K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tình hình dân số nước đa vẫn đang tăng nhưng có xu hướng giảm nghĩa là tăng nhưng kiểm soát được trước năm 75 thì nước ta là 1 trong những nước có tóc độ gia tăng đân số nhanh nhất trên thế giới .Còn chất lượng cuộc sống của người đân đang dần được nân cao ( bao gồm trình độ học vấn, y tế, cuộc sống ......)

2 Hậu quả của sự gia tăng dân số quá nhanh.

a) Sức ép đối với việc phát triển kinh tế - xã hội

- ở nông thôn không phá được cái xiềng 3 sào,
- ở đô thị thì thất nghiệp tăng,
- Ngân sách phải chi tiêu nhiều cho những vấn đề xã hội v.v...

b) Sức ép đối với tài nguyên môi trường

- Dự trữ của các nguồn tài nguyên nhanh chóng bị cạn kiệt.
- Phá rừng để mở rộng đất nông nghiệp dẫn đến mất cân bằng sinh thái.
- Dân thành thị tăng nhanh, nơi ở chật hẹp, chất lượng môi sinh giảm sút.

c) Sức ép đối với chất lượng cuộc sống

- Hiện tại kinh tế nước ta căn bản vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bình quân thu nhâp đầu người vào loại thấp nhất thế giới, dân số tăng nhanh không thể thực hiện cân bằng "cung - cầu".
- Cái nghèo về đời sống vất chất sẽ dẫn đến cái nghèo về đời sống tính thần.

10 tháng 2 2017

Thế giới đang phải đối mặt với tình trạng gia tăng dân số cả về tốc độ lẫn quy mô. Dân số tăng cao, tốc độ gia tăng nhanh, khoảng cách thời gian tăng ngày càng rút ngắn. Vấn đề đặt ra cho sự gia tăng dân số là những bài toán khó cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là vấn đề phát triển bền vững, tài nguyên, môi trường, giáo dục, việc làm, bình đẳng giới, an sinh xã hội, tệ nạn xã hội... ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống con người.

Xin Giáo sư cho biết nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã chịu tác động như thế nào từ tình trạng gia tăng dân số?

Dân số tăng nhanh làm cho môi trường không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của con người. Muốn tồn tại, con người buộc phải phá rừng để mở rộng diện tích canh tác và chăn nuôi gia súc. Từ năm 1950 - 1993, diện tích canh tác theo đầu người đã giảm từ 0,23 ha xuống 0,13 ha. Để khắc phục sự hạn chế về diện tích, người ta phải tăng năng suất cây trồng bằng thủy lợi và phân bón. Nhưng ngày nay diện tích canh tác, diện tích thuỷ lợi hoá và lượng phân bón tính theo đầu người cũng giảm và xu thế này còn tiếp tục diễn ra chừng nào số dân còn tiếp tục tăng.

Năm 1996 lượng cá đánh bắt đạt 93 triệu tấn đến năm 1999, con số này chỉ còn lại 86 triệu tấn. Do lượng đánh bắt giảm nên nuôi trồng thủy sản phát triển và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, rừng ngập mặn bị tàn phá, các hệ động thực vật bị suy thoái. Đô thị hoá với tốc độ nhanh cũng gây ra những vấn đề môi trường nan giải. Năm 1999, số dân thành thị trên toàn thế giới là 2,8 tỷ người, gấp 4 lần so với năm 1950. Hiện nay, có tới một nửa dân số thế giới sống ở thành thị, những thách thức về môi trường bắt nguồn một phần từ các đô thị. Chính các thành phố đã sản sinh ra 75% lượng CO2 trên toàn cầu vì sử dụng nhiên liệu hoá thạch và tiêu thụ 3/4 lượng gỗ công nghiệp thế giới. Tốc độ đô thị hoá nhanh, những vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí và nước đang trở nên tồi tệ ở những nơi Chính phủ không đủ năng lực xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng về giao thông, nước và xử lý rác thải. Hiện nay có 220 triệu người trong các thành phố thuộc các nước đang phát triển đang trong tình trạng thiếu nước sạch và 1,1 tỷ người đang sống ngột ngạt trong bầu không khí bị ô nhiễm. Bên cạnh đó, chất lượng đất cũng giảm rõ rệt, diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 30% diện tích tự nhiên. Nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp bị ô nhiễm môi trường đặc biệt tại các thành phố, thị xã. Lượng chất thải tăng cùng với sự gia tăng dân số.

