K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 7 2017

“Văn chương không cần đến người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho… những gì chưa từng có”

- Ý kiến trên khẳng định yêu cầu quan trọng của tác phẩm nghệ thuật và nghệ sĩ đó là sáng tạo, khơi nguồn những cái mới

- Tác giả phản ánh đúng bản chất của nghệ thuật, được nhiều người thừa nhận, diễn đạt theo những cách khác nhau.

- Tác giả sử dụng biện pháp so sánh để diễn tả nhiệm vụ, bản chất cơ bản của văn chương. Soi tỏ vào sự nghiệp sáng tác của Nam Cao

- Những tác phẩm của ông là minh chứng rõ rệt nhất cho triết lý đó.

+ Tác phẩm viết về người nông dân ông đi theo lối riêng, khám phá sự tha hóa của những con người bị dồn tới đường cùng trở thành lưu manh

+ Con đường sáng tác của Nam Cao là con đường của người không bao giờ muốn lặp lại mình

23 tháng 8 2017

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao xuất phát từ ý thức sâu sắc, sự đòi hỏi cao trong sáng tạo của nhà văn đối với nghề

- Khẳng định được yêu cầu quan trọng đối với tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ phải khám phá ra cái mới

- Nam Cao diễn đạt điều đó bằng cách ngắn gọn với những liên tưởng hàm súc, giàu hình ảnh

- Sự nghiệp sáng tác của ông thực hiện nghiêm túc, hình ảnh người trí thức và người nông dân luôn mang nét mới

15 tháng 5 2016

Nam Cao là nhà văn có quan điển nghệ thuật tiến bộ.Các quan điểm nghệ thuật ấy đều được thể hiện trong những sáng tác của ôngvà ông luôn ép mình vào trong khuôn khổ đó.Trong truyện ngắn Đời thừa,Nam Cao đã khẳng định :”Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi,khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” 
Đây là một quan điểm đúng đắn trong sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao
 và có lẽ vì thế mà những tác phẩm nghệ thuật của ông đi sâu được vào lòng người đọc.

Nam Cao có đòi hỏi rất cao trong văn chương, vì thế nên ông không thể chấp nhận được một thứ văn chương na ná giống nhau.Một nhà văn lớn nhất thiết phải có những nét riêng và độc đáo.Nam Cao là một cây bút như thế.Ông yêu cầu một sự sáng tạo cao trong nghệ thuật .Các tác phẩm của Nam Cao khác xa những tác phẩm cùng thời.Ông không nói đến nỗi khổ vật chất mà xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của người nông dân, của người trí thức nghèo.Ngòi bút của ông cũng vô cùng biến hoá, sắc sảo khi mô tả tâm lý nhân vật, khắc hoạ những quá trình tâm lý phức tạp, sáng tạo những đoạn đối thoại, độc thoại sinh động và chân thật.Ngôn ngữ của Nam Cao không chỉ vừa góc cạnh, vừa tinh tế, điêu luyện rất nghệ thuật mà còn gần gũi với lời ăn tiếng nói đầy sức sống của nhân dân lao động.Nói tóm lại,văn chương của Nam Cao không chỉ mới về nội dung mà còn lạ về nghệ thuật, đã khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.

Nói về sự sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”, một tác phẩm viết về đề tài người nông dân, một người nông dân với bản chất hiền lành , lương thiện đã bị xã hội chà đạp, dồn nén đến con đường lưu manh hóa nhưng bản chất lương thiện trong con người không hề bị mất đi, nó chỉ bị ngủ quên và rồi thật sự thức tỉnh khi tình yêu với Thị Nở chợt đến.Và một lần nữa, xã hội đầy bất công đã chối bỏ Chí Phèo,đẩy Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa bước vào con đường làm người lương thiện.Ta thấy bi kịch lớn nhất của Chí Phèo không phải là chuyện đói nghèo, bị bóc lột sức lao động mà chính là ở chỗ anh ta sinh ra làm người nhưng không được làm người, phải bán linh hồn cho quỷ dữ, bi kịch bị cự tuyệt làm người.

