệp sau đó phát triển thành một sản phẩm của sự giao thoa văn hóa nhiều chiều trong lịch sử. Các vị thần thuộc hệ thống Tứ Pháp (như Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện) làm ra các phép như mây, mưa, sấm, chớp phục vụ mùa màng nông nghiệp lúa nước của nhân dân, điều đó vốn có sẵn trong tâm thức người dân bản địa. Do ảnh hưởng của Phật giáo mà các vị thần này đã được hóa Phật và tôn thờ. Tất cả các tượng chính (mỗi chùa 1 tượng) đều có màu mận sẫm, đó là màu gắn với nguồn nước, ảnh hưởng và liên quan tới màu của thần Siva thuộc đạo Bà La Môn – đạo thờ Tứ pháp nguyên thủy, trong đó có chùa Đậu.

Ngôi chùa được xây dựng với một quy mô tổng thể rất lớn, kết cấu theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Nghĩa là trong khuôn viên chùa, các công trình kiến trúc thờ tiền Phật, hậu thánh, được bố cục giống như hình chữ công, xung quanh được quây kín bởi các cụm kiến trúc khác tạo thành hình chữ “国” (quốc)theo mẫu chữ hán. Tổng thể khuôn viên chùa Đậu bao gồm: Tam quan, nhà tả vu – hữu vu, tiền đường, tam bảo, nhà tổ…

Nổi bật đứng sừng sững nguy nga trước cửa chùa là một Tam quan kiêm Gác chuông hai tầng tám mái, mà chúng ta vẫn hình dung như thấy ở đó là sự kết hợp âm thanh của Phật học và yếu tố Dịch học của Nho giáo. Mỗi sớm chiều tiếng chuông cảnh tỉnh vang vọng vẫn như gọi tâm ai đó hướng về cửa Phật. Cũng có những suy luận cho rằng Tam quan tượng trưng cho “Thái cực”, mái trên nhẹ là dương tượng trưng cho trời (quẻ Càn), mái dưới nặng là âm tượng trưng cho đất (quẻ Khôn); 4 phía mái là tứ tượng, 8 mái là bát quái…(đây chính là quy luật của âm dương sinh tứ tượng – tứ tượng sinh bát quái thể hiện rõ trong Kinh Dịch). Ở các ô hộc của gác chuông được nguời xưa chạm khắc các chữ hán như (vinh, hoa, phú, quý….) đây chính là những ước mơ mong muốn của người xưa muốn gửi gắm vào đó. Tầng hai Tam quan được treo một quả chuông lớn, chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) thời Tây Sơn. Tất cả hội lại tạo nên 1 sức mạnh viên mãn đem tới sự bình yên – an lạc cho con người. Đặc biệt, ngay bậc lên Tam quan là là đôi chồn đá nhỏ,1 bóng dáng của nghệ thuật thời Trần thế kỷ VIII-XIV khá đẹp (nhưng do chiến tranh, thời gian phong hóa của thời tiết đã bị mẻ mất phần đầu và bị chôn vùi một nửa). Tiếp đó là các mảng chạm bên trong và ngoài Tam quan với rồng chầu mặt nguyệt, phượng, lân, ngựa và hoa cỏ kết hợp với chữ hán trong từng ô hộc gửi gắm những hy vọng may mắn thành công trong cuộc sống… đây được coi là những chuẩn mực của nghệ thuật thuộc thế kỷ XVII.

Sau Tam quan là 1 sân rộng, 2 bên sân dựng nhà (tả vu, hữu vu). Chính giữa sân là một đường lát, nó khác biệt với hai bên tạo nên một đường dũng đạo dẫn từ Tam quan vào đến Tiền đường. Lối chính giữa được bó bằng đôi rồng đá khoảng 500 năm tuổi, những nét chạm khắc tinh tế điêu luyện như được nghệ nhân xưa như thổi hồn vào đó tạo ra sự thần thái hiền hòa mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm trước tòa Tiền đường. Thành bậc ở hai lối lên bên cạnh là rồng hóa mây cũng được điêu khắc bằng đá (theo dân gian thường gọi là Tản vân hóa long đây là một cách điêu khắc nghệ thuật trừu tượng mang tính sáng tạo và biến hóa của dân gian).