Đâu là những hệ lụy về mặt biến đổi khí hậu dưới tác động của gia tăng dân số, thưa Giáo sư?

Báo cáo của Liên Hợp quốc cảnh báo rằng gia tăng dân số và biến đổi khí hậu đều diễn ra trầm trọng nhất ở các nước đang phát triển. Do biến đổi khí hậu, nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. BĐKH là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện trở lại của một số bệnh truyền nhiễm ở vùng nhiệt đới (sốt rét, sốt Dengue, dịch hạch, dịch tả, viêm não Nhật Bản), xuất hiện một số bệnh truyền nhiễm mới (SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1), thúc đẩy quá trình đột biến của virut gây bệnh cúm A/H1N1, H5N1 nhanh hơn. Phát thải khí nhà kính ngày càng tăng là nguyên nhân chủ yếu của xu thế ấm lên toàn cầu, tầng ozon bị phá hủy dẫn đến sự tăng cường độ bức xạ tử ngoại trên mặt đất, là nguyên nhân gây bệnh ung thư da và các bệnh về mắt. Nhiệt độ không khí tăng cao trực tiếp làm tăng tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch và hô hấp.

Ở Việt Nam, Khánh Hoà là tỉnh ven biển Nam Trung Bộ với khoảng 84,1% dân cư sống ở khu vực ven biển, 4,7% dân số thuộc dân tộc thiểu số (theo niên giám thống kê năm 2010), đây cũng là khu vực dễ chịu ảnh hưởng của BĐKH và nước biển dâng. Theo số liệu thống kê trung bình mỗi năm dân số tỉnh Khánh Hoà tăng thêm khoảng trên 10.000 người. Trong những năm gần đây do tác động của BĐKH, các loại hình thiên tai như: bão, lũ, hạn hán, nắng nóng ... xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng nhiều gây thiệt hại lớn đối với kinh tế và sự phát triển của tỉnh: năm 2007 thiệt hại khoảng 56 tỷ đồng; năm 2008: 100 tỷ đồng; năm 2009: khoảng 450 tỷ đồng; năm 2010 thiệt hại khoảng 450 tỷ đồng.

BĐKH tác động đến sự di dân làm mất cân bằng dân số, ảnh hưởng đến an ninh xã hội. Hàng trăm nghìn người hiện đang sống ở những vùng ven biển trũng có thể sẽ phải từ bỏ nhà cửa của họ nếu mực nước biển dâng tiếp tục dâng cao và lũ lụt tiếp tục hoành hành với tần suất càng ngày càng gia tăng như hiện nay. Ngoài ra hạn hán kéo dài và nghiêm trọng có thể đẩy nhiều nông dân từ các vùng nông thôn ra các đô thị để kiếm kế sinh nhai mới vì vậy càng gia tăng sự mất cân bằng dân số, dẫn tới ở thành phố đất chật người đông, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng thể hiện rõ rệt.

Bên cạnh đó BĐKH làm giảm chất lượng nước và trữ lượng nước sạch, nguy cơ gia tăng các bệnh truyền nhiễm và đây chính là các yếu tố đe dọa sức khỏe sinh sản, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc bà mẹ và trẻ em. BĐKH không những gây nguy hiểm tới cuộc sống và hủy hoại sinh kế của con người mà còn gia tăng sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.

Có thể chắc chắn một điều rằng, hệ thống giáo dục cũng không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực, xin Giáo sư phân tích rõ hơn lĩnh vực này?