Ở đây, nét độc đáo và đặc sắc của Nam Cao là đã rọi vào tâm hồn của một con quỷ dữ, vực nó dậy, phát hiện được tất cả những bản chất tốt đẹp trong con ngươì Chí Phèo và khẳng định nó ngay khi xã hội đã huỷ hoại Chí Phèo mất cả hình người và tính người.Trước đây, Ngô Tất Tố viết “Tắt đèn”, cũng là viết về số phận của người nông dân nhưng ông nói về nỗi khổ vật chất,nỗi khổ khi gánh nặng sưu thế đè nặng trên vai những người nông dân nghèo và họ không có lấy một lối thoát dù là nhỏ.Còn Nam Cao, ông luôn quan tâm nhiều đến thế giới tinh thần của con người, đặc biệt day dứt trước tình trạng con người bị huỷ hoại về nhân cách bởi cuộc sống khốn cùng.Ông yêu thương nhân vật của mình và luôn muốn tìm lối thoát, vực họ đứng lên.Chí Phèo còn mới lạ ở nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật tài tình.Chỉ những cái tên : Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến… cũng đã để lại được những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.Cách khắc hoạ hình dángChí Phèo:”Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết” và một Thị Nở xấu đến “ma chê quỷ hờn” thì chỉ có ở tác phẩm của Nam Cao
 mới có.

Sự sáng tạo của Nam Cao còn thể hiện khi ông viết về tầng lớp trí thức nghèo.Tấn bi kịch của người trí thức nghèo trong xã hội cũ như một ám ảnh đối với nhà văn Nam Cao.Ông viết nhiều truyện mà “Đời thừa” là một trong số đó.Đời thừa đã thể hiện, phản ánh hết sức chân thật tình cảnh nghèo khổ, bế tắc, tủi nhục của người trí thức nghèo đồng thời ngòi bút rất mực sâu sắc của nhà văn đã tập trung đi sâu vào tấn bi kịch tinh thần của họ.Hộ là một nhà văn luôn theo đuổi một sự nghiệp nghệ thuật chân chính.nhưng giấc mộng văn chương, hoài bão lớn lao,lí tưởng đẹp đẽ mà Hộ theo đuổi lại mâu thuẫn với cuộc sống hàng ngày.Ta thấy nỗi đau của nhân vật Hộ là nỗi đau của con người tôn thờ lẽ sống tình thương nhưng lại chà đạp lên tình thương,một trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống nhưng lại phải sống một cách vô nghĩa.Nam Cao bằng những tác phẩm, những nhân vật của mình đã nói lên được những điều chưa ai nói đồng thời cảnh tỉnh người đọc trước nguy cơ xói mòn về nhân phẩm, nhân cách, bị chết mòn về tinh thần.”Từ chiều sâu tác phẩm vút lên tiếng kêu thống thiết phải thay đổi cuộc đời ngột ngạt ấy đi để cứu lấy con người, cứu lấy sự sống.”Nam Cao phân tích rất rõ, tinh tế những diễn biến tâm lý và những hành vi đối xử của nhân vật Hộ, xem mình là người trong cuộc.”Ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó, không châm biếm mỉa mai mà chân thành xúc động.”Nhà văn hoá Cao Xuân Dũng đã nói :”Nếu chỉ biết rập khuôn,chắp nhặt những cái xáo cũ thì cho dù câu đẹp lời hay, vẽ trăng tả gió cũng chỉ là bắt chước giọng điệu kẻ khác, chẳng nói lên được điều gì có giá trị.”Và Tôn-x-tôi cũng đã phát biểu :”Khi ta đọc hoặc quan sát những tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì một câu hỏi bao giờ cũng đặt ra là anh ta có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết và anh ta có thể cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về con người và cuộc sống.Văn học trong bất kì thời đại nào cũng cần những nét mới lạ và khác biệt.Những tác giả viết lên được những tác phẩm như thế thì mới thật sự có giá trị bền vững và lâu dài trong lòng người đọc.