Tiền đường là một tòa nhà mang kiến trúc nghệ thuật của giữa thế kỷ XVII (thời Lê). Kết cấu vì nóc và cốn đều theo kiểu chồng rường, trên bốn hàng chân là các đề tài được chạm trổ rất tinh tế tỉ mỉ, nét chạm điêu luyện dứt khoát. Đó là những con rồng với nhiều kiểu dáng thể hiện khác nhau, rồi phượng vũ, lân và những vân soắn cùng đao mác dữ tợn. Các mảng phù điêu được chạm khắc hình tiên nữ đầu người, mình chim, những chàng trai cưỡi rồng đánh hổ…Có lẽ đây được coi là nét nghệ thuật độc đáo tiêu biểu của thời Lê (thế kỷ 16 -17).

Bên cạnh đó là hai pho tượng khá to Ông Thiện – Ông Ác (mang ý nghĩa sâu xa về việckhuyến khích làm việc thiện và trừng trị cái ác – đó chính là giáo lý của Đức Phập muốn khuyên bảo răn dạy chúng sinh ở cõi phàm trần) hai pho tượng tạo nên một cảm giác oai nghiêm dữ tợn sừng sững ở chốn linh thiêng. Một điều đặc biệt là tại tòa Tiền đường có một khánh gỗ lớn, đồng thời cũng là tấm bảng văn ghi niên đại Chính Hòa thời nhà Lê (cuối thế kỷ XVII). Hiện vật này được coi là rất hiếm trong di sản văn hóa ở nước ta. Bên cạnh đó là hệ thống tượng pháp và hoành phi câu đối, đồ thờ tự…Phía trên là bức hoành phi đề 3 chữ “Thành Đạo tự” (đây chính là tấm biển đề tên của ngôi chùa này) bên cạnh là các họa tiết hoa sen được chạm khắc tỉ mỉ tinh tế phối kết hợp với sơn son thếp vàng càng làm tăng thêm vẻ trang nghiêm thanh tịnh chốn thiền môn. Hai bên nhà tiền đường là hai dãy hành lang song song đặt thờ các vị La Hán và năm tấm bia đá.

Tòa Tam bảo của chùa đã bị phá trong thời kỳ Pháp thuộc, chỉ còn lại một phần tàn tích của Thượng điện, trong đó còn một bệ đá có nhiều nét chạm mang phong cách thế kỷ XVI, bên trên đặt một tòa cửu long và tượng Phật Thích Ca bằng đồng đứng trên tòa sen. Phía sau là một điện nhỏ thờ tượng thần Pháp Vũ màu xám xẫm. Tượng này mới được phục chế lại vào giữa thế kỷ XX, nên rất mới và đẹp. Ngoài ra còn có nhiều hiện vật quý, đó là những viên gạch rồng của thời Mạc thế kỷ XVI (đánh dấu sự trùng tu trong thời kỳ này), những viên gạch hòm sớ lớn hơn mà trên mặt từng viên có hình rồng, hổ hoặc voi, ngựa, chim, thú… đầy chất ngộ nghĩnh nhưng ẩn chứa nhiều yếu tố dân gian của thế kỷ XVII. Tiếp đó là những tấm bia khá điển hình của thế kỷ XVI, XVII mang đầy ý nghĩa triết học (bằng nét chạm khắc tinh tế, nội dung sâu sắc). Năm 2010 tòa Tam bảo của chùa được phục chế một cách công phu, chạm khắc tỉ mỉ, mái ngói được lợp bằng ngói ri truyền thống, xung quanh Tam bảo được xây bằng gạch hình rồng, nền được lát bằng gạch bát, hệ thống tượng pháp hoành phi câu đối đồ thờ nguy nga tráng lệ, tòa Tam bảo được ví như một bông hoa sen tỏa ngát hương thơm toát lên sự uy nghi linh thiêng chốn thiên môn.