Theo công bố của UNESCO, trên thế giới hiện có khoảng 775 triệu người không biết đọc, biết viết; 2/3 số người mù chữ là những cô gái và các phụ nữ (phần lớn trong số họ sống ở vùng Nam Á, Đông Á và châu Phi); khoảng 122 triệu thanh thiếu niên trên toàn thế giới hoàn toàn thiếu các kỹ năng đọc và viết. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên sự bất bình đẳng trong giáo dục giữa các khu vực, quốc gia, vùng miền, bất bình đẳng về giới. Số người mù chữ ở 5 nước có số người mù chữ cao nhất thế giới gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Brazil, Bangladesh và Ai Cập lên tới 510 triệu người, chiếm 70% tổng số người mù chữ toàn cầu. Theo UNICEF, trên thế giới có 115 triệu trẻ em toàn thế giới không được đến trường tiểu học thì có đến 90 triệu là trẻ em gái. Ở Việt Nam tỷ lệ dân số trong độ tuổi học sinh phổ thông giảm hơn 10%, từ 39,33% năm 1979 chỉ còn 28,73% vào năm 2009. Số dân trong dộ tuổi này của cả nước cũng đã bắt đầu giảm từ 26.507.676 người năm 1999 xuống còn 24.650.028 năm 2009. Vì vậy, tuy tỉ lệ nhập học tăng lên nhưng số học sinh phổ thông các cấp khoảng 15 năm nay đã giảm mạnh. Về dài hạn, dân số độ tuổi học sinh phổ thông ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục giảm tuyệt đối. Do vậy, việc chuyển đổi từ hệ thống giáo dục phổ thông phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu là nhu cầu tất yếu. Do đó, vấn đề dân số và giáo dục cần được quan tâm giải quyết đúng mức nhằm nâng cao chất lượng dân số thế giới, góp phần giảm sự bất bình đẳng trong giáo dục, tạo sự ổn định xã hội trên thế giới.

Vậy còn một lĩnh vực cũng “nóng” không kém là y tế và đi kèm với nó là bình đẳng giới thì sao, thưa Giáo sư?

Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao đòi hỏi quy mô của hệ thống y tế (số cơ sở y tế, số bệnh viện, số giường bệnh, số y bác sĩ, trang thiết bị y tế...) cũng phải phát triển với một tốc độ phù hợp để đảm bảo các hoạt động khám chữa bệnh cho người dân. Dân số tăng nhanh vượt quá mức cung ứng sẽ dẫn đến dịch bệnh, thương tật, tử vong gia tăng, giảm sức lao động. Hiện nay, ở những nước nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn, khả năng dinh dưỡng hạn chế, tỷ lệ mắc bệnh tăng, đặc biệt là tỷ lệ suy dinh dưỡng cao. Dân số đông và tăng quá nhanh dẫn đến mật độ dân cư đông, vệ sinh môi trường không đảm bảo, ô nhiêm môi trường làm phát sinh bệnh tật và các loại bệnh truyền nhiễm gia tăng; mặt khác, dân số tăng nhanh dẫn đến đẩy mạnh KHHGĐ, làm tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế.

Quy mô gia đình lớn, đặc biệt là gia đình nghèo, cha mẹ thường chỉ ưu tiên cho chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở nhà trường cho con trai. Vì vậy, con gái thường rơi vào cảnh thất học hoặc ít học, đi làm và lấy chồng sớm, đẻ nhiều con. Kết quả là, so với nam giới, phụ nữ thường có học vấn, thu nhập thấp hơn, ít hoạt động chính trị, xã hội hơn hẳn. Bất bình đẳng nam nữ là điều khó tránh khỏi. Nhìn chung tình trạng dân số tăng nhanh ở các nước chậm và kém phát triển với mức sinh cao, đói nghèo, bệnh tật, thất học, thất nghiệp, chất lượng dân số thấp; cùng với những phong tục tập quán lạc hậu về dân số và bất bình đẳng giới đã cản trở những nỗ lực trong kiểm soát sự biến động dân số và chất lượng dân số. Ở các nước phát triển việc kiểm soát tình trạng dân số và bình đẳng giới được tốt hơn do có điều kiện kinh tế; do nhận thức của người dân về vấn đề dân số và bình đẳng giới được nâng cao hơn cùng đó là ít bị ảnh hưởng của phong tục tập quán lạc hậu về dân số đã thúc đẩy tiến trình bình đẳng giới và phát triển dân số được cải thiện rõ nét so với các quốc gia, khu vực chậm và kém phát triển.

Xin Giáo sư cho biết, vấn đề việc làm và an sinh xã hội có những biến động như thế nào?