Nam Cao là cây bút kết tinh những thành tựu tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám, đồng thời cũng là một trong số ít nhà văn có những sáng tác thành công xuất sắc ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.Thành công của Nam Cao có lẽ nhờ vào những nét mới mẻ, những phát hiện độc đáo trong sáng tác của ông, một con người đầy tài năng và nhân cách.Hơn nửa thế kỷ qua,không ít những tác phẩm của Nam Cao đã được nhiều thế hệ bạn đọc đón nhận và phát hiện ở đó những tầng ý nghĩa mới lạ.Nam Cao với tài năng của mình đã tạo nên được những trang viết bất hủ mặc cho thử thách của thời gian.

15 tháng 5 2016

Đời thừa là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu của Nam Cao về đề tài người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Đó là câu chuyện về sự giằng xé đến bi kịch của một nhà văn giàu khát vọng nhưng đồng thời cũng là một tuyên ngôn nghệ thuật có giá trị. Qua nhân vật Hộ – nhân vật nhà văn trong tác phẩm – Nam Cao đã gởi gắm những suy tư và những quan niệm sâu sắc của mình về nghề văn và sứ mạng của người cầm bút chân chính. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.

Câu nói ngắn gọn nhưng đã thâu tóm những yêu cầu thật là gắt gao, nghiêm túc đối với người sáng tác văn chương. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một kiều mẫu đưa cho là cách diễn tả hình ảnh, ám chỉ thứ văn chương đẽo gọt, khuôn sáo, hời hợt, một thứ văn chụp ảnh hoặc minh họa giản đơn. Người thợ dù là người thợ khéo tay thì cùng chỉ sản xuất ra những thành phẩm hàng loạt theo mẫu mã có sẵn, dù có khéo léo cùng chỉ là một hình thức bắt chước, theo khuôn mẫu. Lao động của nhà văn thì khác hẳn. Đó là quá trình nghiền ngẫm, khám phá, tìm tòi những nội dung mới và hình thức diễn tả mới để tạo ra những sản phẩm độc nhất vô nhị của riêng mình, mang bản sắc độc đáo của từng nghệ sĩ. Trong một truyện ngắn khác (truyện Những chuyện không muốn viết), Nam Cao cũng đã diễn đạt một cách thật là đặc thù hình ảnh lao động của nghề văn: “Cái nghề văn kị nhất là cái lối thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào" tức là nó tối kị sự sao chép, bắt chước. Với một yêu cầu thật nghiêm khắc về nghề, nhà văn quan niệm: “Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sảng tạo những cái gì chưa có”.

Đúng vậy. Mọi nghệ sĩ chân chính, có tài năng đều khao khát sáng tạo ra được những tác phẩm chân chính, sâu sắc. Nhưng không bao giờ họ bằng lòng với lối sao chép, rập khuôn hay phản ánh hiện thực cuộc sống trên bề mặt của nó. Nhà văn phải là người có cái nhìn nhạy bén và sâu xa hơn người để phát hiện những vấn đề sâu kín ở bề sâu của đời sống để đem đến cho người đọc những khía cạnh mới, những vấn đề mới đầy bất ngờ, sâu sắc, thú vị, có khả năng đánh thức vào trí tuệ trái tim, làm phong phú tâm hồn, thậm chí có thể làm thay đổi những thói quen, những nếp nghĩ thông thường. Mỗi sáng tạo của một nhà văn tài năng phải là một tìm tòi mới, một khám phá mới. 

Về thực chất, đây là một yêu cầu về tính chân thật trong sáng tạo nghệ thuật chứ không phải là sự đi tìm của lạ một cách màu mè, hình thức. Đó là một sự sáng tạo mang đậm nét bản sắc của chủ thể nghệ sĩ, mang dấu ấn tinh thần của cá nhân nhà văn từ cách nhìn, cách nghĩ đến cách viết. Đó chính là cá tính sáng tạo đã từng được đặt ra như một yêu cầu không thể thiếu của sáng tác văn chương. Thiếu nó sẽ không có nghệ thuật. Gorki, nhà văn Nga, cũng đã từng nhất mạnh: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là của riêng mình, hãy săn sóc nó phát triển tự do. Lúc một nghệ sĩ không có cái là của riêng mình thì phải thấy người đó không có gì hết”.