Tại tòa nhà hậu phía sau hiện có nhiều tượng Hậu thần rất đẹp, đặc biệt và nổi bật trong đó là hai pho tượng đã được sơn vào thân xác thực của 2 Thiền sư: Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường tồn tại từ thế kỷ XVII cho đến nay. Về câu chuyện của dân gian gắn với hai Thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, Thiền sư Vũ Khắc Minh còn có tên khác là “Sư rau” (bởi lẽ thường ngày chỉ ăn rau để tu luyện) hoặc còn gọi là “Sư thiêu” (vì nhà sư đã chất lửa xung quanh mình trước khi tịch để niệm Phật) Thiền sư đã dặn lại các đệ tử rằng: ta vào am tu luyện, sau 3 tháng 10 ngày các con mở cửa am ra, nếu thấy mùi thơm thì bả sơn vào xác, còn nếu thấy mùi hôi thì đem đi chôn, đúng như lời thầy dặn 100 ngày sau các đệ tử mở cửa ra thì thấy thân xác ngài vẫn tỏa ra mùi thơm, nghe lời thầy dặn các đệ tử liền bả sơn vào thân xác ngài dựng am thờ phụng. Hiện 2 pho tượng này khá độc đáo, phần nào làm chúng ta như thoáng nhớ tới lối ướp xác của các vị Đạt Ma-­Tây Tạng hay xác ướp Ai Cập rất hiếm gặp ở Việt Nam. Kiểm tra X-quang cho biết, toàn thân hai vị thiền sư không có vết đục đẽo, không có hiện tượng rút bỏ nội tạng….Thi hài để nguyên khi ướp, thế nhưng trải qua gần 400 năm tồn tại thân thể của hai ngài vẫn không hề bị hủy hoại. Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh cao 57cm, nặng 7,5 kg, thiền sư Vũ Khắc Trường cao 75cm, nặng 31 kg.

Ngoài chùa Đậu, cho đến nay ở Việt Nam còn tồn tại hai tượng nhục thân khác ở chùa Tiêu Sơn và Phật Tích (Bắc Ninh). Đó là hai vị thiền sư Như Trí và Chuyết Chuyết. Thế nhưng cả hai pho tượng này gần như bị hủy hoại hoàn toàn. Vì vậy hai pho tượng thiền sư ở chùa Đậu được coi là duy nhất, còn tương đối nguyên vẹn ở Việt Nam. Theo PGS.TS Nguyễn Lân Cường cho đây là hiện tượng Thiền táng (táng theo tư thế ngồi thiền), thực chất là hiện tượng hóa thân thành Phật. Ngước nhìn lên phía trên chúng ta có thể thấy bức hoành đề bốn chữ “色生門山”(Sắc Sinh Môn Sơn, tạm dịch: Hình sắc được sinh ra chốn thiền môn) hoành có từ niên đại thời Nguyễn, chùa còn lưu giữ cuốn sách đồng khắc chữ hán ghi trọn vẹn sự tích Man Nương và thần Pháp Vũ…bên cạnh đó hệ thống hoành phi câu đối và đồ thờ tự của các gian thờ còn rất nhiều…Theo Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ-Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam có nhận định: “Di hài nhục thân của các Thiền sư là một dạng Xá lợi (hay Xá lị), là kết quả của quá trình dùng năng lượng đạt đến đỉnh cao của thiền định mà có được sau khi đã tự thiêu đốt đi tất cả. Là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của Tâm và đạt đến sự giác gộ viên mãn. Với di sản quý giá, nhục thân của các Thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu (Hà Nội)…đã thể hiến sự đắc đạo trong tu chứng của các vị Thiền sư Phật giáo Việt Nam. Đó cũng chính là dấu ấn tâm linh và di sản văn hóa đặc biệt để lại trong lòng văn hóa dân tộc…”