Vấn đề thất nghiệp tăng gần như tỷ lệ thuận với tốc độ gia tăng dân số, gây nên sức ép cho xã hội dẫn đến mất ổn định xã hội, kéo theo các tệ nạn xã hội gia tăng. Số lượng người thất nghiệp trên thế giới đã tăng thêm 3,2 triệu và đạt mức 203,2 triệu người trong năm 2014. Đây là thống kê nằm trong báo cáo “Thế giới lao động 2014” của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ngày 26/5/2014.

Theo kết quả nghiên cứu thường niên, ở cùng thời điểm này năm 2013, số lượng người thất nghiệp gần đạt mức 200 triệu người, chiếm khoảng 6% dân số đang ở độ tuổi lao động trên thế giới. Chỉ số thất nghiệp 6% nhiều khả năng sẽ vẫn giữ nguyên cho đến năm 2017, với đà này, đến năm 2019 trên thế giới sẽ có khoảng 213 triệu người không có việc làm. Chính phủ Việt Nam đưa ra các chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm. Đặc điểm nổi bật của dân số trong giai đoạn cơ cấu “vàng” là cả số lượng và tỷ lệ dân số có khả năng lao động (15- 64) tuổi cao và tăng lên. Năm 2009, tỷ lệ này, đạt cực đại vào khoảng 70% dân số. Số lượng dân số nhóm tuổi (15-64) tiếp tục tăng và đạt cực đại khoảng 72 triệu người vào năm 2039. Năm 2013, Việt Nam có 90 triệu dân, nếu tỷ lệ người trong độ tuổi lao động như năm 1979, tức là chỉ có 52,7% thì chỉ có 47,0 triệu lao động. Thực tế là 62,1 triệu tăng hơn 15 triệu người hay gần 30% so với số liệu giả định. Đây là dư lợi lớn của “dân số vàng” cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, khoảng nửa dân số trong độ tuổi lao động dưới 34 tuổi, thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học kĩ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi nghề. Tuy nhiên, lao động đông và tăng nhanh cũng tạo ra rất nhiều thách thức về việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đặc biệt là tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật (bằng sơ cấp trở lên) hiện còn rất thấp. Theo Tổng điều tra dân số 2009, tỷ lệ này mới khoảng 13,6% lực lượng lao động và mất cân đối.

Dân số tăng tạo nên sức ép cho các chương trình an sinh xã hội, bảo trợ xã hội. Báo cáo "Tình hình Mạng lưới An sinh Xã hội 2014" do Ngân hàng Thế giới (WB) mới công bố hiện nay có 870 triệu người dân nghèo nhất thế giới chưa được tiếp cập và hưởng lợi từ những chương trình trên. Mặc dù hơn 1 tỷ người dân tại 146 quốc gia đang tham gia ít nhất một trong 475 chương trình an sinh xã hội, nhưng hầu hết những người nghèo nhất (có thu nhập dưới 1,25 USD/ngày) lại là những đối tượng chưa được tiếp cận. Theo báo cáo mới của ILO cho biết, hơn 70% dân số thế giới không được hưởng chế độ bảo trợ xã hội. Trên toàn thế giới, chỉ có 12% người thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp, gần một nửa (49%) tổng số người ở độ tuổi được hưởng lương hưu không nhận được nguồn trợ cấp nào. Báo cáo cũng cho thấy khoảng 47% dân số thế giới không được hỗ trợ bởi một hệ thống hay chế độ y tế nào. Ở các quốc gia có thu nhập thấp, tỷ lệ này lên tới hơn 90%. Việt Nam đang phải đối mặt với sự già hóa dân số, theo Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy: 72,5% NCT sống ở nông thôn. Trong số NCT chỉ có khoảng 16-17% hưởng lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ hưởng trợ cấp người có công với nước. Theo điều tra Quốc giavề NCT năm 2011 có tới 56% NCT nói là sức khỏe yếu và rất yếu, trung bình mỗi người 2,7 bệnh. Trong bối cảnh con ít và con cái di cư, sống xa cha mẹ, an sinh xã hội trở thành vấn đề lớn.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, chất lượng cuộc sống sẽ bị đi xuống do tác động của gia tăng dân số tới mọi mặt của đời sống xã hội.

Sức ép về quy mô lớn, gia tăng nhanh của dân số toàn cầu đến các vấn đề xã hội (tài nguyên, môi trường, chính trị, xã hội...) ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống trên thế giới. Đó là vấn đề nhà ở, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập bình quân đầu người giảm; điều kiện được học tập, chăm sóc cho trẻ em bị hạn chế do tình trạng quá tải tại các trường học, cơ sở khám chữa bệnh...