Ở đây, cái riêng không phải được hiểu như một phẩm chất, không chỉ tự nhiên mà có, nó phải được trau dồi, săn sốc, phát triển, tìm tòi, đào sâu không ngừng. Nghệ thuật bắt đầu từ thiên bẩm. Nhưng chỉ thiên bẩm không thôi cũng sẽ không có nghệ thuật. Nhà văn Nga L.Tôn-xtôi cũng đã từng nói: “Một phần mười là thiên bẩm còn chín phần mười là nước mắt, mồ hôi”. Người ta cũng ví nhà văn như người trinh sát, như nhà địa chất, với ý nghĩa nhấn mạnh vai trò khám phá, tìm tòi, phát hiện… đầy thử thách, gian khổ, có khi cần cả đến sự hi sinh của người nghệ sĩ.

Khám phá cho được sự thật, đào sâu, tìm tòi, khơi được những nguồn chưa ai khơi đã là khó. Những quan niệm nghệ thuật của Nam Cao không chỉ dừng ở đó. Nghệ thuật còn đòi hỏi sáng tạo những gì chưa có nữa. Đây cũng là một quan niệm rất đúng đắn về bản chất của sự sáng tạo nghệ thuật. Đó là sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp như Marx đã từng nói, là sự thể hiện cái thế giới ao ước, khát khao của con người. Cách đây khoảng 2400 năm về trước, nhà mĩ học người Hi Lạp Aristote cũng đã từng nói: “Nhiệm vụ của nhà thơ không chỉ nói về cái thực sự đã xảy ra mà cái lẽ ra có thể xảy ra”. Thơ là vậy, văn thực chất cùng như vậy.

Nhà văn Hộ trong Đời thừa của Nam Cao cũng khao khát sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị, một tác phẩm phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho .cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Đó chính là hiện thực của khát vọng, là cái lẽ ra mà Aristote đã nói và bao nhiêu nhà văn đã từng khao khát nhắn gửi trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, mỗi nhà văn có cá tính sáng tạo, sẽ có cách thức thể hiện khác nhau, tùy thuộc vào tài năng bản lĩnh, vốn sống, lí tưởng thẩm mĩ riêng biệt, độc đáo…

Như thế để thấy quan niệm của Nam Cao không phải hoàn toàn mới lạ. Tuy nhiên, ở Nam Cao đó không phải là một nhận thức lí luận được nhập cảng mà là một quan niệm được hình thành từ một cây bút có trách nhiệm, có tài năng, luôn luôn băn khoăn trăn trở về nghề và đã trở thành một ý thức thường trực, thành máu thịt, thành cảm hứng sáng tạo chi phối ngòi bút trong hầu hết các sáng tác của mình.

Đọc Nam Cao, ta được tiếp nhận một phong cách nghệ thuật thật là độc đáo, mới lạ: độc đáo từ cách phát hiện đề tài, xử lí đề tài đến hành văn, giọng điệu, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ… Đến cả cái tên của nhấn vật mà ông chon lựa cũng chẳng giống ai. Đó không phải là những Lan, những Ngọc, những Nhung, những Tuyết… mà là Lang Rận, Chí Phèo, Đĩ Chuột; là Lê Văn Rự, Trạch Văn Đoành… những cái tên mà chính tác giả cũng thấy nó như chọc vào lỗ tai. Cả tên các tác phẩm nhiều khi nghe cũng thật là ngộ nghĩnh (Rình trộm, Tư cách mõ, Thôi, đi về…).