Chùa Đậu, là một quần thể kiến trúc đặc biệt ngôi chùa mang nhiều những nét nghệ thuật của các vương triều theo dòng thời gian của lịch sử dân tộc, đã đánh dấu một bước phát triển của tín ngưỡng văn hóa dân gian, đồng thời đây được coi là 1 kiến trúc lớn còn giữ được nhiều dấu vết nghệ thuật của nhiều giai đoạn lịch sử (Lý – Trần – Lê – Nguyễn). Chùa xứng đáng là một điểm sáng trong hệ thống di tích của huyện Thường Tín nói riêng và của cả nước nói chung, cũng là chốn linh thiêng được người dân nhiều nơi về lễ cầu đảo.

1 tháng 5 2017

a) Nhớ rừng_ Thế Lữ

-Thế Lữ đã chọn được một hình ảnh độc đáo, thích hợp với việc thể hiện chủ đề bài thơ. Con vật oai hùng được coi là chúa tể sơn lâm, một thời oanh liệt, huy hoàng ở chốn nước non hùng vĩ nay bị giam cầm tù hãm tượng trưng cho người anh hùng chiến bại. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh chứa đựng ý nghĩa thâm thúy đó, Thế Lữ rất thuận lợi trong việc gửi gắm tâm sự của mình trước thời cuộc qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt tới độ điêu luyện, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc sôi nổi hào hùng, lúc trầm lắng bi thiết, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.

Vẻ đẹp của bức tranh thứ nhất: 

"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?"

- Hai câu thơ dựng lên cảnh sắc trong đêm giữa ánh trăng vàng bên bờ suối. Cả không gian trong chốn rừng sâu tràn ngập một sắc vàng từ vầng trăng trên cao rọi tỏ. Tiếng suối chảy lại khiến cho khu rừng thêm phần sinh động hơn, tươi mát hơn, có sinh khí hơn. Còn chúa sơn lâm đứng lặng bên suối "say mồi" ngắm nhìn khung cảnh lung linh, đẹp đẽ vô ngần. Dường như chúa sơn lâm hoà cùng với thiên nhiên thơ mộng.

Vẻ đẹp của bức tranh thứ hai:

"Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?"

- Hình ảnh con hổ là trung tâm trên khung cảnh ngày mưa.

Những cơn mưa trong rừng sâu như bất tận, "xoay chuyển" cả "bốn phương ngàn". Thiên nhiên trở nên hung dữ, mịt mù nhưng chúa sơn lâm vẫn không hề nao núng. Hổ giữ tư thế của một bậc đế vương, đứng trên vạn vật. Thiên nhiên có dữ dội bao nhiêu, vạn vật của xoay chuyển thế nào cũng chỉ để "đổi mới" "giang sơn" của nó, điều đó chứng tỏ nó đang đứng trên tư thế làm chủ vạn vật một cách oai hùng nhất.

Vẻ đẹp của bức tranh thứ ba:

"Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?"

Sau những ngày mưa, khu rừng trở nên trong mát, tươi tắn trong ánh nắng của ban mai. Cả khu rừng sau cơn mưa tắm mát, nó trở mình trở nên tươi mát hơn, tươi tắn hơn, đầy sức sống hơn. Những chú chim ca hót rộn rã. Hổ lại trở về trong giấc ngủ của mình. Những âm thanh vui nhộn và không khí trong lành đã ru nó vào giấc ngủ hiền hoà. Có thể thấy, hổ được sống trong tự do, được chế ngự và chi phối những kẻ khác.