Đối với Việt Nam để giải quyết tốt các mối quan hệ dân số với các vấn đề xã hội cần nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính sách để kết hợp các hoạt động an sinh, bảo trợ xã hội trong chiến lược xóa đói giảm nghèo; khuyến khích lồng ghép tốt hơn công tác dân số vào các chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu và cơ chế tài trợ; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng trưởng xanh và bền vững; đầu tư cho các chương trình sức khỏe sinh sản để đem lại những thay đổi về chất lượng dân số... Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, để đưa đất nước đi lên, phát triển bền vững, tránh được "bẫy thu nhập trung bình" và đương đầu được với thách thức "già hóa dân số" của thời kỳ hậu dân số "vàng", cần tận dụng lợi thế cơ cấu dân số "vàng" mang lại, thông qua đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra và tìm kiếm nhiều việc làm có thu nhập cao, cả ở trong và ngoài nước, hạn chế tiêu dùng lãng phí, nâng cao tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư. Vì vậy, cần nắm bắt và tận dụng cơ hội này càng sớm, càng tốt, không chỉ là nhiệm vụ của các nhà lãnh đạo, quản lý mà còn là của mỗi người dân.

16 tháng 5 2022

REFER

Tăng dân số quá nhanh và phân bố dân cư không hợp lí là nguyên nhân chủ yếu làm cho chất lượng môi trường giảm sút (ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí…), từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của mỗi con người (thiếu nơi ở, dịch vụ y tế, giáo dục còn thiếu cơ sở vật chất,…).

16 tháng 5 2022

Refer

Tăng dân số quá nhanh và phân bố dân cư không hợp lí là nguyên nhân chủ yếu làm cho chất lượng môi trường giảm sút (ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí…), từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của mỗi con người (thiếu nơi ở, dịch vụ y tế, giáo dục còn thiếu cơ sở vật chất,…)

2 tháng 5 2022
Tham khảoHậu quả của tăng dân số quá nhanh:

Tăng dân số quá nhanh và phân bố dân cư không hợp lí là nguyên nhân chủ yếu làm cho chất lượng môi trường giảm sút (ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí…), từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của mỗi con người (thiếu nơi ở, dịch vụ y tế, giáo dục còn thiếu cơ sở vật chất,…).

2 tháng 5 2022

TK-

Hậu quả của tăng dân số quá nhanh:

Tăng dân số quá nhanh và phân bố dân cư không hợp lí là nguyên nhân chủ yếu làm cho chất lượng môi trường giảm sút (ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí…), từ đó ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của mỗi con người (thiếu nơi ở, dịch vụ y tế, giáo dục còn thiếu cơ sở vật chất,…).

4 tháng 1 2022

1.  Sự biến động của dân số có tác động tích cực hay tiêu cực và sự phát triển bền vững hay không bền vững của môi trường, tài nguyên cũng có tác động ngược lại ở xã hội loài người bởi cả hai mặt. Đặc biệt trong xu thế phát triển kinh tế xã hội ngày nay thì mối quan hệ trên càng được thể hiện rõ nét. Sự bùng nổ dân số:Dân số thế giới tăng nhanh, nhất là ở nửa sau thế kỷ XX. Càng những năm về sau thời gian dân số tăng 1 tỷ người càng rút ngắn. Hiện nay, trung bình mỗi năm dân số thế giới tăng gần 80 triệu người.

4 tháng 1 2022

2.Các nước này chiếm khoảng 80% dân số và 95% số dân gia tăng của thế giới. Sự gia tăng dân số nhanh trên thế giới thể hiện ở một số nguyên nhân chính như: Dân số và tập quán sống di cư, du cư; đô thị hóa; các thành phố có số dân trên 1 triệu người ngày càng nhiều. Đến nay thế giới đã có trên 270 thành phố trên 1 triệu dân và 50 thành phố trên 5 triệu dân.       
Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp, v.v...