Tuy nhiên, cái độc đáo của Nam Cao bộc lộ chủ yếu ở cách thức nhà văn đi sâu, tìm tòi, khám phá và diễn tả cái bề sâu của đời sống hiện thực. Cũng như các nhà văn hiện thực khác, ngòi bút của ông chủ yếu cũng hướng tới những con người bần cùng, khốn khổ. ông không hề làm ngơ, hờ hững trước chuyện rách áo, đói cơm vốn là một hiện thực phổ biến thời bấy giờ. Nhiều chuyện ông viết về miếng cơm, manh áo thật cảm động, xót xa, có thể làm rơi nước mắt… Nhưng trung tâm cảm hứng của ngòi bút Nam Cao chủ yếu hướng về nỗi khổ đau, vất vả về đời sống tinh thần, những nỗi đau xót âm thầm mà đữ dội, những bi kịch nội tâm, những xung đột giằng xé trong từng con người, từng số phận, giữa cái xấu và cái tốt, cái cao thượng và cái thấp hèn; cái nhân hậu vị tha và cái ích kỉ, độc ác…

Ít có ngòi bút nào lách sâu đến chỗ tận cùng của xung đột âm thầm mà dữ dội ấy như ngòi bút của Nam Cao. Ông ít miêu tả trực tiếp những xung đột và đấu tranh giai cấp trên bề mặt của đời sống, ông thiên về diễn tả những bi kịnh nội tâm với biết bao giằng xé, cắn rứt, tủi nhục, ân hận trong từng con người. Đừng nghĩ rằng chỉ những trí thức tiểu tư sản như Thứ (Sống mòn), như Điền (Trăng sáng), như Hộ (Đời thừa)… mới có bi kịch nội tâm, mới có những vật lộn, ray rứt, ân hận… Ngay cả Chí Phèo, một con người đã mất gần hết nhân tính, lúc tỉnh rượu cũng nhận ra một trạng thái dường như ăn năn, lão Hạc xung quanh chuyện bán con chó vàng cũng là cả một sự giằng xé âm thầm, dai dẳng… và khi đã bán rồi thì lão khóc hu hu vì khổ đau, ân hận. Lão không chỉ tiếc thương con chó, lão còn ân hận cắn rứt không thôi vì đã nỡ đánh lừa một con chó.

Ít có ai phát hiện, thấu hiểu và diễn tả tinh tế nỗi đau khổ, dày vò về tinh thần, những vẻ đẹp bên trong của những con người khôn khổ, tội nghiệp… như ngòi bút của Nam Cao.

Biệt tài của ông là khả năng khai thác, diễn tả thật cảm động xung quanh những chi tiết tầm thường, vặt vãnh, chẳng hạn: để mua cho con mấy tấm mía tốn một xu rưỡi, người mẹ khốn khổ kia đã phải trải qua bao nhiêu tính toán, biện bạch, xót xa, ân hận (Trẻ con không được ăn thịt chó) và ai biết trên đường đến nhà mụ phó Thụ để thăm cháu – thực chất là để kiếm miếng ăn – người bà đói khát kia đã suy nghĩ những gì? Ấn tượng của người đọc không phải là nỗi đói khát mà là nỗi xót xa bà cụ đành cam chịu chuốc lấy để đổi lấy miếng ăn nhục nhã (Một bữa no). Trong dòng văn học hiện thực phê phán hiếm có cây bút nào diễn tả cái tầm thường một cách xót xa và cảm động như thế. Viết về người nông dân hay người tiểu tư sản trí thức, ngòi bút của Nam Cao vẫn trước sau nhất quán. Đó là thái độ trân trọng, tin yêu đề cao nhân cách và phẩm giá con người. Một mặt nó tố cáo, lên án xã hội làm biến chất, tha hóa con người, mặt khác nó đánh thức tình yêu thương con người. Tác phẩm Nam Cao không chỉ lên tiếng đòi cơm áo, nó còn dõng dạc đòi quyền làm người lương thiện, quyền được ước mơ, quyền được sống xứng đáng với cuộc sống con người…