Vẻ đẹp của bức tranh thứ tư:

"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"

Khung cảnh buổi chiều tà khi mà hoàng hôn buông xuống. Gam màu chủ đạo là đỏ, làm khung cảnh thêm phần rực rỡ, chói lọi. Vạn vật dần đi vào giấc ngủ và chúa sơn lâm cũng dần đợi khoảnh khắc ngày tàn ấy "Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt".  Đợi mặt trời đi khỏi nhân gian để "chiếm lấy riêng phần bí mật". Phải chăng điều bí mật ở đây là quyền lực của vũ trụ, của thế giới muôn loài mà hổ ta muốn chiếm đoạt.

27 tháng 1 2023

bạn đưa rõ cái câu thơ lên để mn làm luôn nhé.

Bài thơ "Quê hương" của nhà thơ Lưu Quang Vũ là một bức tranh tươi sáng về quê hương đầy màu sắc và đẹp đẽ. Tác giả đã miêu tả về quê hương với những hình ảnh sống động, mô tả về những nét đẹp độc đáo của quê hương mình.

Tuy nhiên, bên cạnh những hình ảnh tươi sáng về quê hương, bài thơ cũng thể hiện được nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Những câu thơ như "Nhớ quê hương, nhớ người xưa/ Nhớ cánh đồng, nhớ con đường quê nhà" đã truyền tải được tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả. Tác giả đã dùng những từ ngữ da diết, cảm động để miêu tả nỗi nhớ quê hương của mình.

Bài thơ "Quê hương" không chỉ là một bức tranh tươi sáng về quê hương mà còn là một lời tâm sự chân thành của tác giả về tình yêu quê hương. Tác giả đã thể hiện được sự tương phản giữa hình ảnh tươi sáng và nỗi nhớ đau đớn, giữa sự sống động và sự lặng lẽ của quê hương. Bài thơ đã làm sáng tỏ nhận định rằng, bức tranh quê hương tươi sáng không chỉ đơn thuần là một bức tranh đẹp mà còn chứa đựng nỗi nhớ quê hương da diết của con người.

29 tháng 4 2023

Bài thơ “Quê hương” là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu mến những con người lao động cần cù.Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.Cái làng chài nghèo  nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lại láng.

"Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
 Nước bao vây cách biển nửa ngày sông                                                                                             Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
 Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mè vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió..."

Bằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc họa tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm! Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Một khung cảnh làng quê như đang mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: “Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng”, không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi.Bên cạnh đó, những động từ “hăng”, “phăng”, “vượt” diễn tả đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng.

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

 Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui no ấm, bình yên của dân làng.Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả. Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

 Thơ Tế Hanh là hồn thi sĩ đã hoà quyện cùng với hồn nhân dân, hồn dân tộc, hoà vào “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”.“Quê hương” – hai tiếng thân thương, quê hương – niềm tin và nỗi nhớ.Bài thơ với âm điệu khoẻ khoắn, hình ảnh sinh động tạo cho người đọc cảm giác hứng khởi, ngôn ngữ giàu sức gợi vẽ lên một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”

18 tháng 3 2019

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Mỗi bức một khung cảnh, một gam màu, một dáng điệu của vị “chúa tể cả muôn loài”.

           Bức thứ nhất thật thi vị :
                          Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
                         Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Gam màu vàng lóng lánh của ánh trăng in trên suối vắng. Đối với con hổ giờ đang bị giam cầm trong cũi sắt, đó không chỉ là những kỷ niệm lấp lóa trăng vàng, mà thực sự là những “đêm vàng” - những kỷ niệm được đúc bằng vàng ròng - không bao giờ còn có lại. Chúa sơn lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền, với cử chỉ uống ánh trăng tan đầy thơ mộng. 
   Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh đế trước giang sơn của mình :
                        Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn

                        Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Gam vàng đã chuyển qua gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng vương chủ của chốn rừng già đang phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh vương quốc đương thay da đổi thịt dưới sự trị vì của mình. Trang nghiêm, ưu tư, và đầy kiêu hãnh.
           Bức thứ ba, chiều mưa đã chuyển sang rạng đông, nền tranh đã rạng rỡ cái gam màu thắm nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện trong dáng điệu một lãnh chúa cứ nghiễm nhiên ườn mình trong giấc ngủ trễ tràng khi ngày đã lên mà thụ hưởng cái lạc thú cung - đình - rừng - xanh của mình:
                        Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
                        Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đọc câu thơ ta có thể hình dung: cây xanh nắng gội là màn trướng, còn chim chóc như những bầy cung nữ đang hân hoan ca múa quanh giấc nồng của hổ vương .
            Bộ tứ bình khép lại bằng bức cuối cùng, cũng là bức ấn tượng hơn cả :
                        Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
                        Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
                        Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Giọng điệu không còn là thở than, mà đã thành chất vấn đầy giận dữ và oai linh đối với quá khứ mà cũng là đối với hiện tại. Tương ứng với giọng điệu, chúa sơn lâm hiện ra cũng với một tư thế hoàn toàn khác: tư thế kiêu hùng của một bạo chúa. Nền cảnh thuộc gam màu máu. Mấy chữ “lênh láng máu” thật dễ sợ! Qua cảm nhận của chúa sơn lâm, ánh mặt trời lúc hoàng hôn đỏ rực giống hệt sắc máu lênh láng. Trong chốn thảo hoa không tên tuổi ấy dường như chỉ có mặt trời là đối thủ duy nhất và xứng đáng phô bày quyền uy sánh cùng với hổ. Nhưng mảnh mặt trời kia cũng đang hấp hối trong tư thế gục ngã, lênh láng máu. Dưới con mắt mắt ngạo mạn và khing bỉ của con mãnh thú, ngôi vị cao cả của mặt trời cũng không là gì, mặt trời kia củng chỉ là những mảnh vụn tầm thường. Quyền uy của chúa sơn lâm như càng bao trùm cả vũ trụ  mà mặt trời cũng phải dần lùi bước. Đến câu “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”, bức tứ bình cuối cùng dường như đã thể hiện được bàn chân ngạo nghễ siêu phàm của con thú như dẫm đạp lên bầu trời, cái bóng của nó dường như đã trùm kín cả vũ trụ. Hình ảnh con hổ vờn bóng, như dẫm nát mặt trời là hình ảnh đẹp đẽ và dữ dội nhất diễn tả đỉnh điểm của quyền lực kẻ thống trị vũ trụ.Ghê gớm thật! Ngay đến mặt trời cũng trở nên tầm thường, thì xem ra sự phi thường đã tới vô biên rồi vậy.

Trong bức tranh, mọi vật hình như nhỏ hơn, chìm hẳn chỉ có hổ ta đứng đấy uy nghi, chễm chệ với tư thế là chúa tể của muôn loài. Chúa sơn lâm đẹp thật, một vẻ đẹp dữ dằn ghê gớm của một mãnh thú đang say mồi. Quả là một bộ tranh tứ bình hoàn hảo, với sự phối cảnh hài hòa, bố cục mỹ cảm, đường nét thanh tao, gam màu chuẩn xác. Thế Lữ đã để lại bộ tranh hổ bằng ngôn ngữ có một không hai trong lịch sử văn học.

         

21 tháng 2 2021

a, 

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

b, 

Đoạn thơ đã thể hiện sự oai vệ của chúa sơn lâm đồng thời là lời thở dài ngao ngán của chúa sơn lâm khi bị nhốt trong lồng

c, 

Tham khảo:

Lý do: Tác giả mượn lời con hổ để bộc lộ cảm xúc của mình vì không muốn để mình xuất hiện một cách trực tiếp mà muốn bộc lộ cảm xúc một cách thầm kín nhưng khách quan để người đọc có cái nhìn đúng đắn.

21 tháng 2 2021

a) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

- Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu?

 

b) Khái quát nội dung: Nỗi nhớ rừng cùng sự tiếc nuối những ngày tháng huy hoàng và khát vọng hướng về cái đẹp tự nhiên.