5 tháng 9 2021

tìm hiểu về những nội dung sau :

1. Các số liệu về dân số thế giới và Việt Nam     https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_s%E1%BB%91_th%E1%BA%BF_gi%E1%BB%9Bi

2. Dân số gia tăng nhanh từ những năm nào và có ảnh hưởng gì đến kinh tế xã hội, đời sống, tài nguyên môi trường....

 - Hậu quả của dân số đông và tăng nhanh:

+ Về kinh tế: tốc độ phát triển của dân số nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế; việc sử dụng nguồn lao động lãng phí và hiệu quả.

+ Xã hội: gây sức ép lên các vấn đề y tế, giáo dục, nhà ở…; tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm; xảy ra các tệ nạn xã hội.

+ Môi trường: cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí).

 

 

18 tháng 2 2018

- Hậu quả của dân số đông và tăng nhanh: gây sức ép đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường tài nguyên.

      + Sự gia tăng dân số quá nhanh là ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, nền kinh tế khó có thể phát triển được.

      + Sự gia tăng dân số và gia tăng sức mua đòi hỏi phải đẩy mạnh sản xuất đáp ững nhu cầu của nhân dân, làm cho nhiều loại tài nguyên bị khai thác quá mức (đất, rừng, nước...).

      + Khi dân số tăng nhanh , các dịch vụ y tế, giáo dục khó nâng cao được chất lượng. Gia tăng dân số nhanh làm tăng nhanh nguồn lao động, vượt quá khả năng thu hút của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng thất nghiệp; thiếu việc làm. Các tệ nạn xã hội cũng theo đó mà tăng lên.

- Lợi ích của sự giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số ở nước ta.

      + Phát triển kinh tế: góp phần vào nâng cao năng suất lao động, góp phần đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế đất nước.

      + Tài nguyên môi trường: giảm áp lực đến tài nguyên và môi trường sống.

      + Chất lượng cuộc sống của dân cư sẽ được nâng lên tăng thu nhập bình quân đầu người, chất lượng giáo dục, y tế tốt hơn, đảm bảo các phúc lợi xã hội, tăng tuổi thọ.

28 tháng 11 2017

      + Khó khăn cho việc giải quyết việc làm, sắp xếp lao động.

      + Làm giảm GDP và các chỉ tiêu kinh tế theo đầu người.

      + Gây áp lực nặng nề tới việc đào tạo nghề, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội khác.

4 tháng 2 2023

- Giai đoạn 2000 - 2005 đến giai đoạn 2015 - 2020, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên của châu Phi có sự biến động:

+ Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên châu Phi có xu hướng tăng từ giai đoạn 2000 - 2005 đến giai đoạn 2010 - 2015, tăng từ 2,5% (2000 - 2005) lên 2,7% (2010 - 2015).

+ Giai đoạn từ 2010 - 2015 đến 2015 - 2020, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên châu Phi lại có xu hướng giảm, tuy nhiên tỉ suất này vẫn còn cao so với các khu vực trên thế giới (2,5%, giai đoạn 2010 - 2020).

- Dân số còn tăng nhanh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội châu Phi:

Thuận lợi: 

Dân cư đông => nguồn lao động dồi dào và là thị trường tiêu thụ lớn.

Khó khăn:

Gia tăng dân số quá nhanh là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến đói nghèo, tài nguyên bị khai thác kiệt quệ, suy thoái và ô nhiễm môi trường,...

7 tháng 11 2023

Tham khảo!

- Sự gia tăng dân số đã tác động đến nền kinh tế nước này là:

+ Người nhập chủ yếu là người trẻ và có tri thức đã cung cấp nguồn lao động dồi dào cho đất nước mà nhà nước không cần mất chi phí đầu tư ban đầu cho con người;
+ Mở rộng được thị trường tiêu thụ;

- Người nhập cư đông tạo nên sự đa dạng về văn hóa, cung cấp lực lượng lao động dồi dào, có trình độ.

– Dân cư tại Hoa Kỳ tập trung chủ yếu tại ven bờ Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, đặc biệt là vùng Đông Bắc.

+ Tại vùng núi phía Tây, vùng Trung tâm dân cư rất là thưa thớt.

+  Dân cư chủ yếu tập trung ở các thành phố , phần lớn thành phố vừa và nhỏ (91,8%).

+ Làm sự phát triển kinh tế bị chênh lệch giữa các khu vực.