Chủ nghĩa nhân văn của Nam Cao rõ ràng sâu sắc hơn các nhà văn cùng thời với ông. Các nhà văn khác thiên về phản ánh nỗi đói khát bần cùng. Nam Cao đi sâu hơn vào vấn đề tha hóa, biến chất bởi đói khát, bần cùng, tàn bạo. Không phải chỉ Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức… mới tha hóa. Bao nhiêu kẻ phàm ăn tục uống, đối xử thô bạo, tàn nhẫn với vợ con cũng là những dấu hiệu biến chất, tha hóa. Những kẻ thâu đêm chầu bên canh bạc như những kẻ khát nước để cầu vận may để rồi rơi vào cảnh tan cửa nát nhà cũng đang tuột trên cái dốc của sự tha hóa. Cả những người trí thức có mộng văn chương đẹp như Hộ mà cũng phải cho in nhiều cuốn sách viết vội vàng để rồi người ta đọc và quên ngay sau khi đọc. Đó là một kiểu tha hóa.

Sự bần cùng đã xô đẩy bao nhiêu số phận tuột trên cái dốc tha hóa theo nhiều kiểu như một qui luật khó tránh khỏi. Không phải khòng có những con người trong bần cùng, khốn quần vẫn giữ được thiên lương như

Dì Hảo, như lão Hạc, như anh Đĩ Chuột… hoặc cuối cùng cũng trở lại thiên lương, nhưng số phận những con người ấy mới đau đớn, bi kịch làm sao, và rốt cuộc không bị tha hóa thì cũng rơi vào bế tắc, bần cùng, tự sát…

Chỉ ra qui luật của bần cùng, tha hóa vi đói rách nghèo hèn tác phẩm Nam Cao hầu hết đều thấm nhuần một tinh thần nhân văn, nhân đạo. Tác phẩm của ông như một tiếng chuông cảnh tỉnh, góp phần thức tỉnh lương tri. Sáng tạo ra nhân vật Thị Nở, một nhân vật thô kệch xấu xí đến ma chê quỉ hờn, nhưng chỉ một chút quan tâm săn sóc âu yếm của con người ấy, vẫn có thể đánh thức một bản tính người nơi Chí Phèo sông dậy. Điều ấy cho thấy tình thương có một sức mạnh cảm hóa to lớn như thế nào. Thị Nở xấu xí, nhưng qua nhân vật xấu xí này, Nam Cao lại gửi gắm một khát vọng và một niềm tin mãnh liệt, đẹp đẽ: tình thương có thể cứu vãn con người. Không phải chỉ mình Nam Cao nghĩ như thế, nhưng sáng tạo ra một nhân vật như Thị Nở để gửi gắm lí tưởng thẩm mĩ, ước mơ thì quả là một sự sáng tạo độc đáo, độc nhất vô nhị.

24 tháng 5 2018

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho bởi tư tưởng đạo đức, nhân nghĩa của ông

+ Người có tư tưởng đạo đức thuần phác, thấm đẫm tinh thần nhân nghĩa yêu thương con người

+ Sẵn sàng cưu mang con người trong cơn hoạn nạn

+ Những nhân vật lý tưởng: con người sống nhân hậu, thủy chung, biết sống thẳng thắn, dám đấu tranh chống lại các thế lực bạo tàn

- Nội dung của lòng yêu nước thương dân

+ Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ quốc

+ Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh

+ Ca ngợi những người sĩ phu yêu nước, giữ niềm tin vào ngày mai, bất khuất trước kẻ thù, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước

- Nghệ thuật của ông mang đậm dấu ấn của người dân Nam Bộ

+ Nhân vật đậm lời ăn tiếng nói mộc mạc, giản dị, lối thơ thiên về kể, hình ảnh mỗi nhân vật đều đậm chất Nam Bộ

+ Họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi phép tắc, nghi lễ, nhưng họ sẵn sàng hi sinh về nghĩa

QT
Quoc Tran Anh Le
Giáo viên
30 tháng 1

1. Một số điểm nổi bật về con người, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du:

- Nguyễn Du (1766? –1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới". Ông có một cuộc đời vô cùng gian truân và cực khổ.

- Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngòi bút của ông.

- Sự nghiệp văn chương:

+ Tác phẩm chữ Hán: "Thanh Hiên thi tập" (78 bài thơ), Nam trung tạp ngâm (40 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài thơ).

+ Tác phẩm chữ Nôm: "Đoạn trường tân thanh" (Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát; "Văn chiêu hồn" (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh).

- Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa thể loại truyện thơ Nôm lên một tầm cao mới. Tác phẩm của ông kết hợp giữa văn học phương Đông và phương Tây, từ đó tạo ra một thể loại mới mang tính cách riêng biệt và độc đáo. Truyện Kiều đã trở thành bản mẫu cho các tác phẩm truyện thơ Nôm sau này và là một trong những tác phẩm tiên phong trong việc phát triển văn học dân tộc Việt Nam.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
29 tháng 1

Nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa có những phương diện đáng chú ý:

- Mạch kể truyện

- Điểm nhìn kể chuyện

- Thái độ của người kể với nhân vật

- Lời trần thuật

- …

1. Mở đoạn: Nêu suy nghĩ về câu nói "Hàn gắn và tỏa sáng từ những nỗi đau"

- Đây là một suy nghĩ hoàn toàn đúng đắn, sau những nỗi đau ta sẽ tìm được cách để tự hoàn thiện bản thân mình tốt hơn. 

2. Thân đoạn:

- Giải thích về nghệ thuật Kintsugi:

Kintsugi có nghĩa là "dùng vàng để hàn gắn", đây là một nghề thủ công xuất hiện từ thế kỷ 15 dành riêng cho việc phục hồi gốm. Kintsugi là một loại hình nghệ thuật cổ xưa  có thể biến gốm vỡ thành những kiệt tác hồi sinh từ vàng. Bên cạnh đó, kintsugi cũng mang một ý nghĩa triết học sâu sắc về việc tập trung vào vẻ đẹp và sức mạnh tiềm ẩn trong cuộc sống. 

=> "Hàn gắn và tỏa sáng từ những nỗi đau" là cách ta học cách đứng dậy sau mỗi vấp ngã rồi tự chữa lành những vết thương, nâng cấp bản thân thành phiên bản tốt hơn. Tác phẩm của nghệ thuật Kintsugi là một kiệt tác thì chúng ta cũng có thể trở thành phiên bản hoàn hảo nhất nếu biết cách "Hàn gắn và tỏa sáng từ những nỗi đau"

- Phân tích:

+ Cuộc đời ta luôn gặp sóng gió, mỗi lần kinh qua khó khăn nào đó sẽ xuất hiện những tổn thương và vết sẹo không bao giờ biến mất nhưng nếu ta biết điểm tô biến "vết sẹo" thành điểm độc đáo. Nó sẽ là nét riêng không thể nào quên được trong mắt người khác.

+ Biến vấp ngã thành động lực hoàn thiện bản thân. Ta sẽ biết cách rút kinh nghiệm cho những lần sau tránh đi vào những vết xe đổ của người khác. 

+ Những nỗi đau sẽ hóa thành hành trang trong chiếc túi trải nhiệm trong cuộc sống.

Dẫn chứng: Walt Disney với cuộc đời đầy thăng trầm trước khi xây dựng đế chế phim hoạt hình Disney

- Bài học nhận thức: Không nên trốn tránh và chối bỏ những nỗi đau. Nếu không thể tự mình hàn gắn hãy tìm người để san sẻ. Chịu đựng nỗi đau một mình và tự dằn vặt bản thân sẽ không đem đến tín hiệu tích cực nào ngược lại còn khiến bản thân tự tổn thương 

-> Liên hệ bản thân...

3. Kết đoạn:

- Chốt lại và mở rộng thêm ý tưởng

- Khẳng định lại “Không có ai có một cuộc đời hoàn hảo. Nhưng ai cũng có thể lựa chọn để sơn vàng lên những mảnh vỡ của cuộc đời mình”.