 

c) Nhà thơ Thế Lữ mượn lời con hổ sa cơ bị nhốt trong vườn bách thú để làm tiếng nói trữ tình để kín đáo bộc lộ tình cảm yêu nước và niềm khao khát thoát khỏi cảnh đời nô lệ.Cũng là vì do thời ấy , bọn Pháp sẽ không cho đăng tải những bài viết chống thực dân hoàn toàn nên tác giả không muốn để mình xuất hiện một cách trực tiếp mà muốn bộc lộ cảm xúc một cách thầm kín nhưng khách quan để người đọc có cái nhìn đúng đắn , để nêu lên một cách thầm kín nỗi niềm của những người dân mất nước thuở ấy.

Bạn tham khảo thử nhé  hiha

23 tháng 3 2018

1. Hai câu đầu gợi lên nhiều cách hiểu về quê hương:
- Quê hương hiểu theo nghĩa hẹp là quê cha đất tổ, gắn với gia đình, dòng họ, mồ mả, bàn thờ tổ tiên.
- Quê hương hiểu theo nghĩa rộng là đất nước.
- Nói “Quê hương mỗi người chỉ một” là nhấn mạnh sự duy nhất cũng như vai trò quan trọng của quê hương trong tình cảm của mỗi con người.
- “Như là chỉ một mẹ thôi”: khẳng định sự duy nhất nêu trên như một quy luật của tự nhiên về nguồn gốc con người. Đã là quy luật tự nhiên thì điều đó (mỗi người chỉ một quê hương) là không bao giờ thay đổi.
- Mặt khác còn là nói lên tình đất nước như tình mẫu tử, một tình cảm sâu nặng nhất của con người, của cả muôn loài.
- Tình yêu mẹ, yêu làng, yêu đất nước là thống nhất: Càng yêu gia đình thì càng yêu làng và càng yêu làng thì càng yêu đất nước. Trung thành với đất nước là “đại hiếu” (theo lời Phi Khanh nói với Nguyễn Trãi).
- Trong mối quan hệ đó, đôi khi trong một hoàn cảnh cụ thể vẫn nảy sinh mâu thuẫn, buộc người ta phải lựa chọn, lúc đó phải để tình đất nước lên trên (Nguyễn Trãi nén nỗi đau từ biệt cha quay về tìm đường cứu nước, các thanh niên từ biệt mẹ già, làng xóm, lên đường nhập ngũ ra tiền tuyến;...).
 
2. Hai câu sau tác giả muốn nói rõ vai trò quê hương đôi vỏi sự trưởng thành của mỗi con người:
a) Cần hiểu “nhớ quê” cho đầy đủ ỷ nghĩa:
- “Nhớ”: một biểu hiện của tình cảm lưu giữ rõ nét đến từng chi tiết con người, cảnh vật quê hương và lúc nào cũng nghĩ đến và tha thiết muốn gặp lại.
- Nhớ quê là không chỉ nói nhớ một vùng đất, một lãnh thổ mà nhớ nhiều về cội nguồn, lịch sử, văn hóa, thuần phong mĩ tục, về con người đang đổ mồ hôi sôi nước mắt cho quê hương, đất nước,...
- Không chỉ ôm nỗi nhớ suông, nhớ quê là phải làm gì cho quê hương, có hoài bão xây dựng quê hương.
 
b) “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”:
- Với cách hiểu như trên thì thấy tình quê hương đất nước có ý nghĩa to lớn trong nhân cách một con người.
- Đối với tuổi trẻ, hai câu thơ cảnh tỉnh những kẻ không nhớ quê hương, cội nguồn và nhấn mạnh phải chăm lo bồi đắp tình cảm quê hương như đã nêu. Không nên chỉ chăm lo bồi dưỡng trí tuệ, sức khỏe, vật chất,...
(Có thể nêu dẫn chứng về số phận của những kẻ phản bội quê hương, đất nước).

11 tháng 2 2022

(Tham Khảo) As your wish 

Đoạn 3 trong bài thơ " Nhớ Rừng " của tác giả Thế Lữ đã vẽ nên bộ tranh tứ bình về “Chúa sơn lâm” khá hoàn hảo trong bài thơ “Nhớ rừng” của mình. . Hai câu thơ đầu của bài đã hiện lên 1 đêm vàng bên bờ suối , con hổ uồng ánh trăng tan trong màn đêm đầy lãng mạn . Hai câu thơ tiếp là nói về hình ảnh cảnh ngày mưa còn hổ mang dáng dấp đế vương lặng ngắm nhìn giang sơn của mình . Hai câu tiếp cũng là cảnh sáng sớm bình minh trong lành mát mẻ với đầy tiếng chim hót cho giấc ngủ của chúa sơm lâm . Cuối cùng là 1 cảnh chiều lênh láng của con hổ đang đợi mặt trời lặn để chiếm lấy phần bí mặt trong vũ trụ . Qua đó cho ta thấy tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như : điệp ngữ , câu hỏi tu từ , nhân hoá , liệt kê ,..... Với giọng đọc say sưa thắm thiết đã tạo lên bức tranh tứ bình đẹp lộng lẫy . Cảnh núi rừng hoang sơ , hùng vĩ , tráng lệ . Câu cuối của bài thơ tác giả  dùng câu hỏi tu từ, câu cảm thán để nói lên tiếng than u uất thể hiện niềm tiếc nuối không nguôi quá khứ huy hoàng vàng son đã mất của con hổ.

11 tháng 2 2022

Tham khảo



Khổ thơ thứ ba trong bài Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ đã thể hiện được sự tài hoa của việc "dùng thơ vẽ tranh" qua bức tranh tứ bình trong thơ Thế Lữ. Thật vậy, khổ ba là bức tranh tứ bình được vẽ nên bằng chất liệu thơ từ thể hiện được quá khứ oai phong lẫm liệt của chúa sơn lâm. Hai câu thơ đầu "Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối? Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan". Khung cảnh tuyệt đẹp của những đêm trăng vàng hiện ra làm nền cho sự oai phong lẫm liệt của hổ. Hình ảnh nhân hóa "say mồi" và "uống ánh trăng tan" là hình ảnh lãng mạn nhưng vô cùng oai phong của chúa sơn lâm. Tiếp theo là hình ảnh của những cơn mưa lớn như làm rung chuyển cả núi rừng:" Đâu những ngày mưa chuyển bố phương ngàn/ Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?". Hình ảnh những trận mưa to cùng với thái độ "lặng ngắm" của chúa sơn lâm để thể hiện được thái độ ngang tàng và quá khứ vàng son của hổ. Những ngày ngắm giang sơn từng bước đổi mới thật vĩ đại và khí phách chứ ko phải là hiện tại giả dối như thế này. Kỷ niệm về thời kì huy hoàng tiếp tục hiện về khung cảnh bình minh. Vương quốc tràn ngập trong màu xanh và ánh nắng và hổ nằm ngủ ngon lành trong khúc nhạc của tiếng chim muông. "Đâu những bình minh cây xanh nắng gội...tưng bừng". Bức tranh trên hiện ra đầy màu sắc và âm thanh, màu hồng bình minh, màu vàng nhạt nắng sớm, màu xanh cây rừng, âm thanh vui nhộn của đàn chim. Đó chính là sự hoài niệm về những ngày được sống trong thiên nhiên tươi đẹp của chúa sơn lâm. Than ôi, đặc biệt nhất chính là hình ảnh cuối "Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng! Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt" là hình ảnh tuyệt đẹp của hoàng hôn cùng tư thế, khí phách độc tôn của chỉ hổ mà thôi. Tóm lại, khổ thơ thứ 3 trog bài Nhớ rừng chính là bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của cảnh rừng núi trong quá khứ của chúa sơn lâm.